Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng công tác quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm lớp
Trong các trường học, giáo viên chủ nhiệm (GVCN) được đánh giá là hạt nhân trong quá trình giáo dục phát triển toàn diện và hoàn thiện nhân cách học sinh (HS). Vì vậy, ngoài việc thực hiện tốt công tác chuyên môn trong các giờ lên lớp, GVCN thường phải tổ chức các hoạt động giáo dục, quan tâm tới từng học sinh, chăm lo việc rèn luyện đạo đức, hành vi và những biến đổi về tâm sinh lý của các em, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của học sinh với ban giám hiệu (BGH) nhà trường, với giáo viên bộ môn (GVBM) và gia đình các em. GVCN còn có vai trò cố vấn cho HS tổ chức các hoạt động trên lớp, hoạt động ngoài giờ và tư vấn hướng nghiệp cho HS (đối với học sinh THCS, THPT) trước khi các em chuyển cấp Như vậy đủ thấy được rằng GVCN có một vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục HS. Nhưng hiện nay, việc xây dựng đội ngũ GVCN lớp vẫn còn nhiều bất cập. Nhiều giáo viên nhận nhiệm vụ với tinh thần miễn cưỡng nên trong công tác chỉ triển khai nhiệm vụ BGH giao theo cách máy móc, thiếu sự quan tâm, tìm hiểu về tâm, sinh lý lứa tuổi, không nắm bắt được những diễn biến thay đổi tâm lý để phát hiện và uốn nắn kịp thời những lệch lạc của học sinh. Hiện nay, khi ngành GD& ĐT đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống vào nhà trường, thì sự vất vả của giáo viên chủ nhiệm lại tăng lên với những hoạt động ngoài giờ lên lớp, nhưng GVCN lại chưa được học cách tổ chức các hoạt động này một cách bài bản. Mặc dù trong những năm gần đây, công tác xây dựng đội ngũ GVCN đã được ngành GD&ĐT quan tâm như tổ chức các lớp bồi dưỡng thường niên trong dịp hè, để GVCN cũng như cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục hiểu được vai trò, chức năng, nhiệm vụ của GVCN; bồi dưỡng những kỹ năng cần thiết khi thực hiện nhiệm vụ công tác, trong đó giáo viên được nghe, được chia sẻ những kinh nghiệm hay, những bài học tốt để áp dụng vào thực tế, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, công tác GVCN đến nay vẫn chưa có nhiều chuyển biến do công tác bồi dưỡng còn ít cả về thời gian, phương pháp và lý luận. Trong khi đó, quá trình đào tạo ban đầu ở các trường sư phạm chỉ chú trọng những kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ giảng dạy, chưa chuẩn bị cho sinh viên đầy đủ những đòi hỏi từ thực tiễn về năng lực làm công tác GVCN. Một số nhà trường chỉ đánh giá công tác của GVCN lớp thông qua chất lượng giảng dạy mà chưa quan tâm đến chất lượng quản lí lớp.
Vì những lý do trên, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh nghiệm (SKKN) về “Nâng cao chất lượng công tác quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm lớp”.
