Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục tại trường Tiểu học Sơn Thành

Chất lượng giáo dục – đào tạo luôn là mục tiêu hàng đầu, là yêu cầu đối với quá trình phát triển và đổi mới giáo dục, để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, trên cơ sở kiến thức cơ bản, cần thiết, cần phát triển nhân cách, năng lực người học và đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực cho xã hội đòi hỏi giáo dục đào tạo phải không ngừng đổi mới.

Thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI "Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế". Giáo dục phổ thông cần đạt tới mục tiêu cụ thể là tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tự học, phát triển khả năng sáng tạo, khuyến khích học tập suốt đời.

Giáo dục tiểu học giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên các bậc học sau. Mục tiêu của giáo dục tiểu học là xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ của trẻ em nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Là những cán bộ quản lý, chúng tôi nhận thức rõ một nhà trường muốn phát triển thì yếu tố đầu tiên là chất lượng. Chúng tôi luôn lấy “chất lượng là danh dự của nhà trường”. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường? Đó là câu hỏi luôn “đau đáu” thu hút sự quan tâm đầu tư công sức của chúng tôi và tập thể nhà trường.

 

doc13 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 3466 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục tại trường Tiểu học Sơn Thành", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iáo viên quán triệt chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tham gia học tập các chỉ thị nghị quyết. Thực hiện tốt các quy định, quy chế của Đảng, của nhà nước, của ngành. Người thầy giáo phải mẫu mực trong mọi lĩnh vực, phải là “khuôn vàng, thước ngọc” cho học sinh noi theo.
* Đối với học sinh:
Giáo dục các em dựa trên quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy 5 điều Bác Hồ dạy Thiếu niên Nhi đồng làm mục tiêu, cơ sở giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho học sinh. Đó là lòng yêu nước và những tình cảm tốt đẹp. Trước hết là tình yêu thương những người ruột thịt, thầy cô giáo, bạn bè, yêu đồng chí, đồng bào, yêu Tổ quốc. Mỗi người có quan hệ và ứng xử tốt đẹp với người khác, với xã hội, với thiên nhiên và với chính bản thân mình. Đó là lối sống có tổ chức, thật thà, khiêm tốn, giản dị
Nhà trường thực hiện nghiêm túc các giờ đạo đức chính khoá, nâng cao chất lượng giờ dạy kết hợp luyện tập, thực hành, vận dụng trong thực tế cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
Nhà trường tăng cường tổ chức các hoạt động thi đua nhân dịp các ngày lễ lớn như ngày toàn dân đưa trẻ đến trường 5/9, nhân ngày nhà giáo Việt Nam 20/11, ngày quốc phòng toàn dân 22/12, ngày thành lập Đảng 3/2, ngày quốc tế phụ nữ 8/3, ngày thành lập Đoàn 26/3, ngày chiến thắng 30/4, ngày thành lập Đội 15/5, ngày sinh nhật Bác 19/5
Thông qua các ngày kỷ niệm mà giáo dục các em tình yêu thầy cô, bạn bè, mái trường, hiểu về truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, khơi dậy lòng tự hào dân tộc từ đó các em có ý chí phấn đấu vươn lên trong rèn luyện, trong học tập, trong tu dưỡng để đạt là con ngoan, trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ.
 1.2.3. Nâng cao chất lượng giáo dục các môn học và hoạt động giáo dục cho học sinh tiểu học
Khi nói về mục tiêu giáo dục, Bác Hồ đã căn dặn: “Tiểu học cần giáo dục cho các cháu thiếu nhi yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép vào khuôn khổ của người lớn, phải đặc biệt giữ gìn sức khoẻ của các cháu’’.
Như vậy, chúng tôi đã thực hiện giáo dục tiểu học phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. 
Về vấn đề này, Bác Hồ đã từng nhắc nhở: “Dạy trẻ phải giữ gìn toàn vẹn cái tính vui vẻ hoạt bát, tự nhiên, tự động trẻ trung của chúng, chớ nên làm cho chúng trở nên những người già sớm”.
Nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh thể hiện rõ ràng ở việc dạy chữ, dạy người. Thông qua các môn học và các hoạt động giáo dục mà các em có đủ kiến thức, kĩ năng và các năng lực, phẩm chất cần thiết.
