Sáng kiến kinh nghiệm Một số kĩ năng tổ chức dạy học theo nhóm mô hình trường học mới VNEN
Thực trạng của dạy học theo nhóm mô hình trường học mới VNEN:
* Thuận lợi :
- Cơ sở vật chất lớp học được trang bị đủ để đáp ứng những yêu cầu dạy học theo mô hình VNEN mức 1.
- Nhà trường đã chỉ đạo tốt công tác bồi dưỡng giáo viên theo hướng tự học, tự bồi dưỡng, tự làm đồ dùng dạy học, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp qua sinh hoạt chuyên môn tại tổ, trường, cụm.
- Ban giám hiệu nhà trường có sự chỉ đạo sâu sát trong mọi hoạt động dạy học; thường xuyên tổ chức dạy thao giảng, góp ý rút kinh nghiệm giúp giáo viên hoàn thiện về phương pháp tổ chức dạy học theo mô hình mới.
- Học sinh được trang bị đầy đủ tài liệu hướng dẫn học và đồ dùng học tập. - Học sinh có hứng thú học tập theo mô hình mới.
- Học sinh đã hình thành những kĩ năng làm việc theo nhóm, thực hiện tốt chức năng, nhiêm vụ của từng vai trò trong nhóm: nhóm trưởng, thư ký; biết bày tỏ quan điểm, ý kiến và trình bày mạch lạc kết quả làm việc chung của cả nhóm.
- Bản thân giáo viên đã được tập huấn, nghiên cứu sâu và dạy học theo nhóm học sinh có hiệu quả.
* Khó khăn:
- Đa số học sinh có gia đình làm nông, kinh tế một số gia đình khó khăn nên chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em, còn phó mặc công việc học tập của con em mình cho nhà trường.
- Giáo viên còn lúng túng khi thực hiện dạy học theo phương pháp mới VNEN. Thói quen trước đây giáo viên giảng giải, thuyết trình vẫn còn. Với cách dạy như trên không rèn được cho học sinh thói quen tự học và học theo nhóm, các em luôn có thói quen chờ đợi, không tự mình suy nghĩ, tìm tòi để phát hiện ra kiến thức mới.
- Dạy học theo nhóm đòi hỏi nhiều thời gian do đó trở ngại rất lớn cho việc dạy học nhóm thành công trong một tiết dạy.
- Dạy học theo nhóm có thể gây ồn trong lớp khó khó kiểm soát.
¬- Một số nhóm trưởng chưa mạnh dạn tự tin để lãnh đạo nhóm mình hoạt động.
- HS còn lúng túng và nhút nhát, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động trong nhóm. Một số học sinh còn ỷ lại, dựa dẫm vào các bạn cùng nhóm.
tương tác đa chiều giữa các thành viên trong nhóm. Hướng dẫn các bạn biết cách tìm kiếm hỗ trợ và giải quyết được một số khó khăn gặp phải. Biết quản lí và sử dụng thời gian hiệu quả, biết sử dụng và bảo quản tài liệu học tập. Biết tổ chức và quản lí công việc. Biết giơ thẻ khi đã hoàn thành công việc và biết giơ thẻ cứu trợ khi không tự giải quyết được công việc. Cách 1: Vào cuối hoặc đầu mỗi buổi học giáo viên cần mời các nhóm trưởng ngồi lại tạo thành một nhóm và hướng dẫn các em cụ thể từng bước một. Cách 2: Đối với những nhóm còn yếu, nhóm trưởng làm việc còn lúng túng. Vì vậy, người giáo viên phải là người “làm mẫu” và đóng vai trò là một nhóm trưởng chứ không phải vai trò là một người giáo viên. Cách 3: Giáo viên chọn ra một số học sinh học giỏi, nhanh nhẹn trong học tập xếp cho các em này ngồi vào một nhóm để giáo viên huấn luyện khi học sinh đã biết việc và biết cách điều hành nhóm rồi thì chia các bạn này đến mỗi nhóm mỗi bạn làm nhóm trưởng các nhóm. Cách 4: Hoặc có thể cho nhóm làm tốt làm mẫu thảo luận