Sáng kiến kinh nghiệm Mười hai biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 1B trường tiểu học Vạn Thọ 1
Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực được quan tâm hàng đầu trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu của đất nước ta trong việc tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển mang tính bền vững của quốc gia.
Tại điều 2 chương I, Luật Giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 cũng đã xác định: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Giáo dục đạo đức là một trong những mặt giáo dục quan trọng trong mục tiêu giáo dục của nhà trường ở nước ta hiện nay. Nó có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của con người - nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển của đất nước. Đối với dân tộc Việt Nam: Đạo đức là vốn quý của con người, cái “đức” là nền tảng, là căn bản của con người.
Vì vậy, trong bất kì xã hội nào, nghề giáo cũng luôn được đề cao và quý trọng. Đặc biệt là trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nghề giáo lại càng được tôn vinh và được xem là một nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý. Cái nghề “truyền chữ”, “trồng người” này lại không đơn giản, nhất là ở lứa tuổi của các em học sinh mới chập chững làm quen với mái trường, thầy cô, bạn bè đó là học sinh bậc tiểu học. Đây là lứa tuổi rất nhạy cảm và rất quan trọng để các em định hướng trưởng thành sau này. Chính vì thế Bác Hồ đã nói “.Một năm bắt đầu từ mùa xuân, một đời bắt đầu từ tuổi trẻ ”. Vì vậy nếu không giáo dục, không uốn nắn các em ngay từ đầu thì rất khó để cho các em nắm vững kiến thức, không làm chủ được bản thân và cũng sẽ khó trở thành người có tài, có đức phục vụ cho đất nước sau này.
ôi lúc ta cũng phải cứng rắn: chẳng hạn trong vấn đề xử phạt “mềm nắn, rắn buông”. Nếu học sinh có thói hư tật xấu phạm lỗi trầm trọng cũng có thể tùy trường hợp hay tùy đối tượng mà xử lí, tôi không xử lí một cách cứng nhắc. Dù lỗi lầm lớn nhưng nếu em đó biết nhận lỗi và sửa lỗi thì tôi luôn tạo cho học sinh đó cơ hội tự làm chủ bản thân, có niềm tin nghị lực để vươn lên. Thế nhưng đối với những học sinh lỗi vi phạm không đáng kể nhưng lại vi phạm thường xuyên thì tôi không thể bỏ qua mà xử lí một cách linh động tùy theo từng đối tượng. Dù các em vi phạm ở mức độ lỗi lớn hay nhỏ giáo viên cũng xử lí trên cơ sở giáo dục các em, cụ thể cho em đó biết chuộc lỗi, làm một việc tốt, giao cho em đó thời gian thử thách. 3.6. Kiên trì tạo niềm tin cho học sinh Chúng ta hãy thử hòa mình vào phong cách sống của các em xem sao? Để điều hành được học sinh “cá biệt”, người thầy phải sắm đủ các vai. Khi thì nhà mô phạm nghiêm khắc, lúc lại là cái vai cho các em gục đầu vào. Khi thì nhà tâm lý, lúc lại là bác sĩ trị liệu, khi thì ông trọng tài, lúc khác lại là người cố vấn... Cứ như thế, kiên trì cho đến khi các em tự nhận ra tại sao mình phải thay đổi. Từ cảm giác cô đã không chối bỏ mình, không chê mình, luôn khen ngợi, động viên và tặng trái tim ghi điểm thưởng..., các em dần phát hiện ra giá trị của bản thân, cảm thấy mình hữu ích và