được ngành GD&ĐT quan tâm như tổ chức các lớp bồi dưỡng thường niên trong dịp hè, để GVCN cũng như cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục hiểu được vai trò, chức năng, nhiệm vụ của GVCN; bồi dưỡng những kỹ năng cần thiết khi thực hiện nhiệm vụ công tác, trong đó giáo viên được nghe, được chia sẻ những kinh nghiệm hay, những bài học tốt để áp dụng vào thực tế, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, công tác GVCN đến nay vẫn chưa có nhiều chuyển biến do công tác bồi dưỡng còn ít cả về thời gian, phương pháp và lý luận. Trong khi đó, quá trình đào tạo ban đầu ở các trường sư phạm chỉ chú trọng những kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ giảng dạy, chưa chuẩn bị cho sinh viên đầy đủ những đòi hỏi từ thực tiễn về năng lực làm công tác GVCN. Một số nhà trường chỉ đánh giá công tác của GVCN lớp thông qua chất lượng giảng dạy mà chưa quan tâm đến chất lượng quản lí lớp... Vì những lý do trên, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh nghiệm (SKKN) về “Nâng cao chất lượng công tác quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm lớp”. II. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI: Nghiªn cøu rót ra những giải pháp tốt nhất để góp phần nâng cao chất lượng công tác quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường học. III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: - Đối tượng nghiên cứu: Những biện pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm lớp. - Phạm vi nghiên cứu: GVCN, GVBM và HS lớp 6 trường TH&THCS Song Giáp - Cao Lộc - Lạng Sơn. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 1. Phương pháp chủ yếu: - Phương pháp quan sát sư phạm. - Phương pháp điều tra giáo dục. - Phương pháp thực nghiệm giáo dục. 2. Phương pháp hỗ trợ: - Phương pháp tổng kết. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết. V. DỰ KIẾN CÁC KẾT QUẢ: Bằng tất cả sự nỗ lực của bản thân tôi cùng với sự quan tâm của BGH, hội đồng Đội, và tất cả các thầy cô trong nhà trường cũng như sự phối hợp của PHHS, tôi tin rằng đề tài SKKN này sẽ được thực hiện thành công. Và tôi dự đoán các kết quả đạt đươc như sau: HS biết vâng lời và yêu quý thầy cô giáo, biết xác định động cơ học tập đúng đắn, tập thể học sinh biết thương yêu đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. GVCN được HS và phụ huynh tín nhiệm, đồng nghiệp tin yêu. Kết quả cụ thể như sau: 1. Học lực, hạnh kiểm: Tổng số HS lớp 6: 13 em (1 khuyết tật). a) Học lực: - Giỏi: 01 = 8,3%. - Khá: 05 = 41,7%. - TB: 06 = 50%. b) Hạnh kiểm: - Tốt: 12/12 = 100%. - Khá: Không. c) Lên lớp thẳng: 12/12 = 100%. d) Duy trì sĩ số: 100%. 2. Các phong trào khác: Tham gia đầy đủ, nhiệt tình. B - NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI: I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: Khoa học giáo dục đã chứng minh, các em học sinh trong quá trình hình thành nhân cách luôn luôn chịu tác động bởi 3 yếu tố: Gia đình – Nhà trường – Xã hội. Mỗi yếu tố có chức năng riêng nhưng lại có quan hệ chặt chẽ , bổ sung hỗ trợ cho nhau. GVCN nằm trong yếu tố nhà trường. Ở gia đình, bố mẹ là người nuôi dưỡng con từ khi còn trong “Trứng” nên bố mẹ là người rất hiểu tính nết, sở thích, sức khỏe... của con mình. Nhưng không phải bố mẹ nào cũng đủ thời gian, kinh nghiệm, tri thức, phương pháp dạy con. Chẳng thế mà mà có câu “Dao sắc không gọt được chuôi”. Ở trường, GVCN là người được giao nhiệm vụ, theo dõi quản lý học sinh của lớp mình. Do đó GVCN cũng là người thứ hai sau cha mẹ học sinh hiểu học sinh mình nhất. Mặc dù là năm đầu