một hoạt động nào đó và các nhóm còn lại chú ý để học tập theo. GV cũng không quên động viên, tuyên dương kịp thời các nhóm làm tốt. - Một điều nữa cần phải lưu ý đó là vị trí đứng của giáo viên khi các nhóm thảo luận cũng hết sức quan trọng. Qua kinh nghiệm giảng dạy, tôi nhận thấy giáo viên nên bao quát lớp, vừa đánh giá đúng nhóm nào làm nhanh nhất, chậm nhất, nhóm nào giơ thẻ hoàn thành lên trước hoặc nhóm nào chậm nhất, nhóm nào giơ thẻ cần cứu trợ, để từ đó giáo viên kịp thời đến kiểm tra hay giúp đỡ. 2.2.3.Các hình thức học theo nhóm : - Trải nghiệm: Học qua thực tế, học từ những kinh nghiệm thông qua việc làm và qua khám phá tìm tòi của các em. - Giao tiếp: Thông qua trao đổi, tranh luận các em có thể chia sẻ cho nhau những gì mình biết được, học được và cách học của mình cho bạn bè. “ Học thầy không tày học bạn” - Học qua tương tác: Chia sẻ với bạn bè những kinh nghiệm của mình và học kinh nghiệm từ bạn bè cũng như người lớn. - Rút kinh nghiệm: Sau những lần thất bại, các em cố gắng làm lại lần nữa, lần sau sẻ tốt hơn lần trước. Từ những kinh nghiệm học tập đó, các em có thể áp dụng vào các tình huống khác. Bốn hình thức trên chính là biểu hiện của quan điểm dạy học này. Để thực hiện được điều đó thì giáo viên cần phải biết hình thức đặc trưng cho từng cách học. 2.2.4. Các hình thức chia nhóm: *Cách chia nhóm và tổ chức hoạt động nhóm. Kiểu nhóm: Nhóm theo mã màu Nhóm theo tên các loài hoa Nhóm theo đếm số Nhóm theo biểu tượng CÁC CÁCH CHIA NHÓM Nhóm cặp Nhóm theo trình độ Nhóm tương trợ Nhóm theo tháng sinh nhật Bàn trên quay xuống bàn dưới Nhóm theo sở thích Nhóm theo ghép hình Tuy nhiên trong thực tế thì có nhiều kiểu nhóm khác, nhưng tôi nêu ra một số kiểu điển hình trên và hướng dẫn cách chia và các hình thức chia các nhóm này .Cách chia như sau : Nhóm đếm số : Muốn chia lớp thành 7 nhóm thì điểm số từ 1 đến 4 rồi quay lại 14. Ví dụ lớp bạn có 28 học sinh , bạn muốn chia thành 7 nhóm thì yêu cầu học sinh đếm 1,2,3,4. Bạn yêu cầu những học sinh có số đếm là 1 thì về nhóm 1, những học sinh có số 2 về nhóm 2 Khi chuyển nhóm có thể cho học sinh vừa đi vừa hát hoặc vỗ tay Ưu điểm : Tốn ít thời gian , tạo cho học sinh có không khí học tập thoải mái , phong cách nhanh nhẹn, áp dụng được cho tất cả các môn học. Nhóm biểu tượng . Biểu tượng có thể là : (con vật , cây cối , hình ảnh, các bông hoa ) Muốn chia lớp thành 5 nhóm thì bạn phải chuẩn bị 5 biểu tượng . Ưu điểm : Tốn ít thời gian, tạo cho học sinh có không khí học tập thoải mái, lớp học sinh động, áp dụng được cho tất cả các môn học nhất là các môn học có chủ đề. Lớp học sôi nổi hứng thú cho tất cả học sinh. Nhược điểm : GV phải chuẩn bị nhiều, gây tốn kém. Nhóm mã màu: Hình thức chia như nhóm biểu tượng. Nhóm cặp đôi: Xếp 2 học sinh vào một cặp . Nhóm sở thích:Những học sinh có cùng sở thích ngồi cùng một nhóm “Những người cùng sở thích thì sự thống nhất sẽ cao hơn.” Nhóm tương trợ: Xếp những học sinh có trình độ và năng lực khác nhau ( khá giỏi và trung bình- yếu) vào một nhóm , để học sinh khá giỏi có thể hỗ trợ cho học sinh yếu. Nhóm theo ghép hình: Cắt hình ra thành nhiều mảnh , cho học sinh nhận mỗi em