được việc... Thế là tinh thần học tập được nhân lên, tạo ra sự tương tác và cộng hưởng. Giáo viên nên thường xuyên trò chuyện, quan tâm, gần gũi, nhắc nhở, động viên học sinh học tập, có thái độ thân thiện với học sinh. Tạo cho học sinh nhìn mình là cảm thấy gần gũi, chứ không phải gặp mình là sợ la, sợ bị mắng. Như vậy học sinh sẽ có tâm lý bất cần “Thầy cô kệ thầy cô, ta là ta”. Ta phải làm sao tạo cho học sinh có cảm giác là giáo viên như là một người bạn thân, bạn tâm tình, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của mình, khi mình vui, buồn đều có thể chia sẻ với thầy cô, khích lệ mình khi mình khó khăn trong gia đình, bế tắc trong học tập. Giáo dục từng bước, chậm rãi từ những công việc nhỏ. Chẳng hạn phải thức sớm một chút để không phải đi trễ, mình học yếu thì nên chịu khó, siêng làm bài tập hơn các bạn, khi nào làm bài tập, học sinh mệt thì nên giải lao để tinh thần thoải mái rồi làm tiếp, không nên cố gắng quá sức. Giáo viên không nên giáo dục ào ạt chưa hỏi han lý do gì hết mà đã la mắng học sinh cho dù học sinh đó vi phạm nhẹ, như vậy sẽ mất hiệu quả giáo dục. Bởi vì đấy là những học sinh cá biệt, tính tình ương ngạnh, tâm lý bất cần, học hay không đối với bản thân học sinh không quan trọng mà học sinh vào lớp là chỉ được "lãnh lương" hàng ngày, không phải làm những việc nặng nhọc bằng tay chân ở nhà. 3.7. Giáo viên phải biết làm mới tiết dạy của mình Giáo dục học sinh cá biệt còn một yêu cầu quan trọng là thầy, cô phải giỏi nghề. Thầy, cô phải luôn cải tiến, đổi mới phương pháp giảng dạy. Tiết sau “mới” hơn tiết trước. Sau một tiết học, trò học được nhiều tri thức bổ ích tạo nên sự đam mê học hỏi, khám phá tự tin, khẳng định mình. Thầy, cô biết “cuốn” học sinh vào trò chơi học tập, sẽ “lấp” thời gian “chết”, trò không “nhàn cư” nghịch, vẽ tranh, chơi đồ chơi ngay trong tiết học. Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể những việc mà học sinh hỏi, tránh để học sinh cảm thấy mình lạc lõng, cảm giác vì mình học dở nên không ai quan tâm, ai cũng khi dễ mình, không ai thèm chơi, để ý đến mình. Giáo dục học sinh cá biệt là một nghệ thuật, nghệ thuật dạy trẻ. Thầy, cô đứng trên bục giảng phải đóng nhiều vai: Tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên, cả khán giả - tức học sinh ngồi nghe giảng trên lớp. Làm thầy, nhưng phải hiểu trò đang nghĩ gì, làm gì trong giờ học. Bài giảng là một “món ăn”, nếu nhàm chán, học trò sẽ bỏ ăn - bỏ học. 3.8. Phải biết động viên kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng Giáo viên phải biết trân trọng những gì là tốt dù rất nhỏ của học sinh. Một lời động viên khích lệ kịp thời khi các em chỉ có một việc làm tốt rất nhỏ cũng đủ làm cho các em thấy tự tin hơn, thấy mình thực sự có ích. Hãy mạnh dạn giao việc cho chúng, hướng dẫn các em để chúng làm theo định hướng của mình nhưng vẫn phải để “Đất” cho các em thể hiện tính sáng tạo, tuyệt đối không được áp đặt. 3.9. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng giáo dục trong xã hội Chúng ta cần biết sử dụng và phát huy hợp lí giá trị, tác dụng của dư luận xã hội. Phát huy vai trò của ban đại diện hội cha mẹ học sinh. Tổ chức các buổi ngoại khóa, kết hợp với những người cao tuổi, có uy tín trong làng xã, mời họ đến trường nói chuyện, nhờ họ tuyên truyền giáo dục giúp nhà trường. Thường xuyên thăm gia đình học sinh để tìm hiểu hoàn cảnh, tạo sự gần gũi giữa giáo viên, học sinh và phụ huynh học sinh. Không nên chỉ khi các em có khuyết điểm mới đến thăm gia đình. 3.10. Nhà trường tích cực đổi mới phương thức quản lý, hoạt động Đẩy mạnh và đổi mới các hoạt động tập thể, xây dựng môi trường thân thiện, xây dựng cơ sở vật chất, khu vui chơi giải trí, thể thao. Tổ chức các buổi hoạt động tham quan dã ngoại để lôi cuốn các em đến trường, làm cho các em thực sự thấy “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Sưu tầm và đưa các trò chơi dân gian, có thể sáng tạo các trò chơi dân gian cho phù hợp với thời đại ngày nay vào trong nhà trường. Tăng cường đưa giáo dục pháp luật, giáo dục an toàn giao thông, giáo dục sức khỏe, giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường để các em có đủ hành trang bước vào cuộc sống, không bị bỡ ngỡ, bất ngờ. Khi gặp phải những tình huống bất ngờ các em biết bình tĩnh xử lý hiệu quả nhất. 3.11. Giáo dục học sinh thông qua giờ sinh hoạt trường, sinh hoạt lớp Để cho học sinh nắm bắt được việc đánh giá xếp loại hạnh kiểm tức là những chuẩn mực các em đạt được trong quá trình rèn luyện của mình, nhà trường cần phải thông báo cho các em biết được các mức độ xếp loại. Hiểu được thì các em sẽ tránh được vi phạm mà các em mắc phải, để rồi các em khỏi phải liệt vào danh sách học sinh cá biệt. Tổ chức cho học sinh thảo luận nội quy nhà trường và hướng dẫn cho các em thực hiện nội quy, có chế độ khen chê công bằng, khách quan. Trong buổi chào cờ đầu tuần, cần phải đánh giá nhận xét chu đáo, nêu gương người tốt, việc tốt để các em noi theo, hạn chế những vi phạm nội quy lớp học, trường học . Ngoài việc giáo dục học sinh thông qua giờ sinh hoạt trường, giờ sinh hoạt lớp cũng rất quan trọng trong vấn đề này. Bởi vì thông qua giờ sinh hoạt lớp giáo viên chủ nhiệm có thể kịp thời uốn nắn những sai trái khuyết điểm của học sinh khi bị vi phạm, lấy tình cảm bạn bè, lấy nghĩa thầy trò làm cho các em thấy được khuyết điểm của mình. Đồng thời với sự chân thành của giáo viên chủ nhiệm, học sinh trong lớp, học sinh khi vi phạm sẽ sớm nhận ra lỗi lầm của mình mà sửa chữa. Trong khi giáo dục các em, giáo viên chủ nhiệm không nên nặng về kiểm điểm, phê bình, mà phải tìm ra và xác định đúng nguyên nhân đã tác động đến các em làm cho các em mắc sai lầm, vi phạm, vận dụng những điều khoản trong nội quy, trong quy định xếp loại làm cho các em thấy được việc vi phạm ở mức độ nào và nêu ra hướng cho các em khắc phục. Ngoài ra, giáo dục đạo đức học sinh thông qua chương trình phát thanh măng non hàng tuần nhằm khắc phục việc không có nhiều thời gian giáo dục đạo đức trong tiết học. Hoạt động Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 đã có sáng kiến tuyên truyền giáo dục đạo đức học sinh thông qua chương trình phát thanh măng non hàng tuần; thông qua các câu chuyện