Vì vậy, chúng tôi đã thực hiện việc đổi mới giáo dục tiểu học: Đổi mới phương pháp giảng dạy và giáo dục theo hướng phát triển năng lực người học, đổi mới hình thức dạy học theo mô hình trường học mới từ lớp 2 đến lớp 5, dạy học Tiếng Việt lớp 1- Công nghệ giáo dục, dạy học theo phương pháp bàn tay nặn bột, đổi mới kiểm tra đánh giá,... Xây dựng kế hoạch dạy học phải phù hợp với đối tượng học sinh từng lớp, phân loại đối tượng học sinh để dạy học cho vừa sức để vừa nâng cao chất lượng đại trà, vừa có điều kiện bồi dưỡng học sinh mũi nhọn, học sinh năng khiếu và thực hiện tốt nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh mũi nhọn ở tất cả các khối lớp.
Nhà trường phát động các phong trào thi đua nhân các ngày kỷ niệm lớn theo chủ đề chủ điểm hàng tháng, hàng kỳ. Bởi vì, học sinh tiểu học còn nhỏ tuổi, sức khoẻ, thể lực còn yếu ớt nên các hình thức tổ chức các hoạt động cho các em phải vừa sức, tạo cho các em tâm thế: “Học mà chơi, chơi mà học”. Từ những phong trào thi đua theo chủ đề, chủ điểm nhằm giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, kích thích niềm say mê, hứng thú học tập, giúp các em tiếp thu bài tốt.
Tổ chức cho các em tham gia vào các hoạt động như văn nghệ, thể dục thể thao; làm báo tường, báo hoa; trang trí không gian lớp học; Giai điệu tuổi hồng, kể chuyện đạo đức, giới thiệu sách, đọc diễn cảm, ngày hội đọc sách Thông qua đó tạo điều kiện cho các em giao lưu, tiếp xúc, học hỏi, tạo niềm tin, tránh tự ty, mặc cảm (phụ lục 2).
Không chỉ dạy học trong trường, không chỉ dạy các môn văn hoá mà còn phải tổ chức cho các em tham gia các hoạt động xã hội, các hoạt động ngoại khoá như tham gia các cuộc thi tìm hiểu, làm công tác nhân đạo từ thiện, lao động vệ sinh trường lớp, thôn xóm, trồng chăm sóc cây, hoa. Đặc biệt là việc tổ chức cho học sinh được đi tham quan học tập thực tế, như đợt vừa qua nhà trường đã tổ chức tham quan trải nghiệm triển lãm Hoàng Sa, Trường Sa tại nhà Văn hoá thanh thiếu niên huyện Nho Quan, thăm nhà lưu niệm Bác Hồ tại xã Lạng Phong,... Từ đó mà các em tiếp thu bài học dễ dàng hơn, kiến thức được khắc sâu hơn, các năng lực và phẩm chất của học sinh được phát triển qua đó làm tăng thêm tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc, trách nhiệm với bản thân ( phụ lục 3,4).
Làm tốt công tác duy trì sĩ số lượng, tỉ lệ chuyên cần nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
Thực hiện công bằng trong giáo dục, mọi trẻ em trong địa bàn đều được đi học và đều có đủ điều kiện học tập như nhau. Chính vì vậy chất lượng qua các kỳ kiểm tra và cuối năm học được nâng lên.
1.2.4. Xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo – nhân tố quyết định chất lượng giáo dục
Xây dựng đội ngũ nhà giáo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là yếu tố cần thiết. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI chỉ rõ các giải pháp và đây là một giải pháp then chốt: “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo”.
Hiện nay chúng ta đang chuẩn bị đổi mới chương trình, nội dung sách giáo khoa, vì vậy bồi dưỡng để giáo viên nắm được hệ thống những quan điểm chỉ đạo việc đổi mới chương trình, nội dung, sách giáo khoa; nắm vững mục tiêu, nội dung. Đồng thời nắm vững phương hướng và cách thức đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh là cần thiết. Chính vì vậy, nhà trường đã mạnh dạn đăng kí và thực hiện dạy học Tiếng Việt 1- Công nghệ giáo dục, dạy học theo mô hình trường học mới VNEN. Xây dựng bồi dưỡng đội ngũ không chỉ về nhận thức, tư tưởng chính trị mà quan trọng là bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, về kỹ năng sư phạm cho đội ngũ giáo viên - những nhân tố quyết định việc thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong trường tiểu học.