mỗi mảnh sau đó ghép lại thành hình lúc đầu .Cách này ít khi sử dụng vì tốn nhiều thời gian cho một tiết học, chỉ thích hợp với các hoạt động ngoại khoá. Nhóm theo trình độ: Những học sinh cùng năng lực và trình độ sẽ ngồi một nhóm * Ưu điểm : Giáo viên có thời gian giúp đỡ , hỗ trợ những nhóm có trình độ yếu và phát huy tính tự lập cho nhóm khá giỏi. Nhóm cùng tháng sinh: Nhóm này cũng ít khi sử dụng vì trong lớp đôi khi cùng tháng nhiều hơn khác tháng, gây mất cân bằng. Chỉ thích hợp khi mình có tổ chức sinh nhật cho học sinh Cách chia nhóm ngẫu nhiên từ một hoạt động cụ thể: Trong quá trình dạy học, nếu tiết học nào đó mà học sinh nhàm chán, chúng ta muốn tổ chức cho học sinh một trò chơi “ phá băng ” từ trò chơi đó ta cũng có thể chia thành nhóm học tập mới. Cách làm như sau: Người quản trò hô“ đoàn kết –đoàn kết “ HS đáp “ kết mấy – kết mấy”, quản trò hô “ kết 4- kết 4” Giả sử lớp có 27 học sinh nhưng ta muốn chia lớp thành 7 nhóm thì ta hô “ đoàn kết đoàn kết” “ kết mấy kết mấy” - “ kết 4- kết 4” sẽ dư 3 HS, ta có thể bố trí ba học sinh này vào một nhóm . * Chia được nhóm rồi thì tổ chức làm việc như thế nào cho có hiệu quả ? Để trả lời câu hỏi này ta qua phần vai trò và trách nhiệm của các thành viên trong nhóm. Nhóm trưởng: Cũng là một thành viên của nhóm giữ nhiệm vụ tổ chức, điều hành nhóm làm việc đồng thời cùng các thành viên trong nhóm trao đổi, đóng góp ý kiến về nhiệm vụ được giao. Nhóm trưởng có thể do các thành viên trong nhóm bầu lên hoặc do giáo viên chỉ định, nhóm trưởng và các thành viên trong nhóm cần thay đổi thường xuyên tạo nên sự tự tin trong khi làm việc nhóm. Các thành viên trao đổi, đóng góp ý kiến về nhiệm vụ được giao. Nguyên tắc làm việc trong nhóm: Tôn trọng sự tổ chức của nhóm trưởng, ghi chép trung thực ý kiến chung, báo cáo đầy đủ toàn bộ nội dung đã ghi chép, người nói phải có người nghe, tôn trọng ý kiến cá nhân, thiểu số phải tuân thủ theo đa số. Có nhận xét rút kinh nghiệm sau mỗi hoạt động 2.2.5. Vai trò của giáo viên trong hoạt động nhóm: - Bố trí bàn ghế sao cho các thành viên ngồi đối diện với nhau trong từng nhóm - Sắp xếp lại chỗ ngồi để thuận tiện cho việc dạy học theo nhóm 4 hoặc 6,tận dụng được không gian phòng học để tổ chức trò chơi trong tiết học. Trong mỗi nhóm cần bố trí HS ở 3 mức độ để tạo sự tương tác giúp đỡ nhau và điều hành nhóm có hiệu quả. - Chuẩn bị câu hỏi gợi mở để làm rõ vấn đề hơn hoặc liên hệ thực tế để giúp học sinh có khả năng vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Nếu kết quả làm việc nhóm của học sinh đáp ứng đầy đủ yêu cầu thì có thể sử dụng để hệ thống thành bài học. Điều này sẽ làm tăng sự thích thú làm việc của học sinh bởi vì các em rất tự hào khi tự mình có thể hình thành được bài học cho cả lớp, đồng thời giảm bớt sự can thiệp của giáo viên trong quá trình học. - Việc nhận xét quá trình làm việc của nhóm cũng không nên qua loa, đại khái. Càng đưa ra nhận định cụ thể càng giúp học sinh tích lũy nhiều kinh nghiệm cho những lần làm việc sau. Những tiêu chí nhận xét cần thiết phải có: + Tinh thần thái độ làm việc của các thành viên trong quá trình thảo