kể về Bác Hồ trong các buổi chào cờ đầu tuần, các câu chuyện hay, các gương người tốt, việc tốt 3.12. Phối hợp chặt chẽ với gia đình Điều quan trọng trong công tác chủ nhiệm là giáo viên cần phối hợp một cách chặt chẽ với phụ huynh học sinh trong quá trình giáo dục các em. Lưu ý rằng: khi tiếp xúc với phụ huynh học sinh cá biệt cần tránh cho họ sự tổn thương cần thiết. Thường thì những học sinh cá biệt sẽ hoàn cảnh sống đặc biệt, do gia đình mâu thuẫn, cha mẹ hay cãi vã, hoặc là do các em thiếu thốn tình cảm, thiếu sự quan tâm cũng như chăm sóc từ cha mẹ và cũng có thể là do cha mẹ quá nuông chiều với muôn ngàn lý do khác. Mặt khác, cha mẹ luôn coi con cái của mình là thứ quý giá nhất, cho dù chúng hư hỏng, khó dạy bảo đến đâu Cho nên khi nghe tin có giáo viên đến nhà thăm, hay điện thoại báo tin là bản thân họ lại không muốn tiếp, không muốn nghe. Và nếu có tiếp hay nghe điện thoại của thầy cô thì cũng với thái độ bực dọc, thậm chí là bất cần, vì mấy ai thích nghe người khác kể tội con mình. Vì vậy, khi tiếp xúc với phụ huynh, giáo viên nên đặt vị trí của mình vào trong suy nghĩ, tình cảm của cha mẹ các em để phân tích, lý giải thiệt hơn. Hãy cố gắng tìm hiểu những khó khăn của các bậc phụ huynh trong việc quản lý, cũng như dạy dỗ con em mình để cùng nhau tìm biện pháp giáo dục tốt nhất. Giáo viên nên lập kế hoạch đi thăm gia đình học sinh trong lớp, đặc biệt là học sinh cá biệt, mỗi tháng thăm được ít nhất 2 gia đình học sinh để trong 2 năm học có thể thăm được hết gia đình học sinh trong lớp. Từ việc trực tiếp đến gia đình, gặp gỡ cha mẹ học sinh, giáo viên sẽ hiểu hơn hoàn cảnh học sinh, từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp. Lựa chọn hình thức trao đổi thông tin, có thể bằng sổ liên lạc, bằng điện thoại... Với sổ liên lạc, giáo viên chủ nhiệm nhận xét về kết quả học tập, số buổi nghỉ, số lần đi học trễ và các vi phạm khác, nhận xét về thái độ, chiều hướng tiến bộ của học sinh và đưa học sinh chuyển về cho phụ huynh vào thứ 7 hàng tuần. Phụ huynh nhận xét các hoạt động của con em tại gia đình, ký xác nhận và chuyển lại cho giáo viên chủ nhiệm vào sáng thứ 2 tuần sau (phụ huynh học sinh phải ký mẫu vào sổ liên lạc). Với hình thức liên lạc bằng điện thoại: Giáo viên chủ nhiệm cho phụ huynh đăng ký số điện thoại và thông báo số điện thoại của mình cho phụ huynh học sinh biết ngay từ buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm để chủ động liên lạc trực tiếp với phụ huynh khi cần thiết và ngược lại. Đặc biệt đối với học sinh hay nghỉ học, đi học trễ, nếu nghỉ học không có lí do, hoặc viết giấy phép nhưng không có chữ ký phụ huynh, có chữ ký phụ huynh nhưng không đúng ..., giáo viên chủ nhiệm điện trực tiếp cho gia đình học sinh ngay trong buổi học hôm đó để xác định thông tin. 4. Hiệu quả của đề tài 4.1. Sự thay đổi trong nhận thức của học sinh. Tính từ đầu năm học cho đến cuối học kỳ II năm học 2017 – 2018, việc áp dụng một số biện pháp nêu trên đã đem lại một số kết quả như sau: Các em đã biết vâng lời thầy cô giáo và người lớn, không còn nói tục, chửi thề tại trường học, không còn