Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh Lớp 4A trường Tiểu học Mai Thủy

Cơ sở lí luận

1.1. Thế nào là văn miêu tả ?

 Văn miêu tả là văn dùng để miêu tả sự vật, hiện tượng, con người,. một cách sinh động, cụ thể nó vốn có nhưng văn miêu tả không phải là sự sao chép máy móc thực tế khách quan mà nó là sự nhận xét, đánh giá hết sức phong phú tưởng tượng của người viết.

 Bất kì một hiện tượng nào của đời sống cũng có thể trở thành đối tượng của văn miêu tả nhưng không phải bất kì sự miêu tả nào cũng trở thành văn miêu tả. Khi sự miêu tả lạnh lùng khách quan nhằm mục đích thông báo trí tuệ thì đó không phải là loại văn miêu tả. Văn miêu tả phải là loại văn nhiều cảm xúc với những rung động, những nhận xét tinh tế, sáng tạo nhằm mục đích thông báo thầm kín người đọc qua văn bản miêu tả. Nhận thức thực tế khách quan không phải bằng con đường lí trí mà chủ yếu bằng những cảm xúc rung động mạnh mẽ của tâm hồn.

1.2. Phương pháp chung để dạy học sinh viết văn miêu tả

 Phương pháp chung thường để dạy học sinh viết văn miêu tả theo các bước sau:

Bước 1 : Hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu của đề bài đã cho

Bước 2 : Hướng dẫn học sinh dựa vào gợi ý ở sách giáo khoa để lập dàn ý chi tiết

Bước 3 : Yêu cầu hs trình bày miệng dàn ý đã lập để chỉnh sửa lỗi (nếu có)

Bước 4 : Yêu cầu học sinh dựa vào dàn ý đã lập để viết thành đoạn văn, bài văn hoàn chỉnh.

1.3. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học

 Ở lứa tuổi tiểu học, trình độ nhận thức và tư duy của các em còn non yếu: Tri giác của các em mang tính chất đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và mang tính không chủ động. Do đó, các em phân biệt những đối tượng còn chưa chính xác, dễ mắc sai lầm có khi lẫn lộn. Hay nói cách khác, khi tri giác, sự phân tích một cách có tổ chức và sâu sắc ở học sinh còn yếu. Học sinh thường “thâu tóm” sự vật về toàn bộ, về đại thể để tri giác.

 Do hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất ở học sinh lớp 4, 5 chiếm ưu thế tương đối nên trí nhớ trực quan - hình tượng được phát triển hơn trí nhớ từ ngữ - lôgic. Các em nhớ và gìn giữ chính xác những sự vật, hiện tượng cụ thể nhanh hơn và tốt hơn những định nghĩa, những lời giải thích dài dòng. Nhiều học sinh lớp 4, 5 còn chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết sử dụng sơ đồ loogic và dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết xây dựng dàn ý tài liệu cần ghi nhớ. Hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định do tính tích cực học tập của học sinh quy định. Một đặc điểm cần lưu ý là tưởng tượng của học sinh lớp 4, 5 đã mất dần, thoát khỏi ảnh hưởng của những ấn tượng trực tiếp. Mặt khác, tính hiện thực trong tưởng tượng của học sinh gắn liền với sự phát triển của tư duy và ngôn ngữ. Tư duy của học sinh lớp 4, 5 bắt đầu chuyển dần từ tính cụ thể sang tính trừu tượng, khái quát. Hoạt động phân tích - tổng hợp phát triển mạnh hơn. Các em có thể phân tích đối tượng mà không cần tới những hành động thực tiễn với đối tượng đó. Tư duy hình thức đã bắt đầu có sự phát triển (tuy còn ít). Năng lực khái quát hoá của các em phát triển tương đối mạnh. Vì vậy, trong quá trình dạy học nói chung và dạy phân môn Tập làm văn nói riêng, giáo viên cần phải chú ý rèn luyện năng lực tư duy, năng lực cảm thụ văn cho các em.