luận. + Kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. + Kĩ năng trình bày kết quả hoặc giải thích chất vấn trước lớp. + Cần khen ngợi những học sinh biết lắng nghe và đưa ra những câu hỏi thắc mắc phù hợp. - Các chức danh nhóm trưởng và thư kí nên luân phiên. Khi bắt đầu làm việc, nhóm trưởng phải phân công các thành viên trong nhóm, mỗi người một việc, sau đó cá nhân làm việc độc lập rồi từng em đưa ra ý kiến để thảo luận trong nhóm. Ý kiến thống nhất được ghi nhận để chuẩn bị trình bày trước lớp. Người trình bày cũng nên luân phiên để tạo điều kiện cho tất cả học sinh được rèn kĩ năng nói. - Trong thời gian học sinh làm việc, giáo viên cần phải đến hoặc đi xung quanh các nhóm để quan sát các hoạt động của nhóm, nếu có vấn đề gì thì kịp thời định hướng, nên thực hành với một số nhóm học sinh cụ thể. - Khen ngợi và động viên HS nói về kết quả làm việc.Vì trong quá trình giao việc cho các nhóm, nếu thấy các nhóm làm việc chăm chú và trao đổi sôi nổi thì GV mới có thể yên tâm. Một khi thấy các nhóm làm việc trầm lắng, hay nhốn nháo Gv cần nghĩ ngay tới các lí do, như phiếu học tập chưa phù hợp với trình độ hay chưa thực hiện đúng vai trò, HS chưa hiểu cần phát lệnh cứu trợ ngay lúc đó GV phải có mặt kịp thời và giải quyết vấn đề mà nhóm hoặc một vài cá nhân trong nhóm gặp phải. - Trong thời gian học sinh làm việc, giáo viên thường xuyên theo dõi để hướng dẫn, giúp đỡ các nhóm trao đổi thảo luận đúng yêu cầu bài học, tránh thảo luận tùy hứng dẫn đến nguy cơ đi chệch yêu cầu. - Giáo viên cần dự kiến trước các tình huống trả lời của học sinh để có thể xử lí tốt các kết luận. Trong quá trình quan sát các nhóm HĐ, gv thấy nhóm nào tự học có tiến độ nhanh thì giáo viên đến yêu cầu HS báo cáo và đưa ra một vài câu hỏi gợi mở thêm nhằm mở rộng kiến thức cho các em, điều này sẽ làm tăng sự thích thú làm việc của học sinh bởi vì các em rất tự hào khi tự mình có thể hình thành được bài học, đồng thời giảm bớt sự can thiệp của giáo viên trong quá trình học. Đối với nhóm có tiến độ chậm hơn thì GV lắng nghe, quan sát các em hoạt động nhóm lớn để uốn nắn, công nhận kết quả và động viên các em trong HĐ tiếp theo. * Lưu ý khi giao việc cho nhóm: - Thông thường trong quá trình dạy học chúng ta chia nhóm xong rồi mới giao việc. Giao việc lúc này không có hiệu quả hoặc có thì cũng thấp, vì sau khi thành lập nhóm, ít HS tập trung nghe phổ biến yêu cầu. - Theo kinh nghiệm của tôi, nên giao việc trước khi tiến hành chia nhóm vì trước khi chia nhóm học sinh rất tập trung, giao việc hay triển khai nhiệm vụ vào thời điểm này thì hiệu quả cao hơn vì nó rất thuận tiện cho việc hoạt động nhóm cho học sinh và tận dụng được không gian phòng học để có chỗ tổ chức các trò chơi đồng thời làm cho lớp học thoáng hơn. Thực ra thì vấn đề này nếu chúng ta xem xét một cách đúng đắn thì cách sắp sếp ngồi học như thế này không ảnh hưởng gì tới thể chất của học sinh cả: Việc tổ chức hoạt động nhóm thường xuyên thay đổi vị trí ngồi học , lúc thì ngồi học chỗ này, tiết học sau lại ngồi chỗ khác. Hay nói cách khác áp dụng hình thức dạy học theo nhóm thì chỗ ngồi của học sinh là chỗ ngồi không ổn định. - Mô hình lớp học mới ở học sinh và