tiên được nhận trọng trách làm GVCN lớp mà đối tượng lại là HS đầu cấp (lớp 6), tuy chưa có được nhiều kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm nhưng tôi nhận thấy rằng: Người GVCN nào chăm lo tới lớp của mình và có năng lực tổ chức quản lý tốt lớp thì lớp đó bao giờ cũng ngoan hơn, nề nếp hơn, tập thể lớp đó sẽ đoàn kết, vững mạnh. Một khía cạnh khác là, người giáo viên cần phải có được uy tín trước HS, uy tín ở đây chính là lòng kính trọng tin yêu, là lòng khâm phục, ngưỡng mộ của trò đối với thầy. Điều dó thể hiện qua lời nói, việc làm, hành động, trang phục, tư thế tác phong, cách thức cư xử ... và sự hấp dẫn trong từng tiết học của người GVCN. Bên cạnh chữ “UY” thì phải nói tới chữ “TÂM” của GVCN. Chữ “TÂM” được hiểu ở đây là lòng thương yêu trẻ đích thực, là lòng tâm huyết với công việc của mình. Người GVCN cần phải quản lý lớp, giáo dục HS bằng tình yêu thương. Kinh nghiệm của bản thân tôi: HS yêu quí thầy cô nào thì sẽ thích học và sẽ nghe theo lời thầy cô ấy. Theo quan niệm của Hồ Chí Minh con người ta khi mới sinh ra vốn bản chất là tốt, nhưng chỉ sau do ảnh hưởng của giáo dục và môi trường sống cùng sự phấn đấu, rèn luyện của mỗi cá nhân mà hình thành những con người thiện, ác khác nhau. Câu nói của người xưa trong Tam Tự Kinh: “Nhân chi sơ, tính bản thiện” đã từng được Người nhắc lại nhiều lần trong các bài viết, bài nói chuyện. Theo Người con người sinh ra bản chất là tốt, song trong xã hội luôn có thiện và có ác nên trong bản thân mỗi con người cũng có thiện và ác. Cái ác có là do ảnh hưởng của xã hội và sự biến đổi của mỗi người. Do đó, giáo dục làm một nhiệm vụ vô cùng cần thiết là rèn luyện, biến đổi dần dần tính cách con người, hướng người ta đến sự hoàn thiện của một nhân cách tốt đẹp, xây dựng một xã hội với những con người có ích và hướng thiện. Là một GVCN lớp tôi rất mong muốn học trò của mình là những con ngoan, trò giỏi, tài đức vẹn toàn để sau này lớn lên các em tự tin, năng động, có đủ bản lĩnh bước vào đời, trở thành những người công dân có ích cho xã hội. Đồng thời, tôi rất mong muốn mình là người giáo viên được phụ huynh tin tưởng khi gửi gắm con em mình. Với đề tài SKKN này, tôi rất mong sẽ góp phần nhỏ bé của mình trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ GVCN của ngành GD nói chung, của trường TH&THCS Song Giáp nói riêng. II. THỰC TRẠNG: 1. Thuận lợi: Được sự lãnh đạo và chỉ đạo thường xuyên của Ban lãnh đạo phòng GD&ĐT huyện Cao Lộc. Được sự quan tâm của chính quyền địa phương, BGH và Công đoàn nhà trường, sự phối hợp của hội phụ huynh học sinh cùng tập thể giáo viên trong nhà trường. Đa số các em học sinh chăm ngoan, hiếu học, biết lễ phép với thầy cô giáo, đoàn kết, hòa nhã với bạn bè. Cơ sở vật chất của nhà trường tuy còn thiếu thốn nhưng có được bầu không khí trong lành, không gian thoáng mát, sân trường sạch sẽ với nhiều cây và hoa tạo cho con người tâm trạng thoải mái, dễ chịu do đó việc dạy và học cũng đạt được hiệu quả tốt hơn. 2. Khó khăn: Về phía học sinh: Một số HS chưa xác định đúng đắn động cơ và mục đích học tập. Phần lớn học sinh đang ở lứa tuổi thay đổi về tâm, sinh lý, rất hiếu động, các em dễ bị nhiễm