 

doc23 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 03/03/2022 | Lượt xem: 1141 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh Lớp 4A trường Tiểu học Mai Thủy", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 viết của học sinh thiếu sự sáng tạo, nghèo hình ảnh
- Học sinh ít tập trung trong lúc giáo viên giảng bài, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết xây dựng dàn ý tài liệu cần ghi nhớ. 
- Chưa hình thành được kĩ năng viết văn
- Học sinh còn ít được luyện tập - thực hành
2.2.2.2. Giáo viên
- Một số GV chưa khai thác triệt để nội dung bài dạy hoặc không sáng tạo khi dạy, cứ rập khuôn theo phương pháp của sách giáo viên
- Khi hướng dẫn học sinh viết văn, GV chưa đưa ra các gợi ý dưới dạng “mở” cho học sinh lựa chọn để tìm các hình ảnh, chi tiết thích hợp.
- Một số giáo viên dạy học trên tinh thần “đối phó”
- Chưa thực sự chú trọng rèn kĩ năng viết văn cho học sinh (chưa quan tâm hướng dẫn học sinh sửa lỗi viết văn)
- Hiệu quả của phương pháp giảng dạy còn chưa cao
3. Nhận xét chung
 Vị trí của phân môn Tập làm văn ở Tiểu học là rất quan trọng. Nhưng thực tế, chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn nói chung chưa cao. Đối với việc học văn thì học sinh cần phải thực hành, luyện tập nhiều. Hơn nữa, do đặc điểm của học sinh tiểu học là “mau nhớ, mau quên” cho nên cần phải hình thành kĩ năng và thói quen cho các em trong suốt quá trình dạy học. Vai trò của việc rèn kĩ năng viết văn cho học sinh hết sức quan trọng trong việc phát triển tư duy trẻ. Học tốt phân môn Tập làm văn sẽ góp phần giúp học sinh học tốt các phân môn và môn học khác.
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4A TRƯỜNG TH MAI THỦY
 Từ thực trạng nêu trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4A dưới đây:
1. Biện pháp 1: Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập (rèn kĩ năng nhận diện đặc điểm thể văn và phân tích đề bài)
 Bất kì một đề bài Tập làm văn nào, việc giúp học sinh nắm vững yêu cầu của đề bài là rất quan trọng. Đây là định hướng đầu tiên để học sinh hệ thống lại trong trí nhớ của mình thể loại văn cần tả. Từ đó, xác định bố cục bài văn và dàn ý của thể loại văn cần tả. Tức rèn cho các em có thói quen và kĩ năng nhận diện thể văn cũng như kĩ năng phân tích đề bài. 
Ví dụ : Đề bài “Tả cái bàn học ở lớp hay ở nhà của em” (SGK TV4, T2, trang 18)
- Giáo viên cần giúp học sinh xác định đúng thể loại văn bằng cách đưa ra các gợi ý để học sinh lựa chọn (văn kể chuyện, văn miêu tả hay văn nhật dụng, viết thư, ...).
- Sau khi học sinh xác định được thể loại văn (tả đồ vật), giáo viên giúp học sinh xác định yêu cầu của đề bài: Tả cái gì ? (Tả cái bàn học ở lớp hay ở nhà của em). 
 Việc làm này giúp học sinh nhận ra rằng: đồ vật các em cần tả là một cái bàn học ở lớp hay ở nhà của em chứ không phải là tả những cái bàn học khác. Đây là bước rèn cho học sinh kĩ năng phân tích đề bài.
- Bước tiếp, giáo viên có thể đưa ra một số đề bài tương tự yêu cầu học sinh nhận diện thể văn và phân tích đề bài để xác định yêu cầu: Tả cái gì ? 
 Ví dụ: Đề bài Tả chiếc cặp sách của em hay Đề bài Tả chiếc áo em mặc đến lớp hôm nay, ...)
 Với các đề bài này, học sinh phải xác định được: thể văn là văn miêu tả (tả đồ vật) và các em tả chiếc cặp của mình chứ không phải tả chiếc cặp của bạn; tả chiếc áo mà các em mặc đến lớp hôm nay chứ không phải chiếc áo nào khác.
Ví dụ: Đề bài Tả một cây có bóng mát (SGK TV4 T2, trang 92)