giáo viên có đặc điểm chủ yếu: + Học sinh: Tự giác, tự quản; tự học; tự đánh giá; tự trọng; tự tin. + Giáo viên: Với vai trò tổ chức, hướng dẫn các hoạt động; quan sát hoạt động học tập nhóm, giúp đỡ, hỗ trợ, chốt lại các vấn đề từ học sinh, đánh giá quá trình Với các đặc điểm đó, ta thấy lớp học theo nhóm mô hình trường học mới VNEN đã có sự thay đổi căn bản về phương pháp và hình thức tổ chức lớp học so với kiểu truyền thống. Từ chỗ giáo viên phần lớn mang tính giảng giải, truyền thụ sang vai trò tổ chức, hướng dẫn các hoạt động để học sinh tìm đến kiến thức bài học. Học sinh từ nghe, làm thụ động thật sự chuyển sang tự học, nghiên cứu tìm ra kiến thức bài học theo nhóm; nhóm luôn hỗ trợ lẫn nhau, với phương pháp chủ đạo là phương pháp dạy học hợp tác nhóm. 2.2.6. Vai trò của học sinh trong hoạt động nhóm. +HĐ cá nhân: Việc 1: Đọc thầm tài liệu. Việc 2: Tự làm bài. +HĐ cặp đôi: Việc 1: Trao đổi kết quả tự làm với bạn. Việc 2: Đánh giá, nhận xét, bổ sung bài cho nhau. +HĐ nhóm lớn: Việc 1: NT điều hành báo cáo trong nhóm. Việc 2: Các thành viên đánh giá, nhận xét, bổ sung. Việc 3: Thống nhất kết quả để báo cáo với thầy cô. Học sinh cần có kỹ năng giao tiếp, tương tác trong nhóm với nhau, như: + Biết lắng nghe và trình bày ý kiến một cách rõ ràng. + Biết lắng nghe và biết thừa nhận ý kiến của người khác. + Biết ngắt lời một cách hợp lí. + Biết phản đối một cách lịch sự và đáp lại lời phản đối. + Biết thuyết phục người khác và đáp lại sự thuyết phục. +Xây dựng niềm tin là kỹ năng tránh đi sự mặc cảm nhất là đối tượng học sinh có khó khăn về học tập. +Trong thảo luận cần tránh những từ ngữ như đúng, sai mà cần thay vào đó những cụm từ như: thế này sẽ tốt hơn, tìm một giải pháp hợp lý hơn - Học sinh phải có thói quen lắng nghe và khuyến khích các em đưa ra nhận xét cụ thể hoặc ý kiến bổ sung cho nội dung nhóm bạn vừa trình bày. Cao hơn nữa là tập cho học sinh đặt vấn đề, nêu câu hỏi tạo tình huống. Quá trình báo cáo kết quả thảo luận nếu điều hành tốt thì sẽ giúp học sinh rút thêm kinh nghiệm khi điều hành thảo luận trong nhóm sau này và kĩ năng hợp tác nhóm của học sinh sẽ ngày một cao hơn. - Mặt khác, cần phải chọn lọc những nội dung có “tính vấn đề” hoặc tương đối khó, cần có sự hợp tác của một nhóm học sinh, bởi vì nếu làm việc độc lập, học sinh không đủ khả năng giải quyết. Cũng cần lưu ý đến “độ khó” của vấn đề, nên chọn vấn đề vừa sức học sinh và giáo viên phải theo sát để hướng dẫn, gợi ý cho các em. Nếu chọn vấn đề quá đơn giản sẽ không thực hiện được mục tiêu của phương pháp dạy học theo nhóm lại làm cho việc tổ chức hoạt động nhóm trở nên hình thức. 2.2.7. Quan hệ giữa các phương tiện học tập, giảng dạy và CSVC lớp học: Rõ ràng, nếu tài liệu, phương tiện học tập đủ, thiếu, đồng bộ hay không đồng bộ và điều kiện về CSVC phù hợp hay không phù hợp đều rất quan hệ trực tiếp ảnh hưởng đến cách tổ chức học nhóm. Tổ chức luyện tập theo nhóm, nếu không quan tâm tới điều này thì có thể, hoặc không khai thác có hiệu quả phương tiện dạy học hiện có, hoặc vô hiệu hóa các phương tiện đó. Cần qua tâm xây dựng “Góc học tập”, đó là nơi để các đồ dùng của giáo viên và học sinh tự