Bồi dưỡng chuyên môn thông qua các buổi chuyên đề, hội thảo với nhiều hình thức khác nhau:
- Nhà trường xây dựng kế hoạch sinh hoạt chuyên môn ngay từ đầu năm học, cấp trường mỗi tháng 01 chuyên đề, cấp tổ mỗi tháng ít nhất 01 chuyên đề.
- Lựa chọn nội dung các chuyên đề tùy thuộc vào nhu cầu của giáo viên nhiệm vụ trọng tâm trong năm học, không dàn trải, nội dung các chuyên đề chủ yếu về đổi mới giáo dục tiểu học, đổi mới phương pháp giảng dạy, đánh giá, nhận xét học sinh, những vấn đề mới...
- Để chuẩn bị cho mỗi buổi sinh hoạt chuyên môn thì cán bộ quản lý cùng với tổ trưởng chuyên môn cùng trao đổi, thống nhất thời gian, địa điểm, phương tiện và nội dung của buổi sinh hoạt chuyên môn tập trung vào những nội dung mới giáo viên cần, nội dung giáo viên còn gặp khó khăn để cùng nhau trao đổi tháo gỡ.
- Trong sinh hoạt chuyên môn cấp tổ, chuyên môn cấp trường tổ chức cho các thành viên cùng nhau dự giờ, cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm của mỗi giáo viên, lấy trọng tâm là trao đổi, thảo luận về các chủ đề, nội dung giảng dạy, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc của giáo viên khi giảng dạy cũng như giáo dục học sinh, không xếp loại giờ dạy và không thống nhất quy trình cách dạy, không áp đặt khuôn mẫu, tạo điều kiện đổi mới sáng tạo, phát triển tư duy của mỗi thành viên, phù hợp với điều kiện của giáo viên, lấy hiệu quả chất lượng học sinh làm mục tiêu chính.
- Mỗi cán bộ quản lý chúng tôi và giáo viên đều có sản phẩm sau mỗi buổi sinh hoạt chuyên môn, hội thảo, những bài thu hoạch được gửi qua “trường học kết nối”.
Đổi mới cách đánh giá học sinh theo văn bản hợp nhất số 03/VBHN. Chúng tôi đã tổ chức chuyên đề, tư vấn, hướng dẫn giáo viên cụ thể cách đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ, thiết kế đề kiểm tra định kỳ. Mỗi giáo viên tự nghiên cứu tài liệu, viết thu hoạch trước khi học tập, sau đó học tập trao đổi, chia sẻ trong nhóm, cán bộ quản lý chia sẻ, tháo gỡ những băn khoăn vướng mắc, hỗ trợ giáo viên cùng thống nhất và thực hiện. 
Giáo viên tiểu học dạy tất cả các môn học nên chúng tôi đã tiến hành bồi dưỡng kiến thức chuyên môn và phương pháp giảng dạy mới ở tất cả các môn và phân môn cho giáo viên.
Trong bồi dưỡng năng lực và kỹ năng sư phạm cần chú trọng bồi dưỡng năng lực chuẩn đoán, nhu cầu và đặc điểm đối tượng học sinh trong quá trình giảng dạy và giáo dục. Bồi dưỡng năng lực đánh giá, năng lực đáp ứng, thiết lập mối quan hệ giáo viên – học sinh. Bồi dưỡng năng lực thiết kế, tổ chức thực hiện, phối hợp các lực lượng trong và ngoài nhà trường.
Mặt khác giáo viên tiểu học vừa giảng dạy tất các các môn học vừa là giáo viên chủ nhiệm lớp nên cần quan tâm bồi dưỡng năng lực tổ chức các hoạt động tập thể, năng lực thuyết phục và cảm hoá học sinh, khả năng hoà nhập với thế giới tâm hồn trẻ. Khả năng tiếp cận với các đối tượng đặc biệt.
Khuyến khích giáo viên tự học, tự bồi dưỡng. Đa dạng hoá các phương thức bồi dưỡng bằng bồi dưỡng trong hè, trong năm học, qua các lớp tập huấn, chuyên đề, sinh hoạt chuyên môn. Tăng cường các phương tiện thiết bị phục vụ công tác bồi dưỡng như kinh phí, vật tư, thiết bị
Tăng cường tính thực hành trong bồi dưỡng. Đổi mới cách kiểm tra đánh giá trong và sau bồi dưỡng. Mỗi cán bộ, giáo viên trước và sau khi tiến hành một chuyên đề bồi dưỡng đều có bài thu hoạch học tập.