 Học sinh phải xác định được những cây nào là cây có bóng mát (cây có tán xòe rộng, lá dày có thể che bóng mát như cây bàng, cây cổ thụ, cây đa, ...)
 Học sinh xác định được đối tượng miêu tả tức là đã có kĩ năng phân tích đề bài.
2. Biện pháp 2 : Đưa ra các gợi ý dưới dạng mở nhằm cung cấp cho học sinh một số đặc điểm, công dụng, tính cách ... liên quan đến đối tượng cần tả ; chú ý những nét riêng, đặc sắc của đối tượng được tả nhằm rèn kĩ năng tìm ý.
 Với đề bài Tả một cây có bóng mát (SGK TV4 T2, trang 92), GV có thể đưa ra các gợi ý: Về hình dáng của cây (to lớn, cành lá xum xuê; cây như một chiếc ô xanh hay ngọn tháp xanh khổng lồ, ...). Về màu sắc của lá (xanh đậm, xanh nhạt, xanh non tơ, ...); kích thước, hình dáng của chiếc lá (lá hình bầu dục, hình chiếc quạt; tán lá xòe rộng, lá dày đan xen nhau kín khít, mỗi chiếc lá như một chiếc quạt xanh, ...). Về công dụng (che bóng mát, tạo cảnh quan cho trường, ..); cây có bóng mát các em tả có điều gì đặc biệt so với những cây có bóng mát hay những loại cây khác: cây đã được trồng lâu năm, cành lá xum xuê, gốc cây to, ...
 Ví dụ với đề bài Tả cái đồng hồ báo thức, GV có thể sử dụng phương pháp đàm thoại hoặc phương pháp trực quan (tranh ảnh, băng hình) để cung cấp hình ảnh về đối tượng miêu tả. Sau đó, giáo viên gợi ý đưa ra một số từ ngữ miêu tả dưới dạng mở để học sinh lựa chọn phù hợp với đối tượng miêu tả.
Ví dụ: Về hình dáng đồng hồ (tròn, vuông, hình chữ nhật, hình chú mèo, hình chú gà, ...). Về màu sắc (xanh lá cây, xanh da trời, xanh dương, vàng nhạt, vàng tươi, đỏ thẫm, đỏ chon chót, ...). Về các bộ phận và đặc điểm của các bộ phận (các con số màu gì? (màu đen hoặc xanh, đỏ, ..); được sắp xếp như thế nào? (sắp xếp trên một đường tròn, sắp xếp thành hình vuông hay hình chữ nhật, ...); có mấy kim? (3 kim) đó là những kim nào? (kim giờ, kim phút, kim giây); mỗi kim có đặc điểm gì? (kim giờ to chạy chậm, kim phút mảnh hơn chạy nhanh hơn, kim giây mảnh chạy như có ai đuổi, ...). Về công dụng của đồng hồ (đồng hồ giúp em xem giờ, báo thức, ..). Chiếc đồng hồ báo thức của em có đặc điểm gì đặc biệt so với những chiếc đồng hồ khác (ví dụ đặc biệt về hình dáng, về tiếng chuông báo thức hay về màu sắc, ...)...
 Để biện pháp trên có hiệu quả cao, giáo viên cần phải huy động tính tích cực, chủ động của nhiều học sinh trong lớp, đặc biệt là những học sinh mà vốn từ TV còn hạn chế nhằm giúp các em có được vốn từ cần thiết phục vụ cho việc làm bài tập
3. Biện pháp 3 : Hướng dẫn học sinh dùng từ để đặt câu miêu tả (miệng) và sửa lỗi (nếu có) nhằm rèn kĩ năng chọn từ, tạo câu, kĩ năng diễn đạt.
 Sau khi học sinh đã có một vốn từ TV nhất định liên quan đến đề bài, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tập đặt câu miêu tả; đồng thời kết hợp sử dụng các hình ảnh so sánh, nhân hoá để làm nổi bật sự vật: ngoại hình hay hoạt động được miêu tả. Để làm được điều này, giáo viên cần phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi để dẫn dắt học sinh tự mình tìm ra kiến thức.
- Trở lại với Đề bài “Tả cái bàn học ở lớp hay ở nhà của em” (SGK TV4, T2, trang 18), GV cần giúp học sinh biết sử dụng đúng từ ngữ để đặt câu trong những tình huống cụ thể. Ví dụ, học sinh không thể miêu tả mặt bàn hình vuông (vì bàn học sinh) hay bàn được làm bằng sợi ni lông tổng hợp.
