Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp thực hiện tốt công tác chủ nhiệm Lớp
Công tác chủ nhiệm là một công việc thường xuyên, khá gắn bó với người GV và hầu như GV nào cũng từng kinh qua công tác này. Vì vậy, đối với mỗi nhà giáo trong quá trình đảm nhiệm trọng trách này đều tích lũy cho mình một số kinh nghiệm riêng. Hơn nữa trong thời đại ngày nay, cùng với sự tiến bộ của xã hội, sự giao lưu văn hóa, kinh tế, . rộng rãi như đã nói ở trên thì vấn đề làm sao để đáp ứng tốt vai trò một GVCN là vấn đề không hề cũ. Kéo theo, những kinh nghiệm mà GVCN tích lũy được cần được quan tâm, chia sẻ, bồi dưỡng thêm nhằm mục đích làm tốt công tác chủ nhiệm, làm tốt nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân đã tin tưởng giao phó là giáo dục, rèn luyện các em ngày càng tốt hơn, giúp các em trở thành những con người lao động "vừa hồng, vừa chuyên", sống hoàn thiện, có ích trong tương lai. Công tác chủ nhiệm quyết định chất lượng dạy và học của GV và HS. Làm tốt công tác chủ nhiệm tức là người GV đã hoàn thành tốt việc giảng dạy các bộ môn và tổ chức giáo dục, rèn luyện đạo đức cho HS. Đặc biệt trong nhà trường Tiểu học, vai trò của GVCN hết sức quan trọng. GVCN thay mặt nhà trường gia đình quản lý điều hành lớp, trực tiếp giáo dục tư tưởng đạo đức, hình thành nhân cách cho HS, là cầu nối giữa ba môi trường giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội.
là then chốt. 2. Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp giỏi quản lý, tổ chức, kiểm tra. Như chúng ta đã biết xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi là việc rất quan trọng người giáo viên làm công tác chủ nhiệm phải có kế hoạch thực hiện. Hơn nữa, để đội ngũ cán bộ lớp cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện nề nếp học tập của các bạn là công việc cần thiết và có ích. - Trước hết, những HS được chọn làm cán bộ lớp bao giờ cũng phải gương mẫu trước các bạn về mọi mặt: Học tập, kỷ luật, tham gia các hoạt động, đối xử với bạn bè.... - Sau khi đã bầu chọn được Ban Cán sự của lớp, tôi giao nhiệm vụ cụ thể cho từng em như sau: * Nhiệm vụ của lớp trưởng: - Theo dõi, kiểm tra mọi hoạt động của lớp. - Điều khiển các bạn xếp hàng vào lớp, xếp hàng chào cờ đầu tuần, xếp hàng tập thể dục. - Giữ trật tự lớp khi GV chấm bài, khi GV có việc phải ra khỏi lớp và khi lớp dự lễ chào cờ đầu tuần. - Đề nghị giáo viên tuyên dương, phê bình cá nhân hoặc tập thể. Lớp trưởng quản lý và điều khiển cả lớp thực hiện đúng nội quy trường, lớp. * Nhiệm vụ của lớp phó học tập: - Tổ chức lớp truy bài 15 phút đầu giờ; giúp đỡ các bạn học yếu học bài, làm bài. - Điều khiển các bạn trao đổi, thảo luận hoặc trả lời câu hỏi trong tiết học khi giáo viên yêu cầu. - Theo dõi việc học tập của lớp trong các tiết chuyên. - Làm mọi việc của lớp trưởng khi lớp trưởng vắng mặt hoặc nghỉ học. * Nhiệm vụ của lớp phó lao động: - Phân công, theo dõi và kiểm tra các tổ trực nhật - Theo dõi, kiểm tra các bạn khi tham gia các buổi lao động do trường, lớp tổ chức. - Phối hợp với lớp trưởng, lớp phó học tập giữ trật tự lớp. Mỗi em sẽ làm đúng các nhiệm vụ của mình. Ngoài ra, lớp trưởng và 2 