tình trạng đánh nhau. Một số em là học sinh có hành vi đạo đức chưa tốt bây giờ trở thành những học sinh phụ trách trật tự của lớp và có hành vi đạo đức tốt, được các em học sinh khác yêu quý như em Cao Thị Bích Ngọc. Bên cạnh đó em Trần Anh Thư và em Nguyễn Hoàng Mai Phương đã tiến bộ rất nhiều trong học tập, các em tham gia phát biểu xây dựng bài, biết giúp đỡ bạn trong lớp, khi giáo viên giao việc thì cố gắng hoàn thành, biết vâng lời thầy cô giáo và tham gia đầy đủ các hoạt động của lớp và của trường tổ chức; đặc biệt vấn đề ăn mặc, đầu tóc và vệ sinh cá nhân của em Nguyễn Tuấn Kiệt đã được cải thiện đáng kể. Em Võ Thị Kiều Ngoan đã tiến bộ hơn trong giao tiếp, mạnh dạn trò chuyện, biết cách kết hợp vui chơi cùng bạn và khả năng đọc viết cũng tiến bộ hơn trước. 4.2. Kết quả về các mặt trước và sau khi áp dụng đề tài Trong suốt thời gian thực hiện đề tài này, tôi nhận thấy hài lòng vì đa số các học sinh cá biệt đã nhận thức đúng đắn về hành vi học tập và rèn luyện đạo đức của mình. Các em có hành vi đạo đức chưa tốt đã ngoan lên hơn nhiều, các em chưa hoàn thành việc học tập giờ cũng đã cải thiện, từ viết sai chính tả, đọc không thông, làm toán không được, bây giờ các em đã tự thực hiện được các vấn đề cơ bản của bộ môn Tiếng Việt và môn Toán. Tất cả các nội dung cần thực hiện hầu như đều có tiến bộ, tuy chưa đạt 100% nhưng bước đầu các em đã biết hòa đồng cùng bạn bè, biết đoàn kết và biết bảo vệ của chung. * Số liệu cụ thể như sau: Về môn học và hoạt động giáo dục: Giữa HKI Cuối HKII Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành 26,1% 65,2% 8,7% 60,9% 39,1% 0% Về rèn luyện năng lực, phẩm chất: Giữa HKI Cuối HKII Tốt Đạt Cần cố gắng Tốt Đạt Cần cố gắng 65,2% 26,1% 8,7% 91,3% 8,7% 0% III. KẾT LUẬN 1. Đúc kết lại những nội dung chính đã trình bày Bậc học tiểu học là bậc học nền tảng cho việc hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản của học sinh. Để hoạt động học tập diễn ra tốt đẹp, thì không chỉ có bản thân học sinh nỗ lực là đủ mà quan trọng nhất là vai trò của người giáo viên chủ nhiệm. Việc từng bước rèn luyện nề nếp học tập, ý thức kỷ luật, thái độ giao tiếp với thầy cô, bạn bè, trong gia đình và ngoài xã hội... rất nhiều điều cần có sự tận tâm của người giáo viên chủ nhiệm lớp. Vì vậy, người giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học có một vị trí đặc biệt quan trọng. Giáo viên chủ nhiệm là người quản lý, giáo dục toàn diện học sinh một lớp. Để làm tốt công việc đó người giáo viên chủ nhiệm phải nắm bắt được đặc điểm tình hình lớp cụ thể, sâu sắc qua việc tìm hiểu về học sinh lớp mình qua nhiều kênh thông tin. Trong quá trình giáo dục, người giáo viên chủ nhiệm cần phối kết hợp, liên hệ thường xuyên với phụ huynh học sinh, với giáo viên bộ môn, đi sâu đi sát lớp chủ nhiệm. Với những học sinh có ý thức học tập, tu dưỡng thì công việc của người giáo viên chủ nhiệm sẽ nhẹ nhàng, còn đối với những học sinh chưa ngoan, những học sinh cá biệt đòi hỏi người giáo viên phải mất nhiều thời gian công sức hơn cho công tác chủ nhiệm. Vì thế, chỉ có những giáo viên thực sự tâm huyết với nghề, thực sự thương yêu học sinh của mình thì mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ. 