- Tuỳ từng ngữ cảnh cụ thể mà GV hướng dẫn học sinh dùng nghĩa đen hay nghĩa bóng của từ, có sự lựa chọn từ trong cùng trường nghĩa (những từ có nghĩa gần nhau). Trong quá trình hướng dẫn học sinh đặt câu (miệng), giáo viên cần phân tích các từ dùng sai trong ngữ cảnh câu văn để học sinh nhận biết. Phân tích cấu trúc câu sai ngữ pháp (nếu có): Chỉ ra các thành phần câu, trật tự của các thành phần câu, trật tự từ trong câu, cách sử dụng dấu câu, ... để học sinh nhận biết lỗi sai trong câu và tự sửa lỗi.
Ví dụ: Trong bài viết Tả chiếc bàn học ở lớp hay ở nhà của em, em Nguyễn Thị Nga lớp 4A viết như sau: Bố mẹ bảo em phải dữ gìn cẩn thận và em sẽ luôn giữ mãi đến năm lớp sáu mà em luôn giữ mãi đến khi chiếc bàn hư. 
 Hay trong bài văn tả chiếc cặp, em Dương Thị Thu Hường lớp 4A tả như sau: Chiếc cặp em đeo trên mình một màu hồng xinh xinh.
 Do các em chưa hiểu nghĩa của từ và cách dùng từ đặt câu để tạo nên một ý nghĩa trọn vẹn nên sa vào lủng củng, rườm rà; diễn đạt sai ý.
- Bên cạnh đó, khi hướng dẫn học sinh đặt câu miêu tả, giáo viên cần gợi ý cho học sinh dùng các hình ảnh so sánh, hình ảnh nhân hoá để làm nổi bật ngoại hình hay hoạt động được miêu tả. Ví dụ: Miêu tả cây bàng: “Cây bàng như một chiếc ô xanh khổng lồ; mỗi chiếc lá bàng như một chiếc quạt xanh quạt vào không gian” (Trích trong bài văn Tả một cây có bóng mát của em Cái Thị Tú) hay nhân hóa chiếc bàn học mang tính cách của con người: “Đến giờ rồi, vào học thôi. Đó là tiếng gọi thân thuộc của chiếc bàn học của em đấy” (Trong bài văn Tả chiếc bàn học ở lớp hay ở nhà của em của em Khắc Thị Quỳnh Như lớp 4A)
4. Biện pháp 4 : Cho học sinh tự lập dàn ý chi tiết và trình bày miệng dàn ý trước khi viết văn nhằm rèn kĩ năng tạo lập văn bản (liên kết câu tạo thành đoạn, bài)
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh trình bày bố cục của văn bản (tức là sự xếp đặt, trình bày các phần để tạo nên một nội dung hoàn chỉnh : miêu tả theo trình tự thời gian hay không gian) bằng câu hỏi dẫn dắt : Em cần trình bày bài viết của mình như thế nào ? (Trình bày theo mấy phần? Đó là những phần nào ?)
- Hướng dẫn học sinh xác định đúng nội dung của từng phần (mở bài, thân bài và kết bài)
 Biện pháp này là bước cơ bản giúp học sinh viết được một bài văn miêu tả có chất lượng. Sau khi học sinh đã có một vốn từ TV nhất định liên quan đến yêu cầu của bài tập, GV cho học sinh lập dàn ý chi tiết và trình bày miệng dàn ý vừa lập. GV giúp học sinh sửa lỗi dùng từ, đặt câu, diễn đạt,... để hoàn thiện những ý cơ bản nhất theo yêu cầu của đề bài. 
 Ví dụ với đề bài “Tả chiếc cặp sách của em” (SGK TV4, T2, trang 18) , GV cần hướng dẫn hs lập được một dàn ý chi tiết như sau (minh họa):
* Mở bài (trực tiếp hay gián tiếp)
- Mở bài trực tiếp: Vào đầu năm học mới, mẹ mua cho em một chiếc cặp xinh xắn.
- Mở bài gián tiếp: Cũng như bao đứa bạn cùng lớp, ngày khai trường là ngày mà em mong chờ nhất. Trước ngày khai trường, mẹ đã mua cho em đủ sách vở và đồ dùng học tập. Trong số đó, ấn tượng nhất là chiếc cặp sách mà mua về từ Thủ đô Hà Nội....
* Thân bài :
- Hình dáng, kích thước: chiếc cặp hình chữ nhật, dài khoảng hai gang tay, rộng một gang tay, ...
- Cặp vừa có quai đeo, vừa có quai xách nên rất tiện
- Màu sắc: Bao trùm chiếc cặp là một màu xanh lơ (xanh nhạt, xanh đậm, ..) với đường viền màu đỏ (màu đỏ viền đen, ...)
- Chất liệu: Cặp được làm bằng sợi ni lông tổng hợp nên không thấm nước, bền và đẹp
- Đường khâu đều đặn bằng chỉ dù đen (đỏ, xanh, ...) chạy vòng quanh chiếc cặp
