Sáng kiến kinh nghiệm Một số vấn đề cần lưu ý khi làm thí nghiệm, sử dụng trắc nghiệm trong thí nghiệm
1) Vai trò của bộ môn hóa học.
Hóa học là khoa học nghiên cứu các chất, sự biến đổi từ chất này thành chất khác. Tính chất và ứng dụng của từng chất.
Hóa học có vai trò rất quan trọng trong đời sống của loài người. Con người đã tìm ra những chất có sẵn trong tự nhiên và chế tạo những chất mới phục vụ cho cuộc sống. Hóa học đã cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp như dược phẩm, điện tử, phân bón, thuốc trừ sâu, xây dựng, thực phẩm, vải giấy
Tóm lại: khoa học hóa học là nền tảng đưa nhân loại vững bước vào thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa. Vì vậy, việc dạy và học tốt môn hóa học ở bậc trung học cơ sở (bậc đầu tiên học môn hóa) là rất cần thiết.
2) Vai trò của trực quan.
Từ vai trò quan trọng của bộ môn hóa học như đã nêu trên, trách nhiệm của mỗi thầy cô giáo là phải giảng dạy cho học sinh hiểu được tầm quan trọng của bộ môn thông qua từng bài học.
Ơ một bài học các em được tìm hiểu về một chất với những tính chất nhất định, tìm hiểu về các khái niệm, về bản chất của các loại phản ứng, tìm hiểu về sự biến đổi và ứng dụng của từng chất.
Trong từng bài các em được làm(quan sát) thí nghiệm, dó là phương pháp trực quan. Trực quan là phương pháp mang tính lý thuyết. Trực quan luôn hấp dẫn với học sinh. Trực quan gây được hứng thú, niềm mê say nghiên cứu, tìm hiểu bản chất của vấn đề một cách đơn giản, hoàn thiện và chính xác nhất.
Trực quan bao gồm: đồ dùng dạy học, thí nghiệm, thiết bị nghe nhìn, mô hình, tranh ảnh, mẫu vật
Trong chuyên đề nhỏ này, chỉ xin đề cập đến một khía cạnh nhỏ của trực quan là “thí nghiệm”.
Trong chương trình bộ môn hóa họcở trường trung học cơ sở được tìm hiểu về đơn chất, hợp chất vô cơ, hợp chất hữu cơ(hyđrô cacbon, dẫn xuất của hyđrô cacbon) Ở mỗi loại các em được học một số chất cụ thể và tùy từng bài sẽ có một số thí nghiệm để chứng minh cho tính chất của các chất đó. Thí nghiệm là trực quan sinh động nhất, hấp dẫn nhất, lôi cuốn các em vào thế giới diệu kỳ của khoa học hóa học và cụ thể hơn, thí nghiệm giúp các em hiểu bài một cách toàn diện và sâu sắc nhất.
3) Vai trò của trắc nghiệm.
Trắc nghiệm là phương pháp giáo dục mới mà chương trình cải cách đang áp dụng và phổ biến ngày càng nhiều hơn.
Trắc nghiệm chính là phương pháp khẳng định lại vấn đề một cách cụ thể và chính xác nhất.
Qua trắc nghiệm phát huy tốt nhất khả năng tư duy, so sánh, phân tích, sự quyết đoán cho học sinh.