làm để chuẩn bị cho các tiết học và đồng thời cũng là nơi để trưng bày các sản phẩm đẹp mà sau tiết học, các em hoàn thiện như sản phẩm môn thủ công, mĩ thuật, những bài văn hay,Việc làm này cũng nhằm khuyến khích động viên các em sẽ cố gắng nhiều hơn để có sản phẩm được trưng bày. Tôi đưa những đồ dùng học tập do Bộ giáo dục cấp, những đồ dùng tự làm vào cá góc môn Toán, góc môn Tiếng Việt.... Tôi còn sưu tầm thêm những nội dung, kiến thức mới như nhũng câu ca dao, tục ngữ, những bài toán hay,nhằm khuyến khích sự tò mò, khám phá của các em. Qua đó, giáo viên dễ dàng cung cấp thêm hiểu biết cho học sinh mà không cần phải nhồi nhét, gò ép, gây áp lực cho các em. Quan hệ giữa các cách tổ chức học tập cá nhân hay toàn lớp được tiến hành trước khi tổ chức học nhóm: Một tiết dạy là một cơ cấu hoàn chỉnh từ phút đầu đến phút chót, có tính đặc thù về trình tự, về nhịp điệu, về tiến trình theo từng môn học. Vì vậy, việc làm trước, việc làm sau đương nhiên liên quan với nhau. Hoạt động trước làm nảy sinh hoạt động sau, hoạt động sau củng cố hoặc nối tiếp hoạt động trước. Dùng cách tổ chức học tập nào trước, sau đều cần có lí do trong mối quan hệ này, tránh hiện tượng xen kiểu học nhóm vào để được tiếng là có đổi mới phương pháp. Việc đảm bảo quy trình giúp giáo viên tránh được những lúng túng trong khi hướng dẫn học sinh. Nó còn thể hiện được tính khoa học trong tổ chức dạy học, đồng thời giúp học sinh tham gia thảo luận, chọn vấn đề tốt hơn. Tuy nhiên việc thực hiện quy trình có thể bỏ qua khi thường xuyên dùng. Nên tránh máy móc mất thời gian nhưng cũng không được lạm dụng việc làm vắn tắt quá mức làm mất hứng thú học tập. * Kết quả đạt được: - GV đã nhận thức được những ích lợi của dạy học nhóm: Đã thấy rõ tác dụng của dạy học theo nhóm trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, tăng cường sự tham gia của HS, như: mọi HS đều được trình bày ý kiến, HS tự tìm ra tri thức, nắm bài chắc hơn, hứng thú với học tập hơn.v.v... và phát triển những kĩ năng XH cho HS, như biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của bạn, biết trình bày ý kiến của mình cho các bạn nghe và hiểu, biết thống nhất ý kiến,v.v... - Học sinh bước đầu đã có những kĩ năng làm việc theo nhóm: Các em đã biết nhanh chóng gia nhập vào nhóm, bầu nhóm trưởng, thư kí; bước đầu biết bày tỏ quan điểm/ý kiến và trình bày mạch lạc kết quả làm việc chung của cả nhóm. - Những giải pháp mà bản thân tôi đã đúc rút và vận dụng trong quá trình thực hiện dạy học theo mô hình trường học kiểu mới và đã đạt được những kết quả đáng mừng. Các phụ huynh đã quan tâm và có nhận thức đúng đắn về việc học tập của con em mình. - Học sinh đều có ý thức tự học và học theo nhóm có hiệu quả cao, đặc biệt hầu hết các em đều có ý thức tự quản và tự giác trong mọi hoạt động. Chất lượng học sinh được tăng lên rõ rệt. Qua một năm áp dụng đề tài này thì hiệu quả đã có sự chuyển biến tích cực về kết quả giáo dục của lớp tôi. Cụ thể kết quả cuối năm 2016 - 2017 là: TSHS Thực hành thảo luận nhóm Học sinh có khả năng tự nghiên cứu bài học Học sinh có kỹ năng tham gia hoạt động nhóm Học sinh hạn chế về khả năng tự nghiên cứu bài