lớp phó phải đoàn kết và hợp tác chặt chẽ với nhau trong công việc chung. Cuối mỗi tuần, vào tiết sinh hoạt lớp ngày thứ sáu, lớp trưởng, lớp phó báo cáo các mặt hoạt động của lớp. Căn cứ vào báo cáo của từng em, tôi nắm được khả năng quản lí lớp của từng em, động viên khen ngợi những việc các em đã làm tốt, đồng thời chỉ rõ những thiếu sót và hướng dẫn các em cách khắc phục. * Xây dựng nề nếp lớp: Xây dựng nề nếp xếp hàng ra vào lớp và xuống sân học thể dục Xây dựng tư thế ngồi học Xây dựng nề nếp giơ bảng Xây dựng nề nếp giơ tay phát biểu * Xây dựng mối quan hệ thầy- trò: Trước đây, quan hệ thầy, trò là quan hệ chịu ơn- ban ơn; bề trên- kẻ dưới; giảng giải- ghi nhớ. Ngày nay, quan hệ này được thay bằng quan hệ phân công- hợp tác. Thầy thiết kế- trò thi công. Thầy làm mẫu, giao việc- trò làm theo mẫu của thầy. Mỗi lời thầy nói ra phải là một “lệnh” (một lời giao việc). Do vậy, mọi yêu cầu tôi đưa ra, học trò phải thi hành thật nghiêm. Ngay từ đầu, tôi yêu cầu học trò phải cố gắng làm cho đúng. Nếu chưa đúng thì phải làm lại cho đúng mới thôi. Đúng là đúng từ việc làm, nghiêm là nghiêm trong việc làm chứ không phải ở thái độ khắt khe, gay gắt. Quan hệ cơ bản nhất của tôi và học trò là quan hệ hợp tác làm việc: tôi giao việc- học trò làm; tôi hướng dẫn- học trò thực hiện. - Khi giao việc, tôi chỉ nói một lần, nhưng chỉ nói khi lớp trật tự. Với cách làm này, tự nhiên thầy sẽ trở nên nói ít, học trò sẽ làm nhiều. Làm việc như thế nào thì đạo đức, ý thức sẽ kèm theo như thế ấy. Làm đến nơi đến chốn thì ý thức kỉ luật cũng đến nơi đến chốn. - Hành vi của giáo viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lí cũng như sự hình thành tính cách của trẻ. Vì vậy, khi lên lớp, tôi luôn chú ý đến cả cách đi đứng, nói năng, cách ăn mặc, cách cầm sách, chữ viết, thái độ,...để học trò noi theo. Không vì bất cứ lí do gì mà tôi cho phép mình cẩu thả hoặc xuề xòa, qua loa trước mặt học sinh. - Khi học sinh nào làm bài chưa đúng, tôi yêu cầu học sinh đó phải làm lại chứ không chấm điểm kém ngay. Tôi giúp đỡ, hướng dẫn học sinh làm lại ngay tại lớp, điểm các em làm lại vẫn có thể là điểm khá, điểm giỏi. Bởi tôi quan niệm rằng đối với học sinh tiểu học chấm điểm không phải để bắt lỗi, để la mắng học sinh mà chấm điểm để nhằm phát hiện những chỗ chưa đúng của học sinh, giúp các em làm lại cho đúng, cho hoàn thiện hơn. Với cách nói đúng, làm đúng trong học tập, các em trở thành những con người tự tin, trung thực, không gian dối. - Khi có học sinh mắc sai lầm, thiếu sót, tôi luôn cố gắng kiềm chế và tôn trọng học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ các em sửa chữa. Tôi không bao giờ có những lời nói, cử chỉ xúc phạm các em. Ở tuổi này, lòng tự trọng của các em rất cao, chỉ một lời nói xúc phạm sẽ làm tan nát tâm hồn trẻ thơ. Thậm chí có em sẽ oán hận, căm ghét thầy cô, bỏ học và không bao giờ trở lại lớp học nữa cho dù có nhiều người đến nhà vận động. Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi biết rằng có những em học yếu hoặc có hôm không học bài, làm bài nhưng lỗi không phải hoàn toàn là do các em. Có em ham chơi nên quên học bài, có em do bị mất căn bản từ các lớp dưới. Nhưng cũng có em học yếu, hoặc không học bài làm bài là do những điều kiện khách quan. Gia đình của các em đâu phải lúc nào cũng đầm ấm, hạnh phúc; đâu phải em nào cũng may mắn dược bố mẹ, ông bà động viên trong mỗi bước học tập. Và có biết bao nhiêu bố mẹ phải lo làm thuê, làm mướn kiếm sống hoặc vì ăn chơi cờ bạc hay ốm đau bệnh hoạn,... nên không ngó ngàng gì đến việc học của con cái, thậm chí các em còn bị mắng chửi, bị đánh đập ... Những sóng gió đó đã tác động đến tâm lí trẻ thơ, cản trở việc học tập của các em. Nếu như giáo viên không biết được những nguyên nhân đó thì rất dễ nổi giận đùng đùng, rồi la mắng, trừng phạt các em. Điều đó rất bất lợi cho quan hệ thầy- trò sau này. Vì vậy, đứng trước một học sinh quậy phá, hay lơ đãng không học bài, làm bài, tôi không kết án trừng phạt ngay mà bình tĩnh chờ đến hết buổi học gặp riêng các em để hỏi cho rõ nguyên nhân. Lần đầu các em vi phạm, tôi nhẹ nhàng nhắc nhở. Nếu lần thứ hai, các em vẫn tái phạm, tôi phải liên hệ đến gia đình tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ, giáo dục các em. - Hàng ngày, tôi luôn khích lệ và biểu dương các em kịp thời, ca ngợi những ưu điểm của các em nhiều hơn là phê bình khuyết điểm. Tôi cố tìm ra ngững ưu điểm nhỏ nhất để khen ngợi động viên các em. Nhưng trong khi khen, tôi cũng không quên chỉ ra những thiếu sót để các em khắc phục và ngày càng hoàn thiện hơn. - Khi nói chuyện, khi giảng, cũng như khi nghiêm khắc phê bình lỗi lầm của học sinh, tôi luôn thể hiện cho các em thấy tình cảm yêu thương của một người thầy đối với học trò. Theo qui luật phản hồi của tâm lí, tình cảm của thầy trước sau cũng sẽ được đáp lại bằng tình cảm của học trò. Lòng nhân ái, bao dung, đức vị tha của người thầy luôn có sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa học sinh. “Lớp học thân thiện” chỉ có được khi người thầy có tấm lòng nhân hậu, bao dung, hết lòng vì học sinh thân yêu của mình. Có một người thầy như vậy thì chắc chắn học sinh sẽ chăm ngoan, tích cực và ham học, thích đi học. * Xây dựng mối quan hệ bạn bè: Trong cuộc sống của mỗi con người, ngoài những người thân trong gia đình ra, ai cũng cần có bạn bè để chia sẻ. Học sinh Tiểu học cũng vậy. Nếu các em có nhiều bạn bè thân thiết trong lớp thì các em sẽ hợp tác vui vẻ với nhau và sẽ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Em học giỏi sẽ giúp những em học yếu; ngược lại, em học yếu cũng dễ dàng nhờ bạn giúp đỡ mình học tập mà không phải e ngại, xấu hổ (Học thầy không tày học bạn). Nhưng trong thực tế, một lớp học thường xuất hiện nhiều nhóm học trò, các em chia bè phải, phân biệt giàu nghèo, hay nói xấu hoặc châm chọc nhau. Những em nữ thì hay rỗi hay hờn giận. Còn các em nam thì hăm he đánh nhau, trả thù nhau. Tuy các em chưa gây ra chuyện gì nghiêm trọng nhưng nó vẫn ảnh hưởng xấu đến tình cảm bạn bè và chất lượng học tập của lớp. Là một giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn quan tâm đến vấn đề này. Xây dựng được mối quan hệ bạn bè đoàn kết, gắn bó thì tôi sẽ xây dựng được nề nếp lớp học, tiến tới xây dựng môi trường học tập thân thiện. Từ môi trường học tập thân thiện đó, chất lượng học tập của lớp chắc chắn sẽ được nâng cao. Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn bó, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong học tập, tôi luôn tạo ra các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự hợp tác của nhiều học sinh. Cách làm cụ thể như sau: - Trong mỗi tiết học, tôi thường xuyên chia nhóm ngẫu nhiên. Tiết học này, các em chung nhóm với bạn này, nhưng tiết sau, các em lại chung nhóm với bạn khác. Lúc đầu có em chưa chịu, tuy ngồi chung nhóm nhưng có em lại quay mặt ra chỗ khác, hoặc ngồi im không tham gia, ai muốn làm gì thì làm; có nhóm lại cãi nhau, không ai chịu làm nhóm trưởng hoặc đùn đẩy nhau không chịu ghi kết quả thảo luận vào phiếu, dẫn đến không hoàn thành nhiệm vụ. Trước tình trạng đó, tôi tuyên bố sẽ chấm điểm kết quả của từng nhóm và lấy kết quả đó chung cho tất cả các thành viên của nhóm. Do đó, những em khá, giỏi buộc phải tích cực nếu không sẽ bị điểm kém. Còn những em không tích cực hợp tác, tôi sẽ cho ngồi riêng một mình và phải làm toàn bộ công việc của một nhóm, làm đến đâu thì đạt điểm đến đó. Bị ngồi một mình nên không thể hoàn thành công việc và phải nhận điểm kém, trong khi các bạn ở các nhóm đều được điểm cao. Các em đó sẽ không dám hờ hững nữa. Cứ như vậy, dần dần việc hợp tác của học sinh trong lớp đã được cải thiện. - Khi có chuyện xích mích giữa em này với em kia, tôi kịp thời can thiệp không để mâu thuẫn kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến tình bạn. Tôi gặp gỡ trao đổi riêng với từng học sinh hoặc nhóm học sinh để biết rõ đầu đuôi. Sau đó phân tích rõ ai đúng, ai sai. Ai sai thì phải nhận lỗi và xin lỗi bạn. Sau đó giảng hòa và bắt tay nhau vui vẻ trở lại. 3. Vận động giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn: - Đối với học sinh có hoàn cảnh khó khăn tôi vận động lớp giúp quần áo, sách vở, dụng cụ học tập, kể cả tiền hỗ trợ cho các em; nếu gặp đau ốm lại càng quan tâm hơn, động viên những em này có thể học tốt hơn và yên tâm hơn trong việc học của mình. - Tham mưu với Ban giám hiệu vận động các mạnh thường quân mua bảo hiểm y tế cho 2 học sinh nghèo trong lớp. - Những việc làm nhỏ bé tuy giá trị vật chất không đáng là bao nhưng đã tạo được tình cảm gắn bó, các em biết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau với tinh thần đoàn kết tương trợ cao. 4. Phối hợp thường xuyên với phụ huynh: * Đối với Ban đại diện CMHS lớp: Từ đầu năm học, tôi đã định hướng bầu chọn Ban đại diện phụ huynh của lớp với các tiêu chuẩn sau: Phụ huynh có đời sống kinh tế ổn đinh. Có tâm huyết, nhiệt tình tất cả vì học sinh thân yêu. Am hiểu nhiều về lĩnh vực giáo dục, có con em học khá giỏi. * Ban phân hội lớp gồm 3 thành viên: Trưởng ban, phó ban, thư ký * Nhiệm vụ ban phân hội lớp: - Kết hợp với GVCN lớp theo dõi, động viên quá trình học tập, sinh hoạt của học sinh. Đặc biệt quan tâm đến các phong trào lớp. - Nắm rõ được hoàn cảnh gia đình, chỗ ở của từng HS để kịp thời thăm hỏi. - Có kế hoạch khen thưởng kịp thời học sinh lớp tiến bộ theo từng tuần, tháng, theo các đợt kiểm tra định kỳ của nhà trường. * Đối với từng phụ huynh học sinh: Buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đã đề ra yêu cầu để phụ huynh cùng GVCN rèn nề nếp học sinh như sau: - Hằng ngày kiểm tra sách vở của con em mình. - Nhắc nhở con em học bài cũ và chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp. - Chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập cho con em theo thời khoá biểu hằng ngày. - Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi. Sinh hoạt điều độ, đúng thời khoá biểu, giờ nào việc nấy tránh tình trạng vừa học vừa chơi. - Thường xuyên trao đổi với GVCN qua trò chuyện trực tiếp, điện thoại hoặc qua sổ liên lạc để kịp thời nhắc nhở, đôn đốc học sinh nề nếp học tập ở lớp cũng như ở nhà. 5. Đầu tư các phong trào mũi nhọn do nhà trường tổ chức: Thi vẽ tranh theo đề tài Thi vẽ tranh theo đề tài Từ đầu năm học GVCN dựa vào kế hoạch của nhà trường và các đoàn thể trong trường phải đề ra chỉ tiêu cụ thể cho lớp cùng phấn đấu trong các phong trào chung của nhà trường như: Vở sạch chữ đẹp, Vẽ tranh, Văn nghệ, cờ vua,.... Tham gia thi văn nghệ cấp trường Tham gia giải cờ Vua cấp trường - Điều quan trọng là GVCN phải phát hiện những năng lực đặc biệt ở HS về văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, hội hoạ - Phối hợp với phụ huynh lập kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho các học sinh có năng khiếu nói trên. - Bồi dưỡng, khơi dậy ở các em lòng say mê hứng thú học tập thông qua những hội thi. IV. TỒN TẠI NẢY SINH TRONG QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC, TỪ ĐÓ RÚT RA ĐƯỢC CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VẤN ĐỀ: Những công việc tôi làm đều bắt nguồn từ tinh thần trách nhiệm của một giáo viên chủ nhiệm lớp, từ tình yêu đối với học trò của mình. Thành công tôi đạt được phần lớn đều do sự nổ lực của bản thân. Nhưng bên cạnh đó, tôi cũng luôn nhận được sự động viên khích lệ của cán bộ quản lí nhà trường, sự chia sẻ đóng góp từ các giáo viên trong tổ chuyên môn. Nhưng mọi sản phẩm làm ra cho dù tốt đến mấy, chất lượng cao đến mấy cũng không thể hoàn hảo tuyệt đối. Sáng kiến kinh nghiệm của tôi cũng vậy. Tuy tôi đã rất cố gắng nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. V. KẾT QUẢ CỦA SÁNG KIẾN: * Năm học 2012-2013 cụ thể như sau: + Duy trì sĩ số đạt 100% + Hạnh kiểm: 100% học sinh thực hiện đầy đủ. + Xếp loại giáo dục: GIỎI KHÁ TB 28 60,9% 14 30.4% 3 6.5% * Năm học 2013 – 2014:( Kết quả đạt được sau 3 tháng đầu năm học) TIẾNG VIỆT TOÁN GIỎI KHÁ TB YẾU GIỎI KHÁ TB YẾU SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL 23 51,1 15 33,3 6 13,3 1 2,2 31 68,9 11 24,4 3 6,7 Điều tâm đắc của tôi và của các em HS lớp 2Đ là xây dựng được một tập thể lớp vững vàng đoàn kết. Lớp học có nền nếp trật tự. Học sinh ngoan hơn và có trách nhiệm cao hơn trong học tập. * Về phong trào: C Cờ vua: 1 học sinh đạt giải nhất toàn trường. C Văn nghệ: 1 học sinh đạt giải C đơn ca. C Vẽ tranh: 1 học sinh đạt giải khuyến khích. * Với kết quả đạt được đã nêu trên của lớp tôi cũng đã góp phần nâng cao chất lượng của tổ khối, của trường và của ngành. PHẦN KẾT LUẬN I. TÁC DỤNG CỦA SKKN QUA THỰC TIỄN ÁP DỤNG: Tôi đã