PHẦN I LỜI MỞ ĐẦU I Cơ sơ lý luận 1) Vai trò của bộ môn hóa học. Hóa học là khoa học nghiên cứu các chất, sự biến đổi từ chất này thành chất khác. Tính chất và ứng dụng của từng chất. Hóa học có vai trò rất quan trọng trong đời sống của loài người. Con người đã tìm ra những chất có sẵn trong tự nhiên và chế tạo những chất mới phục vụ cho cuộc sống. Hóa học đã cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp như dược phẩm, điện tử, phân bón, thuốc trừ sâu, xây dựng, thực phẩm, vải giấy Tóm lại: khoa học hóa học là nền tảng đưa nhân loại vững bước vào thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa. Vì vậy, việc dạy và học tốt môn hóa học ở bậc trung học cơ sở (bậc đầu tiên học môn hóa) là rất cần thiết. 2) Vai trò của trực quan. Từ vai trò quan trọng của bộ môn hóa học như đã nêu trên, trách nhiệm của mỗi thầy cô giáo là phải giảng dạy cho học sinh hiểu được tầm quan trọng của bộ môn thông qua từng bài học. Ơû một bài học các em được tìm hiểu về một chất với những tính chất nhất định, tìm hiểu về các khái niệm, về bản chất của các loại phản ứng, tìm hiểu về sự biến đổi và ứng dụng của từng chất. Trong từng bài các em được làm(quan sát) thí nghiệm, dó là phương pháp trực quan. Trực quan là phương pháp mang tính lý thuyết. Trực quan luôn hấp dẫn với học sinh. Trực quan gây được hứng thú, niềm mê say nghiên cứu, tìm hiểu bản chất của vấn đề một cách đơn giản, hoàn thiện và chính xác nhất. Trực quan bao gồm: đồ dùng dạy học, thí nghiệm, thiết bị nghe nhìn, mô hình, tranh ảnh, mẫu vật Trong chuyên đề nhỏ này, chỉ xin đề cập đến một khía cạnh nhỏ của trực quan là “thí nghiệm”. Trong chương trình bộ môn hóa họcở trường trung học cơ sở được tìm hiểu về đơn chất, hợp chất vô cơ, hợp chất hữu cơ(hyđrô cacbon, dẫn xuất của hyđrô cacbon) Ở mỗi loại các em được học một số chất cụ thể và tùy từng bài sẽ có một số thí nghiệm để chứng minh cho tính chất của các chất đó. Thí nghiệm là trực quan sinh động nhất, hấp dẫn nhất, lôi cuốn các em vào thế giới diệu kỳ của khoa học hóa học và cụ thể hơn, thí nghiệm giúp các em hiểu bài một cách toàn diện và sâu sắc nhất. 3) Vai trò của trắc nghiệm. Trắc nghiệm là phương pháp giáo dục mới mà chương trình cải cách đang áp dụng và phổ biến ngày càng nhiều hơn. Trắc nghiệm chính là phương pháp khẳng định lại vấn đề một cách cụ thể và chính xác nhất. Qua trắc nghiệm phát huy tốt nhất khả năng tư duy, so sánh, phân tích, sự quyết đoán cho học sinh. II Cơ sở xâm nhập thực tế Qua nhiều năm giảng dạy bộ môn hóa học(đã thuyên chuyển qua 4 trường), vì vậy tôi nhận thấy bản thân tôi và một số đồng nghiệp còn mắc phải những thiếu sót sau: + Rất ít làm thí nghiệm(vì ngại sự chuẩn bị hoặc thiếu dụng cụ, hóa chất) nên chất lượng giờ dạy chưa cao. Học sinh ít được làm (quan sát) thí nghiệm, dẫn đến khó hiểu bài và không thích học bộ môn. + Thao tác thí nghiệm chưa linh hoạt, còn hạn chếvề sử dụng những thiết bị mới và hiện đại. Đôi khi làm thí nghiệm còn sai nguyên tắc: + Dùng tay trực tiếp cầm ống nghiệm(không đeo khăn găng, không dùng kẹp). +Cách sắp xếp dụng cụ hóa chất(trong khay để trên bàn giáo viên) còn lộn xộn, thiếu khoa học. + Lấy hóa