học Học sinh chưa có kỹ năng tham gia hoạt động nhóm SL % SL % SL % SL % 27 27 100,0 27 100,0 0 0 0 0 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm: - Học nhóm theo mô hình VNEN giúp học sinh phát huy tính tự học, sáng tạo, tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Với phương pháp dạy học mới, giúp các em phát huy tốt các kĩ năng: KN giao tiếp, KN hợp tác, KN tự đánh giá lẫn nhau trong giờ học. - Tạo điều kiện đẩy mạnh đổi mới PPDH và các hình thức dạy học trên cơ sở tổ chức các hoạt động phát huy tính tích cực, chủ động, khả năng tự học của học sinh. Tăng khả năng thực hành, vận dụng, tích hợp được hoạt động phát triển ngôn ngữ của học sinh thông qua các hoạt động học tập - Chú trọng khai thác và sử dụng những kinh nghiệm của học sinh trong đời sống hàng ngày. Gắn kết giữa nội dung dạy học với đời sống thực tiễn của học sinh, của cộng đồng thông qua HĐ ứng dụng của mỗi bài., rèn cho các em kĩ năng giải quyết các vấn đề, các khó khăn của nhóm và chính bản thân các em trong mõi tiết học. - Để có được kĩ năng tổ chức hoạt động nhóm, đòi hỏi người giáo viên phải không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi và rèn luyện - Phải nắm vững yêu cầu về quan điểm dạy học, chương trình, nội dung dạy học. - Thấy được tầm quan trọng và ích lợi của hoạt động nhóm trong quá trình dạy học. - Nắm vững các cách chia nhóm và tổ chức nhóm. - Rèn luyện cách chia nhóm thông qua các tiết học một cách thường xuyên. - Chuẩn bị tốt cho mình bộ đồ dùng phục vụ cho việc học nhóm của HS. - Hoạt động nhóm có thể áp dụng được cho tất cả các tiết học ở tất cả các khối lớp ở cấp Tiểu học, đặc biệt là mô hình trường học mới VNEN. 3.2.Kiến nghị, đề xuất: Để hoạt động hướng dẫn và dạy học theo nhóm trở thành hoạt động dạy học thường xuyên, có chất lượng, mang lại hiệu quả cao cho công tác dạy học và nâng cao chất lượng giáo dục. Cụm chuyên môn và các trường thường xuyên tổ chức các chuyên đề theo từng môn và các hoạt động giáo dục cho giáo viên học hỏi, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng nhưng chắc rằng đề tài này vẫn còn nhiều thiếu sót. Rất mong các đồng nghiệp, quý lãnh đạo giúp đỡ, góp ý để bản sáng kiến hoàn thiện hơn, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Xin chân thành cảm ơn! MỤC LỤC Nội dung Trang Trang bìa 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1 1.1. Lý do chọn đề tài 1 1.2. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm 2 1.3. Phạm vi áp dụng sáng kiến 2 2. PHẦN NỘI DUNG 3 2.1. Thực trạng của việc dạy học theo nhóm mô hình trường học mới VNEN. 3 2.2. Các giải pháp 2.2.1.Thành lập ban hội đồng tự quản làm việc có hiệu quả 2.2.2. Phát huy vai trò của nhóm trưởng 2.2.3.Các hình thức học theo nhóm 2.2.4. Các hình thức chia nhóm 2.2.5. Vai trò của giáo viên trong hoạt động nhóm 2.2.6. Vai trò của học sinh trong hoạt động nhóm 2.2.7. Quan hệ giữa các phương tiện học tập, giảng dạy và CSVC lớp học. 5 5 7 8 9 11 14 15 3. PHẦN KẾT LUẬN 18 3.1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm 18 3.2. Kiến nghị, đề xuấts 18
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_ki_nang_to_chuc_day_hoc_theo_nh.doc