áp dụng các biện pháp trên trong công tác chủ nhiệm lớp từ năm học 2012-2013, và đến thời điểm này bước đầu đã gặt hái được những kết quả khả quan * Nề nếp đầu buổi: - Bộ máy cán sự lớp biết phân công, theo dõi và kiểm tra các tổ trực nhật - Biết tổ chức lớp truy bài 15 phút đầu giờ. - Biết giúp đỡ các bạn học yếu học bài, làm bài. * Trong giờ học: - Học sinh tích cực học tập, chăm chú lắng nghe giáo viên giảng bài, mạnh dạng giơ tay phát biểu xây dựng bài. - Trong thảo luận nhóm, các em biết phân công trách nhiệm và điều hành các bạn thảo luận đúng nội dung câu hỏi bài và yêu cầu của giáo viên. - Biết giữ trật tự mỗi khi có khách đến lớp cũng như khi giáo viên có việc khi ra khỏi lớp. * Giờ ra về: - Các em xếp hàng nhanh chóng xuống sân ra về đi ngay ngắn và trật tự. - Chấp hành tốt luật giao thông. Khi đi xe máy các em đều đội mũ bảo hiểm. Lớp tôi năm học qua cũng được Ban Giám hiệu đánh giá tốt về nền nếp, phụ huynh tin yêu, nhiệt tình hỗ trợ lớp về mọi mặt. II. PHẠM VI TÁC DỤNG CỦA SKKN: Trong các buổi họp tổ chuyên môn, tôi có trao đổi các biện pháp mà tôi đã áp dụng trong công tác chủ nhiệm cho GV cùng khối thực hiện nhằm tháo gỡ một số vướng mắc, khó khăn ban đầu. Bước đầu các lớp đã đạt được một số hiệu quả. Nề nếp của khối luôn luôn tốt, học sinh luôn chăm ngoan và học giỏi. III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Công tác chủ nhiệm lớp quả thật nặng nề và phức tạp. Người giáo viên phải vừa là người cha, người mẹ dịu dàng vừa là người thầy nghiêm khắc, người bạn gần gũi, trọng tài phân minh. Thành công của giáo viên là làm cho học sinh tôn trọng, kính yêu, tin tưởng, là xây dựng được một tập thể lớp đoàn kết, gắn bó. Muốn đạt được điều đó, GVCN phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây: - Thầy cô là điểm sáng, là thần tượng của các em. Các em dễ tin, dễ nghe theo lời dạy bảo của thầy cô. - Nắm chắc được những thuận lợi, khó khăn, hiểu rõ thực tế trường lớp mình, khéo léo tìm cách bỏ đi mọi rào cản trong mối quan hệ với phụ huynh, đề ra những biện pháp hữu hiệu, tiếp cận gần với các em nhất, tôi nghĩ rằng bất cứ giáo viên nào cũng sẽ sớm trở thành những người bạn của trẻ. - Luôn gần gũi, bên cạnh, quan tâm tới hoàn cảnh sống của học sinh (nhất là học sinh có hoàn cảnh đặc biệt) Bên cạnh đó, liên hệ chặt chẽ với phụ huynh, ban phụ huynh của trường, của lớp, vận động cha mẹ có những hành động thiết thực hỗ trợ học tập sẽ giúp cho hoạt động của lớp có hiệu quả hơn. - Cùng với hoạt động học là hoạt động chủ đạo, để giúp học sinh hoàn thiện nhân cách của mình thì người giáo viên cần phải thu hút học sinh vào các hoạt động tập thể do trường, lớp tổ chức . - Phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu về nghệ thuật (vẽ, hát, múa, ) sẽ tăng thêm sự tự tin vào khả năng của chính bản thân mỗi học sinh. - Phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ lớp làm nòng cốt, là “cánh tay phải” của mình. Muốn vậy cần phải có một sự chọn lựa dựa trên cơ sở định hướng của GV và khả năng tín nhiệm của học sinh. Để giúp cho các em hoạt động có hiệu quả, tích cực, chính xác, người giáo viên cần thiết kế hệ thống sổ sách