chất xong quên không đậy nắp. + Lấy quá ít hoặc quá nhiều hóa chất. + Pha dung dịch trước khi giờ dạy mà không đậy nắp, không ghi nhãn vào lọ. + Chỉ chú ý vào việc thí nghiệm mà không đặt câu hỏi khai thác phù hợp với nội dung đang làm. + Dụng cụ học sinh làm thí nghiệm rửa không sạch. + Dùng giấy vệ sinh lau khô ống nghiệm III K ết luận. Chính từ những vai trò quan trọng của việc làm thí nghiệm và tác dụng của trắc nghiệm(như đã nêu trên). Từ những thiếu sót của bản thân và một số đồng nghiệp qua việc làm thí gnhiệm. Vì vậy, trong chuyên đề nhỏ “ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI LÀM THÍ NGHIỆM, SỬ DỤNG TRẮC NGHIỆM TRONG THÍ NGHIỆM ”. Để cùng trao đổi và tìm ra giải pháp tốt nhất cho sự thành công khi làm thí nghiệm. Do năng lực của bản thân còn nhiều hạn chế, rất mong sự chỉ bảo của các bạn đồng nghiệp chuyên môn và sự đóng góp ý kiến nhiệt tình của anh chị em trong tổ. Phần II NỘI DUNG A Một số vấn đề cần lưu ý khi làm thí nghiệm. I Yêu cầu cơ bản của thí nghiệm. Phải đảm bảo an toàn cho giáo viên và học sinh. Phải đảm bảo thành công khi biểu diễn thí nghiệm. Thí nghiêïm phải chính xác, rõ ràng, học sinh phải được quan sát đầy đủ. Thí nghiệm phải đơn giản, dụng cụ gọn gàng, hóa chất vừa đầy đủ. Thí nghiệm phải bảo đảm tính khoa học và thẩm mỹ. Phải kết hợp chặt chẽ thí nghiệm với lời giảng và nội dung ghi bảng. Giáo viên phải hướng dẫn học sinh quan sát được dụng cụ nào cần để làm thí nghiệm. Học sinh phải quan sát được màu, dấu hiệu của phản ứng. So sánh , phân biệt được màu, thể, trạng trái chất sau phản ứng. II Các bước cần thiết khi làm thí nghiệm. Chuẩn bị Hoá chất Giáo viên coi kỹ sách giáo khoa từ trước và xác định trong bài này có mấy thí nghiệm, dùng những hoá chất nào? (giáo viên ghi trước ra tờ giấy nhỏ). Mang giấy đó vào phòng thiết bị để lấy đủ và đúng hoá chất (tránh tình trạng lấy thiếu hoặc nhầm). Nếu không có một hoá chất nào đó, có thể thay thế bằng một hoá chất khác được không? Chất thay thế có gì sai khác gì về kết quả của thí nghiệm không? Nếu chất thay thế vẫn bảo đảm thí nghiệm thành công và đúng như mục đích thì nên làm(cần có sự linh động trong sử dụng hoá chất). Ví dụ : trong thí nghiệm kẽm với dung dịch HCl để có H2 bay lên nếu có sẵn H2SO4 mà không có dung dịch HCl thì dùng H2SO4 làm thí nghiệm vẫn được. Hoá cụ Giáo viên xác định trước bài này có mấy thí nghiệm, thí nghiệm này chỉ có giáo viên làm hay cho mấy nhóm cùng làm? Dựa trên cơ sở đó, giáo viên tính toán cần dùng những loại dụng cụ nào? Số lượng mỗi loại là bao nhiêu? (Giáo viên ghi sẵn ra giấy nhỏ rồi mang vào phòng thiết bị lấy đủ và đúng theo yêu cầu) Phải có găng tay, áo blu, giấy thấm, khăn lau tay, chậu nước rửa tay sau khi làm thí nghiệm. Điều cần lưu ý nhất trong khâu chuẩn bị là: Phải có hai khay: một khay đựng dụng cụ và hoá chất chưa làm, một khay đựng dụng cụ và hoá chất đã làm. Đánh dấu( cách ghi số, hoặc dán giấy khác màu)vào ống nghiệm, ống hút, muỗng múc hoá chất, đũa khuấy, phễu rót (tránh nhầm lẫn khi dùng đũa khuấy dung dịch 1 lại đưa khuấy dung dịch 2). Khi làm thí nghiệm nên mặc áo blu để tạo hình ảnh đẹp trong mắt học sinh, gây hứng thú