những thói quen xấu của các bạn khác. Một số HS chưa chăm chỉ học tập, còn quay cóp, chưa có ý thức tự giác trong học tập và các phong trào chung của lớp... Về phía gia đình: Một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến việc học hành của con em mình, họ phó thác hết trách nhiệm giáo dục cho nhà trường. Đa số gia đình có hoàn cảnh khó khăn, vì phải lo kiếm sống mưu sinh nên chưa dành nhiều thời gian đến việc học tập của con cái. Về phía xã hội: Hiện nay, xã hội đang xuất hiện và nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội như: ma tuý, cờ bạc, rượu chè. Những tệ nạn đó ảnh hưởng lớn đến nền tảng đạo đức và thuần phong mĩ tục của dân tộc. Trong khi đó HS của chúng ta là đối tượng rất dễ bắt chước, rất dễ bị lôi cuốn vào những trò mới lạ đặc biệt là những học sinh cá biệt. Đây là nỗi lo không những của các bậc làm cha, làm mẹ, các thầy, cô giáo mà và cũng là nỗi nhức nhối chung của toàn xã hội. Về phía nhà trường: Chưa có GVCN nào được đào tạo bài bản qua trường lớp để trở thành một người GVCN thực thụ. Hầu hết nhứng đồng chí được phân công làm GVCN lớp còn thiếu kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm và quản lý lớp, nghiệp vụ sư phạm còn nhiều hạn chế. Một số ít giáo viên chưa thực sự nhiệt tình và trách nhiệm trong việc giáo dục HS. III. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT: GVCN phải là một công dân gương mẫu có lối sống lành mạnh, biết sống vì mọi người, không chỉ cần có cái “Tài” mà còn phải có một cái “Tâm” rất lớn. Chỉ có như thế mới đáp ứng và thực hiện tốt yêu cầu mà xã hội đã tín nhiệm giao phó. Các biện pháp cụ thể: 1. Nắm vững tình hình lớp chủ nhiệm: Muốn giáo dục học sinh thì phải hiểu được tâm tư tình cảm nguyện vọng của các em. Nhưng làm thế nào để hiểu được những điều ấy một cách tường tận? Theo tôi đó là tiếp cận với lớp chủ nhiệm nghĩa là chúng ta phải tiếp xúc gần gũi trò chuyện tìm hiểu về hoàn cảnh, đặc điểm tâm sinh lí, tính tình sở thích của các em. Vì vậy trước tiên khi phụ trách lớp tôi đã tìm hiểu học sinh qua các mặt như thành phần gia đình: Con thương binh, liệt sĩ; Con dân tộc; Con mồ côi cha mẹ; HS có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế; Học lực và hạnh kiểm năm học trước... Bước 1: Điều tra lí lịch HS qua hồ sơ tiếp nhận đầu vào của nhà trường. Bước 2: Để kiểm tra độ chính xác của các thông tin mà tôi thu thập được tôi đã cố gắng tìm hiểu thông qua nhiều cách khác nhau như từ các đồng nghiệp, người quen, chính quyền địa phương, đến thăm gia đình một số HS, Qua đó sẽ hiểu biết cụ thể hơn, chi tiết hơn hoàn cảnh gia đình các em. Từ đó tôi có những hình thức, những biện pháp giáo dục linh hoạt phù hợp với từng em bởi giáo dục không phải là một công thức chung có sẵn. Bên cạnh đó tôi tìm hiểu thêm về các em qua GVCN lớp của năm trước, đồng thời liên hệ với các GVBM để có thêm những thông tin chính xác về các em. Bước 3: Đây là bước tiến hành thường xuyên ở từng giai đoạn. Tôi cung cấp số điện thoại của bản thân, của nhà trường đến từng em và liên hệ với gia đình HS qua điện thoại, sổ liên lạc. Đây là sự liên hệ hai chiều qua lại giữa nhà trường với gia đình, giữa GVCN với PHHS. Bằng