Tăng cường trang thiết bị, tài liệu hướng dẫn, định hướng cụ thể, chi tiết để giáo viên lấy đó làm cơ sở cho việc giảng dạy.
Tổ chức đánh giá rút kinh nghiệm kịp thời để phát huy ưu điểm, điều chỉnh những bất hợp lý, khắc phục hạn chế ( phụ lục 5).
Chúng tôi xác định giáo dục tiểu học là nền tảng của giáo dục phổ thông, lại là môi trường hình thành nhân cách con người. Do đó, không chỉ quan tâm đến việc dạy chữ, dạy kiến thức mà còn phải dạy cách sống, cách ứng xử, dạy học sinh biết tuân thủ pháp luật, hoà nhập cuộc sống, không để học sinh “sợ học”, không muốn đến trường. Mà muốn vậy thì phải tạo ra môi trường giáo dục tốt nhất để học sinh mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Để đạt được mục tiêu ấy, chúng tôi thực hiện giảm tải chương trình theo quy định, điều chỉnh tài liệu học, đổi mới phương pháp dạy học, đề cao tính chủ động trong công việc của giáo viên; giáo viên không được “phụ thuộc” sách giáo khoa, mà phải “phụ thuộc” vào học sinh. Trong quá trình giảng dạy, lấy học sinh làm trung tâm, khơi nguồn kiến thức từ chính bản thân các em. Giáo viên không còn áp đặt học sinh, thay vào đó là tìm ra nguyên nhân của vấn đề và giải quyết nó một cách hợp lý... Chúng tôi giao quyền tự chủ cho giáo viên về thời gian, chương trình, tài liệu, giáo viên có thể điều chỉnh tài liệu học tập phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm phát triển năng lực từng học sinh.
Khuyến khích giáo viên sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Hàng tuần, tháng đánh giá việc ứng dụng công nghệ thông tin trong soạn, giảng của giáo viên. Động viên, khen thưởng những giáo viên thực hiện tốt.
1.2.5. Làm tốt công tác khen thưởng và nêu gương điển hình
 Khen thưởng đối với học sinh, giáo viên tiểu học nói chung là hoạt động không thể thiếu. Đối với học sinh số lần khen thưởng trong mỗi tiết học, buổi học, trước mỗi giờ chào cờ đầu tuần cho các em là một việc làm rất hữu ích và đem lại hiệu quả vô cùng to lớn trong việc thu hút các em đến trường. Khen thưởng, nêu gương điển hình có thể đơn giản là những lời khen, những bài hát bạn tặng, thầy cô tặng cá nhân em đó trước lớp, vào đầu mỗi buổi chào cờ hoặc những tập vở, cây bút cũng làm các em phấn chấn, hào hứng, yêu trường, yêu lớp nhiều hơn. 
Đối với giáo viên: Cuối mỗi năm học nhà trường đều xét gương điển hình trong công tác, giảng dạy, nhân rộng gương điển hình trong toàn trường để tập thể noi gương học tập. Nhà trường có những phần thưởng động viên, khích lệ xứng đáng đáng tạo động lực cho cán bộ, giáo viên phấn đấu trong công tác.
 1.2.6 Tăng cường cơ sở vật chất, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục 
a/ Tăng cường cơ sở vật chất
Thực hiện nghiêm túc chế độ chính sách, đầu tư có kế hoạch cho nhà trường đảm bảo các yêu cầu theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, từng bước xây dựng nhà trường theo tiêu chí trường chuẩn quốc gia theo các mức tương ứng trong từng giai đoạn.
Xây dựng kế hoạch về đầu tư kinh phí trang thiết bị phục vụ giảng dạy giáo dục, đảm bảo yêu cầu đúng mục đích, có hiệu quả.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất thiết bị. Bảo quản và sử dụng có hiệu qủa cơ sở vật chất hiện có (phụ lục 6).
b/ Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục
Tổ chức tốt công tác tuyên truyền trong nhà trường, tuyên truyền cho cộng đồng thông qua nhiều hình thức với mục đích dành những gì tốt đẹp nhất cho học sinh, cải thiện điều kiện học tập của các em, đổi mới cách dạy của thầy và cách học của trò.