và giáo dục lý tưởng sống cho học sinh(tác phong của người bác sĩ, nhà khoa học). Sau khi làm thí nghiệm phải có thau nước sạch rửa tay, khăn lau tay để đảm bảo vệ sinh, sức khoẻ cho giáo viên và học sinh. Chuẩn bị sẵn một cuộn giấy thấm(phòng khi lỡ tay đổ dung dịch thì thấm cho nhanh) Tiến hành làm thí nghiệm. Nếu yêu cầu của bài học thí nghiệm đó phải làm trước 30 phút, 1 ngày, 3 ngày thì giáo viên cần chuẩn bị đúng theo yêu cầu đó để đảm bảo độ chính xác, nhưng vẫn phải có thí nghiệm đối chứng tại lớp. Nếu thí nghiệm làm tại lớp học thì giáo viên phải bảo đảm được các yêu cầu sau: Pha dung dịch tại lớp sẽ rèn luyện kỹ năng quan sát (học sinh nhận biết chất rắn màu gì? Sau khi pha thành dung dịch màu gì? Khả năng tan nhanh hay chậm) Pha dung dịch tại lớp tại lớp tạo độ tin cậy, tính hấp dẫn cho học sinh và đặc biệt là bảo đảm tính chính xác. Pha dung dịch tại lớp giáo viên chỉ mất vài giây trong thời gian của tiết học, nhưng cái được sẽ nhiều hơn. + Nếu pha dung dịch từ trước có mặt hạn chế: - Mang tính áp đặt cho học sinh (thậm chí giáo viên không ghi nhãn vào lọ đựng dung dịch đó) - Có khi giáo viên pha dung dịch trước nhưng không đậy nắp dẫn đến sai về nội dung. - Ví dụ : nếu giáo viên pha dung dịch NaOH trong lọ rộng miệng nhưng không đậy nắp để dùng từ tiết 1 qua tiết 2 đến tiết 3. Như vậy dung dịch NaOH tác dụng với CO2 trong không khí dẫn đến sai kiến thức. Sử dụng hoá cụ: phải nhanh nhẹn, gọn gàng, chính xác bảo đảm tính khoa học và thẩm mỹ Nếu giáo viên đã chuẩn bị được hai khay, có đánh dấu, ghi số vào ống nghiệm, ly, đũa, muỗng, phểu thì rất thuận lợi cho các thao tác làm thí nghiệm. Giáo viên quy định bên trái(phía ngoài) là khay để dụng cụ, hoá chất chuẩn bị làm. Khay bên phải (phía trong) là khay để dụng cụ, hoá chất đã làm. Giáo viên quy định ống nghiệm1, phểu 1, ly 1, muỗng1 dùng pha dung dịch A; ống nghiệm2, phểu 2, ly 2, muỗng2 dùng pha dung dịch B Nếu làm được như vậy sẽ tránh nhầm lẫn dẫn đến sai kiến thức. Ví dụ : giáo viên dùng cùng một đũa khuấy dung dịch BaCl2 sau đó lại khuấy dung dịch Na2SO4 thì ngay tức thì dung dịch Na2SO4 đã có vẫn đục mất tính trong suốt của dung dịch dẫn đến sai (bài tính chất của muối – hoá học 9) Sử dụng hoá chất: Khi sử dụnh hoá chất cần lưu ý những điểm sau: Người làm thí nghiệm phải mang đủ hai găng tay (tránh tình trạng chỉ có giáo viên mang găng tay mà học sinh không mang). Phải có kinh nghiệm trong việc lấy một lượng hoá chất vừa phải, đủ dùng cho thí nghiệm (kinh nghiệm này do bản thân rút ra từ lần trước đã ghi vào sổ tích luỹ chuyên môn, do học hỏi đồng nghiệp, qua lần thí nghiệm trước). Ví dụ : có thí nghiệm chỉ cần lấy muỗng hoá chất ; hoặc một lượng rất nhỏ bằng hạt đậu xanh không nhất thiết phải múc một muỗng đầy. Cụ thể như thí nghiệm điều chế Cu(OH)2 để nung thành Cu cần 3 muỗng CuSO4 với 3 muỗng Cu(OH)2 pha thành ống nghiệm là dung dịch, sau đó đổ hai dung dịch vào sẽ chiếm ống nghiệm, lọc thấm Cu(OH)2 dung dịch, sấy khô mới được 1 muỗng Cu(OH)2 rắn xanh. Thí nghiệm đốt cháy P (đỏ) chỉ dùng 1 lượng nhỏ bằng hạt đậu xanh là đủ. Tuyệt đối không dùng một muỗng lấy nhiều loại hoá chất. Hoá chất lấy xong