các hình thức liên hệ đó tôi sẽ nắm được những diễn biến về đạo đức, về học tập của các em từ đó có thể đánh giá hiệu quả những tác động sư phạm đồng thời điều chỉnh phương pháp giáo dục kịp thời, hợp lý. 2. Ổn định nề nếp, xây dựng lớp tự quản tích cực: Ở lứa tuổi THCS, thiết nghĩ các em có thể phát huy khả năng tự quản, phát huy trách nhiệm của bản thân, trong mọi công việc trên tinh thần dân chủ, tôi luôn tôn trọng tin tưởng và giáo dục cho các em ý thức tự giác, tích cực phê bình và tự phê bình. Kích thích tính tự trọng và tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ ở mỗi HS. Để xây dựng một tập thể tự quản tốt, muốn ổn định nề nếp học tập thì cần có đội ngũ cán bộ lớp năng động, nhiệt tình, trách nhiệm. Vì lẽ đó bầu ban cán sự lớp là một việc cần phải có suy nghĩ tính toán kỹ lưỡng. Trong buổi sinh hoạt lớp đầu năm tôi đã làm các công việc sau: Bầu ban cán sự lớp: Bầu tổ trưởng; Bầu Ban Cán sự phụ trách bộ môn; Phân công nhiệm vụ cụ thể; Lớp Trưởng: Theo dõi mọi hoạt động của lớp điều khiển các tiết sinh hoạt hàng tuần, tổng hợp và báo cáo kết quả thi đua về mọi mặt của lớp hàng tuần, hàng tháng, học kì, năm học và có báo cáo cho GVCN. Lớp phó học tập: theo dõi về mặt học tập của lớp, giải đáp mọi thắc mắc của các bạn về học tập, lập kế hoạch giúp đỡ các bạn học sinh yếu kém vươn lên, bảo quản sổ ghi đầu bài và báo cáo cho lớp trưởng kết quả học tập của lớp hàng tuần, hàng tháng. Lớp phó lao động: Chịu trách nhiệm về mặt lao động vệ sinh của lớp, phân công trực nhật, kết hợp với lớp trưởng quản lí lớp lao động và báo cáo kết quả cho GVCN. Lớp phó văn thể: Theo dõi, điều khiển các hoạt động văn nghệ của lớp, tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao do Đội và nhà trường tổ chức. Cờ đỏ: Giám sát việc thực hiện nội quy của lớp bạn cũng như của lớp mình, báo cáo kết quả cho GV Tổng phụ trách Đội và GVCN về tình hình của lớp. Tổ trưởng: Theo dõi các hoạt động của tổ, nắm kết quả học tập của từng tổ viên và báo cáo cho lớp trưởng tổng hợp. Sắp xếp chỗ ngồi: Chú ý tới vóc dáng chiều cao, giới tính, học lực (Thấp ngồi trước, cao ngồi sau; nam - nữ xen kẽ; HS Giỏi - Yếu, Khá - Trung bình ngồi cùng bàn; Tỉ lệ Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu ở các tổ đều nhau). Một số yêu cầu khác: Học nội quy nhà trường, thảo luận và đề ra nội quy của lớp. Các em chép nội quy nhà trường và về nhà theo dõi xin ý kiến của PHHS. Qui định về thưởng phạt: Cuối mỗi học kì, bất kì HS nào có ý thức vươn lên, phấn đấu trong học tập, rèn luyện đạt kết quả tốt nhất có thể được khen thưởng 3 cuốn vở/ HS.(Trích từ quỹ lớp, GVCN hỗ trợ thêm,). 3. Sinh hoạt lớp hàng tuần: Tiết sinh hoạt rất quan trọng vì đây là thời gian GVCN tiếp xúc, gần gũi nhất với lớp. Theo tôi, GVCN là chỗ dựa tin cậy nhất cho các em khi gặp các khó khăn trong quá trình học tập cũng như trong cuộc sống, vì vậy buổi sinh hoạt lớp phải đạt được các mục tiêu sau: Tạo cho HS một tâm lý thoải mái, gần gũi, sẵn sàng chia sẻ với giáo viên những vướng mắc khó khăn của mình trong quá trình học tập. Khích lệ động viên HS và chuẩn bị một tâm thế sẵn sàng học tập, sẵn sàng tiến bộ. Hướng dẫn thêm kỹ năng sống, kỹ năng học tập.Tự nhận ra các lý do, nguyên nhân yếu kém của mình và sẵn sàng khắc phục sửa chữa. Vì vậy, ở tiết sinh hoạt chủ nhiệm tôi thực hiện đổi mới nội dung sinh hoạt lớp: Tổng kết ưu điểm khuyết điểm đánh giá việc học tập của lớp cũng như đề ra những biện pháp khắc phục khuyết điểm, phát huy ưu điểm, từ đó xây dựng phương hướng cho tuần tới. Tiết sinh hoạt chủ nhiệm không nặng nề mà rất cần sự góp ý, phê bình một cách chân tình trên tinh thần xây dựng làm cho tập thể lớp tốt hơn, điều cần nhất là làm cho các em cảm nhận được sự thân thiện, gần gũi. 4. Thái độ của GVCN đối với tập thể lớp: Để lớp đi vào nề nếp, chăm chỉ học tập, nhiệt tình tham gia các hoạt động, tôi đã bám sát kế hoạch giảng dạy từng học kì, kế hoạch Đội để đề ra kế hoạch hoạt động cho lớp chủ nhiệm. Lớp tiến hành hoạt động theo sự quản lí và theo dõi của Ban cán sự lớp có sự kiểm tra đôn đốc của GVCN. Hàng tháng GVCN tổ chức điều khiển lớp đánh giá, xếp loại từng HS, trong đó GV có những lời khen, lời động viên, khích lệ đúng lúc, kịp thời đối với những em có sự tiến bộ, đồng thời uốn nắn những hành vi sai trái, vi phạm của HS. Việc làm này tôi thực hiện thường xuyên liên tục, kiên trì không hề bỏ qua dù bất cứ lí do nào. Tôi luôn luôn giữ uy tín đối với học sinh, nói và làm luôn đi đôi với nhau, làm đến nơi đến chốn. Ngoài ra, tôi còn sắp xếp thời gian để đọc nhiều tài liệu, thường xuyên theo dõi thời sự, tin tức, nhằm làm phong phú kiến thức cho bản thân từ đó giúp cho việc giáo dục học sinh đạt hiệu quả cao hơn. Đến lớp giáo viên luôn tạo sự vui vẻ lạc quan nhiệt tình, không nên chán nản, buồn rầu nhất là những chuyện buồn của cá nhân. Khi vào lớp phải ăn mặc chỉnh tề, gọn gàng, lịch sự nhằm tạo ấn tượng tốt đẹp cho học sinh cũng như PHHS. 5. Kết hợp với các lực lượng giáo dục khác: Phối hợp với gia đình HS: Mỗi gia đình có một hoàn cảnh riêng, có gia đình có điều kiện kinh tế, có thời gian luôn quan tâm theo dõi sát sao chuyện học tập của con em thậm chí là luôn đưa đón con cái đi học, theo dõi việc học tập của các em hàng ngày. Nhưng cũng có gia đình cha mẹ phải đầu tắt mặt tối đi sớm về khuya, họ không có thời gian để quan tâm con cái, mặc dù ai cũng muốn con mình học giỏi, ngoan ngoãn. Vậy làm thế nào để PH nào cũng nắm bắt kịp thời kết quả học tập của con em mình? Tôi thiết nghĩ khi phối hợp với gia đình HS, người GVCN cần thông minh, linh hoạt trong mọi tình huống. Phối hợp với BGH nhà trường: Mỗi tháng BGH tổ chức họp hội đồng một lần đề ra kế hoạch chủ nhiệm của GVCN ở các khối lớp. Kế hoạch của BGH chính là “Kim chỉ nam” cho mỗi GVCN. Đồng thời trong những lần họp định kỳ, nếu gặp khó khăn gì trong quá trình thực hiện tôi sẽ trình bày với BGH để xin ý kiến chỉ đạo. Phối hợp với các GVBM: Thường xuyên thông báo trao đổi với GVBM về tình hình học tập của lớp, cũng như của từng HS, để giáo viên nắm bắt được khả năng trình độ của các em mà có phương pháp giảng dạy thích hợp. Nhằm nắm bắt kịp thời tình hình học của các em tôi thường xuyên xem và theo dõi sổ điểm của GVBM để xem qua điểm số của các bài kiểm tra 15 phút và 45 phút. Với cách làm này tôi sẽ nắm bắt được kết quả học tập của từng em và thông