Để nâng cao chất lượng giáo dục, chúng tôi đã phối hợp với cha mẹ học sinh tổ chức chuyên đề “Phụ huynh cộng đồng tham gia giáo dục”. Vào đầu năm học, đầu học kỳ II, 100% cha mẹ học sinh của các lớp được mời đến dự giờ giáo viên dạy, xem các em học bài, cùng trao đổi với giáo viên phối hợp giáo dục học sinh. Đặc biệt với học sinh lớp 1, với môn Tiếng Việt, trước mỗi mẫu mới chúng tôi tổ chức chuyên đề có sự tham gia của cha mẹ học sinh để cùng hướng dẫn các em học tập, từ đó các bậc cha mẹ học sinh, cộng đồng đã hỗ trợ giúp đỡ nhà trường rất nhiều trong quá trình giáo dục ( phụ lục 7).
Tạo lập uy tín, niềm tin đối với phụ huynh, cấp uỷ Đảng, chính quyền và cộng đồng ở địa phương thông qua việc khẳng định chất lượng uy tín của nhà trường. Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm.
Tận dụng những kinh nghiệm và tri thức của phụ huynh, phát huy vai trò là đối tượng huy động và là chủ thể huy động.
Huy động sự hỗ trợ của cha mẹ học sinh, các tổ chức đoàn thể cả tinh thần lẫn vật chất để cùng phối hợp với nhà trường giáo dục học sinh.
Làm tốt công tác tham mưu với lãnh đạo địa phương, lãnh đạo ngành. Xây dựng mối liên kết giữa nhà trường, gia đình, các lực lượng xã hội.
2. Khả năng áp dụng của sáng kiến
Những giải pháp “Nâng cao chất lượng giáo dục tại trường Tiểu học Sơn Thành” đã được áp dụng hiệu quả ở tất cả các khối lớp của nhà trường với 100% học sinh từ lớp 1 đến lớp 5. 
Tại hội nghị chuyên đề Đổi mới giáo dục tiểu học cấp huyện ngày 21 tháng 3 năm 2017 được tổ chức ngay tại trường Tiểu học Sơn Thành, việc “Nâng cao chất lượng giáo dục tại trường Tiểu học Sơn Thành” đã được Phòng GD&ĐT Nho Quan, các đồng nghiệp của các trường bạn đánh giá tốt và phổ biến, khuyến khích các trường trong toàn huyện áp dụng nhân rộng.
Qua thực tế chỉ đạo và thực hiện, chúng tôi có thể khẳng định: Sáng kiến có thể áp dụng được với các trường tiểu học huyện Nho Quan và các địa phương khác.
IV. CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Sáng kiến sẽ được được áp dụng hiệu quả khi:
- Cán bộ quản lí nhà trường chủ động, dân chủ thực hiện chủ trương đổi mới.
- Đội ngũ đoàn kết, chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ.
- Tạo lập mối quan hệ tốt giữa nhà trường, giáo viên và cha mẹ học sinh.
V. HIỆU QUẢ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC	
	1. Hiệu quả kinh tế 
Sau khi nghiên cứu và áp dụng sáng kiến trên tại trường Tiểu học Sơn Thành, chúng tôi nhận thấy rằng sáng kiến mà chúng tôi nghiên cứu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục trong trường tiểu học Sơn Thành nói riêng, góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học của huyện Nho Quan nói chung.
Lợi ích kinh tế lớn nhất mà sáng kiến mang lại không phải là số tiền làm lợi mà là chất lượng giáo dục được nâng lên rõ rệt. Đây chính là nguồn lợi kinh tế vô giá về tri thức rất khó có thể kiểm đếm được.
Chất lượng giáo dục Tiểu học được nâng lên đồng nghĩa với việc học sinh tự tin, vững vàng tiếp tục học ở các bậc học tiếp theo, góp phần đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu trong thời kì đổi mới.
2. Hiệu quả xã hội
 2.1. Hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ - nhân tố quyết định chất lượng giáo dục
Nhờ áp dụng các biện pháp trên nên chất lượng đội ngũ giáo viên đã được nâng lên. Đội ngũ giáo viên trường tiểu học Sơn Thành là một tập thể đoàn kết, luôn xác định lập trường, tư tưởng vững vàng, yên tâm công tác, nhiệt tình, trách nhiệm với công việc, luôn trau dồi, tích cực học hỏi, tích luỹ kinh nghiệm, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy và giáo dục, có ý thức xây dựng nhà trường thành một tập thể vững mạnh. Hiện nay đội ngũ giáo viên có 18/18 đồng chí đạt chuẩn và trên chuẩn, trong đó trên chuẩn 17/18 đạt (đạt 94,4%). Trình độ giáo viên được đào tạo cơ bản, phần lớn giáo viên đang ở độ ‘‘chín’’ cả về tuổi đời và tuổi nghề. Chính vì vậy, chất lượng giảng dạy các môn học của giáo viên ngày càng được nâng cao, 100% giáo viên đạt yêu cầu về chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học. Nhà trường luôn lấy yếu tố chất lượng hiệu quả trong giảng dạy và giáo dục làm tiêu chí cơ bản trong các tiêu chuẩn đánh giá giáo viên. Bởi vậy chất lượng rèn luyện và học tập của học sinh đã nói lên chất lượng giảng dạy và giáo dục của đội ngũ giáo viên.