phải đậy nắp ngay (có tình trạng giáo viên quên không đậy nắp lọ Na2CO3, sau buổi học lớp trên mặt lọ bị chảy nhão dẫn đến hỏng hoá chất). Khi lấy hoá chất kết hợp hỏi học sinh để phát huy quan sát và sự chú ý của học sinh (ví dụ : màu hoá chất? Thể? Dạng? Mùi?). FChú ý: Có thể tận dụng kết quả thí nghiệm trước làm kết quả đối chứng nổi bật cho thí nghiệm giờ sau. Ví dụ 1 :trong bài mở đầu của hoá học 8, nếu để lại kết quả thí nghiệm cho đinh sắt vào dung dịch HCl đến giờ sau thì mũi đinh bị ăn mòn nhiều đã ngắn hơn đinh mới, chứng minh cho học sinh rõ ràng hơn. Ví dụ 2: thí nghiệm giữa dây Cu và dung dịch AgNO3 (bài 17 – hoá 9) nếu giáo viên để kết quả giờ trước làm so sánh với giờ sau thì rõ hơn (lượng Ag (trắng) bám nhiều trên dây Cu hơn, mang tính thuyết phục cao. Giáo viên có hệ thống câu hỏi rõ ràng, cụ thể phù hợp với từng giai đoạn của thí nghiệm để học sinh vừa quan sát vừa nhận biết, so sánh và rút ra được nội dung của thí nghiệm Chất rắn cần pha thành dung dịch có màu? Mùi? Sau khi pha thấy khả năng tan như thế nào? Dung dịch có màu gì? Mùi gì? Dấu hiệu của phản ứng là gì? (Bay hơi? Kết tủa? Sủi bọt? Chuyển màu? Có mùi lạ?) Sau phản ứng sản phẩm gồm những chất nào? Khối lượng của dung dịch sau phản ứng có thay đổi không? Điều kiện của phản ứng là gì? Tóm lại : nếu giáo viên có hệ thống câu hỏi phù hợp trong lúc làm thí nghiệm sẽ khi thác được nội dung cần làm. Học sinh sẽ hiểu rõ hơn bản chất của thí nghiệm, ghi được phương trình phản ứng và xác định được trạng thái, màu của chất và sản phẩm. Sau khi làm thí nghiệm. Đây là công việc hoàn thành sau cùng của thí nghiệm. Nếu ta không chú ý có thể gây tai nạn cho giáo viên và học sinh khi dọn dẹp và rửa dụng cụ; hoặc gây ô nhiễm môi trường dẫn đến phản giáo dục Vì vậy ta cần chủ ý những điểm sau: + Nếu học sinh làm thí nghiệm theo nhóm thì sau khi thí nghiệm hoàn thành giáo viên phải quán triệt cho tất cả học sinh ngồi yên, yêu cầu nhóm trưởng (có măng găng tay) thu dọn gọn vào khay và đem lên bàn giáo viên. Nếu không học sinh lộn xộn sẽ va chạm nhau làm đổ hoá chất, bể dụng cụ, gây nguy hiểm và ô nhiễm lớp học. + Giáo viên trực tiếp phải đổ dồn sản phẩm của thí nghiệm vào một cốc lớn và đem đỏ vào bồn rửa, cống thoát nước rồi xả nước nhiều cho sạch. + Giáo viên thu dọn các lọ hoá chất, vặn lại các nút cho chặt rồi cất vào thùng đựng. + Dụng cụ phải rửa thật sạch và phơi khô tự nhiên (úp trên giá). + Tránh tình trạng dùng giấy vệ sinh lau khô ống nghiệm, như vậy có bột giấy bám trên dụng cụ, khi làm thí nghiệm sau sẽ bị ảnh hưởng đến độ trong của dung dịch. Vì vậy tôi xin đưa ra một số ý kiến nhỏ như sau: Giữa tiết này sang tiết khác thời gian rất ngắn không kịp rửa dụng cụ ta nên cho rửa qua, rồi cuối tuần điều 3 đến 5 học sinh (có tính cẩn thận) đem tất cả các dụng cụ đã làm ra rửa lại cho sạch công đoạn rửa dụng cụ như sau: Bước 1: Dùng xà phòng rửa chén rửa sạch dụng cụ bằng khăn mềm, chổi rửa Bước 2: Dùng dung dịch giấm ăn ( CH3COOH 2 – 3%) ngâm dụng cụ trong thau 30 phút. Bước 3: Dùng kẹp vớt dụng cụ ra tráng lại bằng nước ấm (500C). Bước 4 : Dùng kẹp vớt dụng cụ ra, úp ống nghiệm trên giá, cắm đũa, muỗng .. trên các lỗ giá luôn cho gọn, phơi ngoài nắng gió cho khô. Bước 5: Phân loại dụng cụ và bỏ vào trong hộp hoặc bịch bóng trong để tránh bụi bẩn. Như vậy dụng cụ sẽ sạch bóng và trong suốt khi; làm thí nghiệm sau sẽ quan sát các hiện tượng dễ hơn. B Vấn đề sử dụng trắc nghiệm vào thí nghiệm. Cuối bài học giáo viên củng cố bài học theo nhiều phương pháp khác nhau, nhưng sử dụng trắc nghiệm để củng cố lại thí nghiệm thì học sinh sẽ nắm bài hơn và giúp học sinh chưa nắm rõ thí nghiệm sẽ nắm được một cách tốt hơn. Trắc nghiệm giúp các em phát huy tính quyết đoán vấn đề một cách nhanh chóng. Trắc nghiệm giúp các em khắc sâu được kiến thức và nhớ bài chính xác và lâu hơn. Có 4 dạng trắc nghiệm để tham khảo như sau: Dạng 1: điền khuyết vào sơ đồ phương trình phản ứng (có thể khuyết chất tham gia, sản phẩm, màu sắc, trạng thái của chất) Ví dụ : cho sơ đồ phản ứng hóa học sau: CuSO4(dung dịch) + A Ba2SO4(dung dịch) + Cu(OH)2 Xác định chất A là chất nào trong các chất sau: a) Dung dịch NaCl b) Dung dịch NaOH c) Dung dịch NaNO3 d) Dung dịch Na2SO4 (Đáp án là dung dịch NaOH) Dạng 2 Dùng nhận nhanh tính chất , trạng thái của chất. Ví dụ : Trong các axit sau đây, axit nào tác dụng được với đồng ? a)HCl (lỏng) c)H2SO4(đặc nóng) b)H2CO3 (lỏng) d)H2SO4 (lỏng) (Đáp án đúng là c) Dạng 3 : Chọn một phương trình phản ứng đúng cho thí nghiệm vừa làm (đúng cả trạng thái, màu sắc, điều kiện , công thức hoá học) Ví dụ : Hãy chọn một phương trình phản ứng đúng cho thí nghiệm nung nóng Cu(OH)2. a)Cu(OH)2(xanh đen) Cu2O(xanh) + H2O(lỏng) b)Cu(OH)2(xanh dương) Cu2O(đen) + H2O(lỏng) c)Cu(OH)2(nâu đỏ) Cu2O(nâu) + H2(khí) d)Cu(OH)2(xanh dương) Cu2O(đen) + H2O(lỏng) (Đáp án đúng là d). Dạng 4: Thực hành: Dùng tranh vẽ mô tả thí nghiệm vừa học, yêu cầu học sinh điền chất tham gia, sản phẩm hoặc xác định tên thí nghiệm. Ví dụ : thí nghiệm như hình vẽ sau dùng để điều chế chất nào? a) Khí oxy b) Khí Clo c) Khí Mêtan d) Khí Amoniac ( Đáp án đúng là b). Thực hành 2: Chọn các chất phù hợp điền vào sơ đồ của thí nghiệm bên ( hình 3.5 – sách giáo khoa hoá 9) Phần III KẾT QUẢ THỬ NGHIỆM CỦA CHUYÊN ĐỀ Tiết dạy có thí nghiệm nhưng giáo viên không làm thí nghiệm Giỏi Khá Trung bình Yếu kém 5% 10% 50% 35% Tiết dạy có thí nghiệm, giáo viên có làm thí nghiệm nhưng không dùng trắc nghiệm. Giỏi Khá Trung bình Yếu kém 10% 20% 40% 25% Tiết dạy có thí nghiệm, giáo viên làm thí nghiệm và sử trắc nghiệm để củng cố bài. Giỏi Khá Trung bình Yếu kém 16% 30% 39% 15% Phần IV KẾT LUẬN Trên đây là nội dung của chuyên đề “Một số vấn đề cần lưu ý khi làm thí nghiệm và việc sử dụng trắc nghiệm trong thí nghiệm” của tôi. Trong chuyên đề tôi đã đi đủ các bước cần thiết và đã đưa ra được kết quả thử nghiệm của chuyên đề. Tuy nhiên năng lực của bản thân còn nhiều hạn chế, nên rất mong sự chỉ bảo của ban chuyên môn, sự góp ý của anh chị em đồng nghiệp để giúp tôi hoàn thành chuyên đề nhỏ này. Nếu chúng ta thấy chuyên đề này thiết thực thì cùng áp dụng để nhằm mục đích chung là nâng cao chất lượng dạy học. Góp phần nhỏ bé vào công việc nâng cao chất lượng bộ môn hoá học vốn còn đang yếu hiện nay.
File đính kèm:
- SKKN HOA GIA NGHIA.doc