- Cấu tạo: Cặp gồm có hai, ba, ... ngăn được ngăn cách bởi các lớp vải mềm. Mỗi ngăn có một công dụng riêng của nó...
- Nắp cặp có khóa cặp bằng nhựa (sắt mạ kền, mạ vàng, ..) màu đen để chống trộm
- Một số đặc điểm nổi bật trên chiếc cặp: mặt cặp được trang trí thêm hình chú thỏ, tranh phong cảnh, đồng lúa vàng, ... làm tăng thêm vẻ đẹp cho chiếc cặp...
* Kết bài (mở rộng hay không mở rộng)
- Kết bài không mở rộng: Em rất vui và tự hào khi có được chiếc cặp xinh xắn này.
- Kết bài mở rộng: Chiếc cặp là người bạn đồng hành thân thiết của em mỗi khi đến trường. Ngày ngày, em không quên dùng một chiếc giẻ mềm lau chùi cho chiếc cặp luôn sạch sẽ. Đối với em, chiếc cặp này thật quý biết bao!
 Sau khi lập được dàn ý dưới sự hướng dẫn của GV, Gv cho hs trình bày miệng dàn ý vừa viết nhằm rèn kĩ năng diễn đạt, liên kết câu tạo thành đoạn, bài tránh rơi vào lủng củng, câu què, câu cụt, dùng từ thiếu chính xác.
5. Biện pháp 5 : Thường xuyên tổ chức kiểm tra, đánh giá kĩ năng viết văn của từng học sinh (qua việc thực hành - luyện tập ở lớp cũng như ở nhà), từ đó phân loại đối tượng học sinh và lập kế hoạch phụ đạo trong thời gian tiếp theo
 Việc nắm bắt và phân loại đối tượng học sinh là rất cần thiết đối với mỗi giáo viên. Trên cơ sở đó, giáo viên biết mình cần quan tâm đến học sinh nào ? Học sinh này yếu những kĩ năng gì ? Học sinh kia yếu những kĩ năng gì ? để có biện pháp rèn luyện thích hợp.
 Trên thực tế, các biện pháp nêu trên cần được tiến hành một cách đồng thời và liên tục trong mỗi tiết dạy. Mặt khác, giao bài tập về nhà và kiểm tra việc học ở nhà là một việc làm không thể thiếu, làm cơ sở cho việc tiếp thu kiến thức của các em ở lớp được thuận tiện hơn. Tuy nhiên, không thể ngày một ngày hai mà học sinh hình thành được kĩ năng mà cần phải có một quá trình lâu dài và kiên trì. Cũng không thể rèn kĩ năng cho tất cả các học học sinh trong cùng một lúc mà phải biết nên tập trung rèn kĩ năng cho học sinh nào trước, học sinh nào sau.
III. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
 Các biện pháp nêu trên tôi đã áp dụng để rèn kĩ năng viết văn cho học sinh lớp 4A Trường TH Mai Thủy và đã thu được một số kết quả như sau (theo kết quả khảo sát chất lượng đợt 4 năm học 2011 - 2012)
Bảng 7: Thống kê điểm bài khảo sát đợt 4 (Phân môn TLV)
 Điểm
Lớp
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Tổng số hs
4A
0
0
0
0
3
3
13
6
1
0
26
* Điểm trung bình là : 7,0
Bảng 8: Thống kê tỉ lệ phần trăm
 Xếp loại
Lớp
Yếu kém 
(1, 2, 3, 4)
Trung bình
 (5, 6)
Khá 
(7, 8)
Giỏi
 (9, 10)
Ghi chú
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
4A
0
0
6
23,0
19
73,1
1
3,8
Bảng 9 : Thống kê các loại lỗi văn viết của HS lớp 4A
 Lỗi
Lớp
Lỗi chính tả
Lỗi dùng từ
Lỗi viết câu
Tổng số học sinh
4A
5
4
3
26
Bảng 10 : Thống kê tỉ lệ phần trăm mắc lỗi của HS lớp 4A
 Lỗi
Lớp
Lỗi chính tả
Lỗi dùng từ
Lỗi viết câu
Tỉ lệ (%)
4A
19,2
15,4
11,5
100
* Đánh giá kết quả đạt được:
 Từ các bảng thống kê cho thấy: Điểm trung bình cuối năm (7,0) tăng so với đầu năm (5,5). Số học sinh yếu kém (điểm từ 1 đến 4) không có em nào, chiếm tỉ lệ 0% (so với đầu năm là 23,0%). Số học trung bình (điểm từ 5 đến 6) là 6 em, chiếm tỉ lệ 23,0% (so với dầu năm là 53,8%). Số học sinh khá giỏi (điểm từ 7 đến 10) là 20 em, chiếm tỉ lệ 76,9% (so với đầu năm là 23,0%). Kết quả trên cho thấy số học sinh yếu kém đã không còn, tỉ lệ học sinh trung bình được giảm xuống và tỉ lệ học sinh khá giỏi đã được nâng lên đáng kể. 