báo về gia đình để gia đình cùng nhà trường có biện pháp giáo dục tích cực. Theo tôi nghĩ không nên để các em mất căn bản mà phải điều chỉnh kịp thời đúng lúc bởi thông thường khi đã mất căn bản môn nào rồi thì các em sẽ chán học môn đó thậm chí không có cảm tình ngay với giáo viên phụ trách bộ môn đó. Phối hợp với Đội TNTP HCM: Ngoài việc các em học tập kiến thức văn hóa thì các em còn tham gia các hoạt động của Đội. Thông qua những hoạt động của Đội, các em sẽ được rèn luyện thêm nhiều phẩm chất của người học sinh cần có như là: tình đoàn kêt, lòng nhân ái, tinh thần cầu tiến, GVCN cần phối hợp với Đội trong nhà trường, hiểu biết về hoạt động Đội và luôn động viên, nhắc nhở, uốn nắn các em thực hiện tốt các chương trình do Đội đề ra. C - KẾT LUẬN Người GVCN như “Người mẹ hiền thứ hai”. Mỗi việc làm lời nói của người giáo viên chủ nhiệm ảnh hưởng rất lớn trong việc hình thành nhân cách học sinh. Người mẹ ấy là một trong những nhân tố vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho học trò. Bởi vậy để làm tốt công tác giáo dục HS chúng ta rất cần có những người GVCN giỏi, có phẩm chất đạo đức, tâm huyết với nghề. Vì thế, việc nâng cao chất lượng đội ngũ GVCN là một việc làm rất quan trọng và thiết thực. Để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm trong tình hình mới, ngành GD&ĐT cần xây dựng chương trình bồi dưỡng thường xuyên, khuyến khích các đơn vị bình bầu, tôn vinh danh hiệu GVCN giỏi, tạo các phong trào thi đua, tìm tòi, học hỏi, chăm lo công tác GVCN, khuyến khích giáo viên viết SKKN về công tác chủ nhiệm lớp để thông qua đó trao đổi, học hỏi, rút kinh nghiệm trong công tác. Các trường sư phạm cũng cần chú trọng đến việc dạy kỹ năng làm công tác chủ nhiệm lớp cho sinh viên, để khi ra trường, các giáo viên có thể trở thành những GVCN, đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới, góp phần giáo dục toàn diện cho HS. Tóm lại, để làm tốt công tác chủ nhiệm, đòi hỏi người GVCN không chỉ là một giáo viên dạy tốt môn học văn hoá, phải quan tâm đến chất lượng hai mặt giáo dục là học lực và hạnh kiểm của HS mà còn phải quan tâm đến sự phát triển ở HS về các giá trị đạo đức, thẩm mỹ, thể chất, Do vậy, theo tôi, hai yếu tố cốt lõi không thể thiếu đối với người GVCN lớp đó là “cái tài” của một nhà tâm lí và “cái tâm” của một nhà giáo dục. Khi kết hợp nhuần nhuyễn, hoà quyện hai yếu tố này thì người giáo viên nói chung, người GVCN lớp nói riêng sẽ có thể làm tốt trách nhiệm của mình trong thời đại mới ngày nay và hơn thế làm thăng hoa nhân cách của mình trong lòng bao thế hệ đồng nghiệp và học trò yêu dấu. Trên đây là SKKN của tôi về việc “Nâng cao chất lượng công tác quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm lớp". SKKN này còn nhiều hạn chế .Tôi rất mong nhận được sự đóng góp quý báu của BGH nhà trường và các đồng chí trong Ban xét duyệt SKKN cùng toàn thể các đồng nghiệp để SKKN này được hoàn thiện hơn./. Song Giáp, ngày 25 tháng 10 năm 2012 Người thực hiện: Phương Thị Mỹ Liên PHẦN NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT SKKN CẤP TRƯỜNG .
File đính kèm:
- SKKN_ve_viec_nang_cao_chat_luong_doi_ngu_giao_vien_chu_nhiem_lop.doc