Trong hai năm học 2015-2016, 2016-2017 giáo viên Trường Tiểu học Sơn Thành tham gia các kỳ thi giáo viên giỏi đều đạt giải và đạt giải cao. Cụ thể trong năm học 2015-2016, có 2 giáo viên đạt giải giáo viên giỏi cấp huyện, 1 giáo viên Tổng phụ trách Đội giỏi và năm học này có 01 giáo viên đạt giải ba giáo viên dạy giỏi môn Tiếng Anh. Giáo viên hướng dẫn học sinh tham gia các sân chơi trí tuệ (giải toán, tiếng Anh, các câu lạc bộ) đã có nhiều học sinh đạt giải các cấp. Điều đó khẳng định chất lượng đội ngũ của nhà trường được nâng lên rõ rệt.
 2.2. Hiệu quả nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường
Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Phòng Giáo dục và Đào tạo Nho Quan và sự phấn đấu nỗ lực của cán bộ, giáo viên học sinh trường tiểu học Sơn Thành, và sự vận dụng sáng tạo linh hoạt các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục ở trường tiểu học Sơn Thành. Trong hai năm qua, chất lượng giáo dục của nhà trường được khẳng định tốt, tỉ lệ học sinh hoàn thành, hoàn thành tốt được nâng lên, tỉ lệ học sinh chưa hoàn thành giảm. Cụ thể:
 a. Chất lượng các môn học, các hoạt động giáo dục (bảng phụ lục) 
 b. Các năng lực, phẩm chất (bảng phụ lục)
 c. Học sinh đạt giải qua các hội thi, kì thi:
Năm học
Cấp huyện
Cấp tỉnh
2015-2016
22
13
2016-2017
27
6
Qua bảng thống kê cho thấy số học sinh đạt giải ở các cuộc thi Olimpyc tiếng Anh, giải toán bằng tiếng Việt, giải toán bằng tiếng Anh được tăng lên ở cấp huyện, nhưng cấp tỉnh số lượng học sinh năm nay được tham dự rất ít mỗi khối chỉ có 5 em/huyện. Riêng khối 5 lấy 15 em/huyện thì Trường Tiều học Sơn Thành đã có 4 em trong đội tuyển thi tỉnh và có 3 em đạt giải tỉnh, có một học sinh tham gia thi quốc gia. Có thể nói chất lượng học sinh đạt giải trong các cuộc thi ở trường tiểu học Sơn Thành đã được nâng cả về số lượng và chất lượng điều đó càng khẳng định các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục áp dụng ở trường tiểu học Sơn Thành càng có tính khả thi.
Chúng tôi thiết nghĩ rằng, những giải pháp trên đã áp dụng có hiệu quả cao ở Trường Tiểu học Sơn Thành. Như vậy có thể áp dụng được ở các đơn vị khác trong và ngoài huyện Nho Quan.
Mỗi nhà trường có thể áp dụng sáng kiến ở những mức độ khác nhau và sẽ thu được những hiệu quả khác nhau nhưng chúng tôi tin tưởng rằng: Khi sáng kiến được áp dụng thành công sẽ làm cho chất lượng giáo dục được nâng lên, góp phần thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo Nghị quyết 29 - NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI.
Sơn Thành, ngày 16 tháng 04 năm 2017
NGƯỜI NỘP ĐƠN
TÁC GIẢ
ĐỒNG TÁC GIẢ
Đinh Thị Minh Huyền
Nguyễn Thị Lan
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GIÁO DỤC NHO QUAN 

File đính kèm:

  • docĐinh Thị Minh Huyền_Hiệu trưởng_TH Sơn Thành.doc
  • xlsChất lượng cuối năm 2016-2017.xls
  • xlsChất lượng năm học 2015-2016.xls
  • docPhụ lục.doc
Sáng Kiến Liên Quan