 Mặt khác, các loại lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi viết câu tuy vẫn còn nhưng cũng đã giảm so với đầu năm. 
 Những kết quả đạt được cho thấy các biện pháp nêu trên bước đầu đem lại hiệu quả. 
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
- Giáo viên cần phân loại đối tượng học sinh ngay từ đầu năm học để lập kế hoạch phụ đạo, bồi dưỡng.
- Việc rèn kĩ năng viết văn và cảm thụ văn cho học sinh là rất cần thiết. Vì vậy, trong quá trình dạy học, giáo viên cần chú trọng rèn và sửa lỗi văn viết cho sinh ngay từ lớp 2.
- Cần chuẩn bị bài dạy kĩ càng, chu đáo để giúp giáo viên khi lên lớp cảm thấy tự tin, tổ chức giờ dạy có hiệu quả hơn
- Cần xác định trọng tâm kiến thức bài dạy và kĩ năng cơ bản cần rèn luyện cho học sinh qua mỗi loại bài
- Khi hướng dẫn học sinh viết văn, GV cần đưa ra các gợi ý dưới dạng “mở” cho học sinh lựa chọn để tìm các hình ảnh, chi tiết thích hợp.
- Hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh phân tích, nhận xét phải rõ ràng, có tính gợi vấn đề và phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh
- Trong giờ học, giáo viên phải yêu cầu tất cả các học sinh cùng làm việc, cùng suy nghĩ về vấn đề cần giải quyết. Giáo viên cần khuyến khích, động viên cũng như uốn nắn những sai lầm của các em một cách kịp thời, đúng lúc.
- Phải dự kiến các tình huống sư phạm có thể xảy ra và cách giải quyết
- Cần thực sự chú trọng rèn kĩ năng viết văn cho học sinh (quan tâm hướng dẫn học sinh sửa lỗi viết văn).
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận
 Với sự phát triển nhanh của đất nước đòi hỏi quá trình giáo dục phải đào tạo được những con người đáp ứng với thời cuộc. Đặc biệt là phải đào tạo ngay từ Tiểu học. Trình độ phát triển tư duy của học sinh tiểu học một phần phụ thuộc vào nội dung và phương pháp giảng dạy ở nhà trường phổ thông. Trong dạy học các môn học nói chung và dạy học phân môn Tập làm văn nói riêng, ngoài việc cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, giáo viên cần quan tâm rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Đề tài này nhằm mục đích nói trên.
 Qua triển khai đề tài ở cơ sở bước đầu đã thu được những kết quả sau:
- Đã đưa ra được một số biện pháp và ví dụ minh hoạ để rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4, góp phần đổi mới nội dung và phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động, linh hoạt và sáng tạo của học sinh.
- Bước đầu rèn cho học sinh lớp 4 kĩ năng viết văn miêu tả
- Việc áp dụng các biện pháp nêu trên cho thấy bước đầu các biện pháp này đã đem lại hiệu quả và có tính khả thi
- Song bên cạnh đó, đề tài còn một số hạn chế nhất định :
- Các biện pháp trên chỉ áp dụng rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4A Trường TH Mai Thủy.
- Hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp trên còn khiêm tốn (tỉ lệ học sinh khá giỏi chỉ chiếm 76,9% nhưng tỉ lệ học sinh trung bình và yếu đã được giảm so với đầu năm).
- Phạm vi triển khai và áp dụng còn hẹp.
2. Đề xuất
 Qua nghiên cứu nội dung phân môn Tập làm văn lớp 4, tôi nhận thấy : nội dung phân môn Tập làm văn còn “nặng” đối với học sinh. Vì vậy, cần linh hoạt tăng thời gian cho giáo viên khi dạy phân môn này. Có như vậy, hiệu quả dạy học mới có thể được nâng cao.
 Những kết quả đạt được của đề tài mới chỉ là bước đầu. Tác giả đề tài hi vọng sẽ tiếp tục nghiên cứu để khắc phục những hạn chế và mở rộng phạm vi ứng dụng của đề tài. Rất mong được sự trao đổi, góp ý của chuyên môn, đồng nghiệp và bạn bè để giúp tôi hoàn thiện sáng kiến này.