2. Đề ra biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn Việc thực hiện đề tài giúp cho đa số các học sinh cá biệt có nhận thức đúng đắn về hành vi học tập và rèn luyện đạo đức của mình từ đó các em sẽ có ý thức kỷ luật tốt hơn, đạt kết quả cao hơn trong học tập. Tôi thường xuyên quan tâm động viên các em hàng ngày, hàng giờ, hỏi thăm tình hình các em ở nhà thường làm những công việc gì để giúp đỡ bố mẹ, bố mẹ có thường xuyên quan tâm đến các em không, hoàn cảnh gia đình của em như thế nào để từ đó giáo viên nắm được và động viên các em thêm. Thường xuyên quan tâm theo dõi các em học, chỗ nào chưa hiểu, chưa nắm được còn lúng túng, giáo viên nhẹ nhàng giúp đỡ ngay để từ đó các em mới có hứng thú học hơn và tạo sự gần gũi giữa giáo viên và học sinh, dần dần các em sẽ tiến bộ và không còn mặc cảm với bạn bè. Thường xuyên trao đổi với phụ huynh học sinh qua điện thoại hoặc trực tiếp xuống nhà để tiếp cận với gia đình các em để đưa ra các biện pháp cùng giáo dục các em tiến bộ. Tham mưu với ban giám hiệu, Đội Thiếu Niên, Hội cha mẹ học sinh, để hỗ trợ thêm một số đồ dùng học tập cho một số học sinh có hoàn cảnh khó khăn đủ đồ dùng học tập như các bạn khác trong lớp. Phân công học sinh có năng lực trong nhóm và trong lớp giúp đỡ đầu giờ học hoặc ở mỗi tiết học, chỗ nào chưa hiểu thì bạn giảng lại, hướng dẫn thêm, bày cách đọc, cách viết và cách trình bày bàiLập sổ nhật ký theo dõi các em hằng ngày, cứ từng tháng báo lại cho gia đình nắm được và lấy ý kiến của gia đình để giáo viên thay đổi biện pháp giáo dục khác cho tốt hơn. Phân công cho các em phụ trách một công việc gì đó trong lớp để các em cảm thấy mình cũng được thầy cô và các bạn trong lớp tín nhiệm tương đương với các bạn khác chứ không phải mình là người bị bỏ rơi. Trao đổi với giáo viên bộ môn, giáo viên trong tổ chuyên môn để đưa ra các biện pháp giáo dục cũng như các phương pháp để nâng cao chất lượng giáo dục. Với đề tài: “Mười hai biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1” đã mang đến một số kết quả khả quan nhưng chúng ta phải nhận thức rõ rằng việc giáo dục đạo đức cho học sinh không phải “một sớm một chiều” là sẽ có kết quả mà phải “mưa dầm thấm đất”. Tuy nhiên những giải pháp trên đây phần nào cho thấy việc quan tâm đến giáo dục đạo đức cho học sinh ở lớp tôi đang chủ nhiệm đã dần hoàn thiện hơn. Điều làm cho tôi phấn khởi là tình hình đạo đức và học tập của học sinh ngày càng có sự chuyển biến tốt mặc dù sự chuyển biến đó chưa tiến triển nhanh chóng và chưa được hoàn hảo như mong muốn. Nhưng đó là những kết quả có được từ tâm huyết và lương tâm Nhà giáo với mục đích giáo dục đạo đức cho học sinh ngày càng tiến bộ hơn. Tôi rất hy vọng các biện pháp của tôi sẽ phần nào đóng góp cho việc giáo dục học sinh cá biệt trong nhà trường hiện nay ngày càng tốt và đạt hiệu quả hơn. Tôi nghĩ những biện pháp nêu trên có thể áp dụng rộng rãi ở các lớp đó là những yếu tố không thể thiếu được để nâng cao chất lượng dạy học. Tôi mong