theo dõi phù hợp và thường xuyên kiểm tra, đánh giá để có cách điều chỉnh thích hợp. Muốn làm tốt được những điều trên đòi hỏi người GVCN lớp phải là người có uy tín, có năng lực thực sự để chỉ đạo, dám nghĩ, dám làm đi trước, đề xuất được các vấn đề giá trị, tập hợp được sức mạnh tổng hợp, vai trò con chim đầu đàn là yếu tố có phần lớn lao, tạo nên sự thành công hay thất bại ở mỗi HS, mỗi lớp học, mỗi trường học IV. KẾT LUẬN CHUNG: Giáo dục là quan tâm đến sự phát triển của HS về kỹ năng kiến thức về các giá trị đạo đức, tinh thần. Vừa kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống, vừa năng động, sáng tạo để bước kịp thời đại. Do đó giáo dục HS vừa phù hợp mục tiêu giáo dục là nhiệm vụ của GVCN lớp. Giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học có một vị trí đặc biệt quan trọng. Lao động của một giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là lao động sáng tạo không ngừng, sự sáng tạo đó đòi hỏi phải toàn diện: sáng tạo trong soạn giảng, trong tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi, trong sinh hoạt tập thể và đặc biệt là trong các biện pháp giáo dục đạo đức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp. Với những kinh nghiệm của bản thân vể công tác chủ nhiệm đã trình bày ở trên, tuy có những thành công nhất định trong công tác giáo dục học sinh, nhưng chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế, rất mong nhận được những đóng góp của đồng nghiệp để bản thân từng bước hoàn thiện mình , góp phần nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ “Trồng người” – một nhiệm vụ đầy vinh quang nhưng cũng vô cùng nặng nề. Long Xuyên, ngày 18 tháng 11 năm 2013 Người viết Tiêu Minh Triết DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT **** - Giáo viên chủ nhiệm : GVCN - Giáo viên : GV - Học sinh : HS - Ban Giám hiệu : BGH - Cha mẹ học sinh : CMHS MỤC LỤC TT TÊN ĐỀ MỤC TRANG PHẦN MỞ ĐẦU 1 I Bối cảnh của đề tài 1 II Lí do chọn đề tài 1 III Phạm vi nghiên cứu 2 IV Điểm mới trong kết quả nghiên cứu 2 PHẦN NỘI DUNG 2 I Cơ sở lý luận 2 II Thực trạng của vấn đề 2 III Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề 1. Khảo sát đối tượng HS để đưa ra những phương pháp GD phù hợp 2. Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp giỏi quản lý, tổ chức, kiểm tra * Nhiệm vụ của lớp trưởng * Nhiệm vụ của lớp phó học tập * Nhiệm vụ của lớp phó lao động * Xây dựng nề nếp lớp * Xây dựng mối quan hệ thầy trò * Xây dựng mối quan hệ bạn bè 3. Phối hợp thường xuyên với phụ huynh 4. Đầu tư các phong trào mũi nhọn do nhà trường tổ chức 3 3 4 4 4 5 5 7 8 9 9 IV Tồn tại nảy sinh trong quá trình tổ chức, từ đó rút ra được cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn vấn đề 11 V Kết quả của SKKN 11 PHẦN KẾT LUẬN 12 I Tác dụng của SKKN qua thực tiễn áp dụng 12 II Phạm vi tác dụng của của SKKN 12 III Bài học kinh nghiệm 12 IV Kết luận chung 13 NĂM HỌC: 2013 - 2014 PHOØNG GD - ÑT THAØNH PHOÁ LONG XUYEÂN TRÖÔØNG TIEÅU HOÏC LEÂ QUYÙ ÑOÂN HỌ VÀ TÊN : TIEÂU MINH TRIEÁT TỔ CHUYÊN MÔN: TOÅ 2 SỐ ĐIỆN THOẠI: 0933171236
File đính kèm:
- SKKN_Mot_so_bien_phap_thuc_hien_tot_cong_tac_chu_nhiem_lop.doc