 Tôi xin chân thành cảm ơn !
Mai Thủy, ngày 20 tháng 5 năm 2012
Đánh giá của HĐKH Nhà trường Người viết
 Nguyễn Văn Dũng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Kế Hào, Nguyễn Hữu Dũng, Đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy ở Tiểu học, NXBGD, HN - 1998
Bùi Văn Huệ, Tâm lí học Tiểu học, NXBĐHSPHN, HN - 1995
Trần Mạnh Hưởng, Luyện tập về cảm thụ văn học ở Tiểu học, NXBGD, 2001
Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên), Hoàng Cao Cương, Đỗ Việt Hùng, Trần Thị Minh Phương, Lê Hữu Tỉnh, Tiếng Việt 4 (T1, 2), NXBGD, 2008
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
	Trang
I. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
II. Mục đích đề tài ............................................................................................ 2
III. Nhiệm vụ đề tài .......................................................................................... 2
IV. Đối tượng và phạm vi đề tài ..................................................................... 2
V. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 2
B. NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI................... 3
I. Cơ sở lí luận .................................................................................................. 3
II. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................. 5
CHƯƠNG II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN MIÊU 
TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4 TRƯỜNG TH MAI THỦY
I. Biện pháp 1 : Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập (rèn kĩ năng nhận diện thể văn và phân tích đề bài) ........................................................................ 10
II. Biện pháp 2 : Đưa ra các gợi ý dưới dạng mở nhằm cung cấp cho học sinh một số đặc điểm, công dụng, tính cách liên quan đến đối tượng cần tả; chú ý những nét riêng, đặc sắc của đối tượng được tả nhằm rèn kĩ năng tìm ý......... 11
III. Biện pháp 3 : Hướng dẫn học sinh dùng từ để đặt câu miêu tả (miệng) 
và sửa lỗi (nếu có) nhằm rèn kĩ năng chọn từ, tạo câu, kĩ năng diễn đạt .........12
IV. Biện pháp 4 : Cho học sinh tự lập dàn ý chi tiết và trình bày miệng dàn 
ý trước khi viết văn nhằm rèn kĩ năng tạo lập văn bản (liên kết câu tạo thành đoạn, bài) ............................................ 13
V. Biện pháp 5 : Thường xuyên tổ chức kiểm tra, đánh giá kĩ năng viết văn của từng học sinh (qua việc thực hành - luyện tập ở lớp cũng như ở nhà), từ đó phân loại đối tượng học sinh và lập kế hoạch phụ đạo trong thời gian tiếp theo 
 ................... 14
VI. Một số kết quả đạt được..................................................................................15
VII. Bài học kinh nghiệm ......................................................................................16
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận ..............................................................................................................17
2. Đề xuất ................................................................................................................18
 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................19aHaof
 MỤC LỤC ................................................................................20

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_viet_van.doc
Sáng Kiến Liên Quan