rằng kinh nghiệm này sẽ được nhân rộng ra các khối lớp ở bậc tiểu học nói chung và lớp 1 nói riêng để tạo cho các em một niềm vui khi đến lớp. 3. Kiến nghị, đề xuất Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp trong toàn ngành được phát triển tôi xin có một số đề xuất sau: * Đối với nhà trường: + Nhà trường tạo mọi điều kiện về trang thiết bị, đồ dùng dạy học, các tài liệu tham khảo để giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm hơn nữa. + Tổ chức các buổi thảo luận về công tác chủ nhiệm để đồng nghiệp trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. + Ban giám hiệu nhà trường cần có những can thiệp cần thiết khi giáo viên khó khăn trong việc tiếp cận với gia đình học sinh cá biệt, hoặc tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên liên hệ làm việc với các ban ngành (Phụ nữ, Hội nông dân,...) khi cần thiết để giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. * Đối với cha mẹ học sinh: Cần quan tâm hơn nữa tới việc tự học, tự rèn và thái độ đạo đức của các em ở nhà nhiều hơn nữa. Ngoài ra cần phải kiểm tra sát sao việc tự học, tự rèn ở nhà của các em. * Đối với chính quyền địa phương: Luôn luôn tạo mọi điều kiện giúp đỡ về vật chất cho những em học sinh nghèo và những em học sinh có hoàn cảnh khó khăn để các em được đến trường như các bạn khác và tham gia vận động học sinh bỏ học ra lại lớp học cùng giáo viên. * Đối với phòng giáo dục: Qua sáng kiến kinh nghiệm trên thì rất mong các cấp lãnh đạo tạo điều kiện để phổ biến các kinh nghiệm trên một cách rộng rãi tới các lớp, các trường ... 4. Hướng phát triển của đề tài Qua thực tế, bản thân tôi thấy kết quả rất khả quan. Vì thế tôi thiết nghĩ rằng các bạn đồng nghiệp có thể tham khảo và vận dụng. Trên đây là những chia sẻ của tôi trong đề tài. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của lãnh đạo nhà trường, các thầy cô, anh chị đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường để đề tài được hoàn thiện hơn. Vạn Thọ, ngày 4 tháng 11 năm 2018 HIỆU TRƯỞNG Người viết Vũ Thị Khánh Linh TÀI LIỆU THAM KHẢO * Tài liệu sách GS.TS Bùi Văn Huệ (2012 ), Giáo trình về Tâm lí học Tiểu học, Nhà xuất bản Giáo Dục Hà Nội. Hoàng Tố Nga (2018) , Kĩ năng công tác giáo viên chủ nhiệm, Nhà xuất bản lao động. * Tài liệu tạp chí Tạp chí giáo dục Tiểu học (Tập 43), Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, xuất bản năm 2010. * Tài liệu sáng kiến kinh nghiệm Thầy Nguyễn Chí Nam, Một số biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, trường Tiểu học Võ Thị Sáu, Xã Quảng Sơn, Tỉnh Đắk Nông. Thầy Nguyễn Xuân Lâm, Biện pháp giáo dục học sinh các biệt về hạnh kiểm, trường Tiểu học Bù Nho, Xã Phước Long, Tỉnh Bình Phước. Cô Trịnh Thị Thu Hương, Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp Một ở trường Tiểu học Cẩm Phong, Huyện Cẩm Thủy, trường Tiểu học Cẩm Phong Tỉnh, Huyện Cẩm Thủy, Tỉnh Thanh Hóa. * Tài liệu từ các trang web: violet.vn; giaoandientu.com.vn; giaovien.net; thuvienbaigiangdientu.bachkim.com ...
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_muoi_hai_bien_phap_giao_duc_hoc_sinh_c.doc