Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh Lớp 4 học tốt phân môn Luyện từ và câu

Cơ sở lí luận và thực tiễn có tính định hướng cho việc nghiên cứu, tìm giải pháp của đề tài:

1.1. Cơ sở lí luận:

 Nhận thức được tầm quan trọng của Tiếng Việt trong sự nghiệp giáo dục con người. Từ xa xưa ông cha ta đã sử dụng nó một cách tự giác nhằm để giáo dục trẻ nhỏ.

Khi chưa đến trường, trẻ được giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một điều tất yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở ra trước mắt các em. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng nhất. Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học.

 Những điều sơ đẳng nhất đã góp phần rất quan trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ vào hoạt động giao tiếp của học sinh. Ngôn ngữ là thứ công cụ có tác dụng vô cùng to lớn. Nó có thể diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy biết được những giá trị trừu tượng mà các giác quan không thể vươn tới được. Các môn học ở Tiểu học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh phải kể đến Luyện từ và câu, một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm văn. song song tồn tại với các môn học khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong phân môn Luyện từ và câu lớp 4.

1.2. Cơ sở thực tiễn:

 Trong nhiều năm qua, việc giúp HS hiểu sâu sắc về các dạng bài tập Luyện từ và câu là một vấn đề không đơn giản. Qua thực tế giảng dạy, tôi đã gặp không ít khó khăn. Việc hướng dẫn cho HS mở rộng vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản về Tiếng Việt gắn với các tình huống giao tiếp thường gặp mang tính chất máy móc, không mở rộng cho các em nắm sâu kiến thức của bài. Về phía HS, các em chỉ biết làm bài tập mà không hiểu tại sao phải làm như vậy, học sinh không có hứng thú trong việc giải quyết các kiến thức. Do vậy, việc hướng dẫn HS lớp 4 học tốt phân môn Luyện từ và câu là một vấn đề trăn trở cho các giáo viên và ngay cả bản thân tôi.

Từ những lý do khách quan và chủ quan trên, thông qua việc học tập, giảng dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu sâu hơn về phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, nhằm tìm ra được phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp nhất, vận dụng tốt nhất trong quá trình giảng dạy của mình.

 

doc25 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 01/03/2022 | Lượt xem: 1838 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh Lớp 4 học tốt phân môn Luyện từ và câu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bất ngờ quá, tớ cảm ơn bạn!
	Tôi cho học sinh suy nghĩ tìm thêm các tình huống khác đặt câu cảm, nêu cá nhân để các bạn nhận xét.
	Ví dụ 2: Những câu cảm sau đây bộ lộ cảm xúc gì? 
	a. Ôi, bạn Nam đến kìa!
	b. Ồ, bạn Nam thông minh quá!
	c. Trời, thật là kinh khủng!
	Theo tôi phần này tôi cho học sinh làm việc cá nhân theo các bước sau:
	- B1: Nhận xét ý nghĩa của câu cảm.
	- B2: Tìm cảm xúc của mỗi câu.
	- B3: Rút ra kết luận chung về câu cảm.
Tạo hứng thú cho học sinh:
Trong dạy học, tạo hứng thú cho học sinh là rất quan trọng. Nó gần như quyết định hiệu quả của việc dạy học. Luyện từ và câu được đánh giá là khô khan trong các phân môn Tiếng Việt. Vì vậy tạo hứng thú cho học sinh lại càng quan trọng. Khi học sinh có hứng thú, các em sẽ tự giác, chủ động học tập thì giờ dạy mới diễn ra nhẹ nhàng, học sinh chủ động nắm được kĩ năng, kiến thức. 
Để tạo hứng thú cho học sinh, tôi thường tạo cho các em không khí sẵn sàng học tập ngay trong từng hoạt động như sau :
Giới thiệu bài : Đây cũng là một bước quan trọng. Đó không chỉ đơn giản là nêu mục đích, yêu cầu của tiết học mà còn là bước tạo không khí sôi nổi, thu hút các em vào giờ học. Có thể giới thiệu bài bằng nhiều cách : liên hệ kiến thức trong chủ điểm đang học bằng trò chơi, hỏi đáp.
	Ví dụ: Khi giới thiệu bài bài luyện từ và câu ở tuần 2 bài : Mở rộng vốn từ : Ước mơ Tôi giới thiệu như sau : Cho cả lớp chơi trò chơi “ Đoán ô chữ”. GV chia lớp thành hai đội, mở đĩa cho HS nghe bài hát Ước mơ và có thể có gợi ý : Tên bài hát cũng là nội dung chủ điểm mà chúng ta đang học. Yêu cầu học sinh đoán. Đội nào giải được ô chữ là đội giành chiến thắng, được tuyên dương. Đội đoán sai sẽ phải hát chung một bài. Sau đó GV giới thiệu: Tiết Luyện từ và câu hôm nay chúng ta sẽ mở rộng vốn từ, thành ngữ thuộc chủ điểm này.
	Theo cách giới thiệu bài trên, không những tạo hứng thú cho các em sẵn sàng tiết học mà ca từ của bài hát cũng góp phần gợi ý thông tin cho học sinh làm các bài tập trong tiết học.
VD khác : Sử dụng phương pháp hỏi đáp khi giới thiệu bài Mở rộng vốn từ Trung thực - Tự trọng tuần 5 SGK trang 48-49 . GV đặt câu hỏi : Cậu bé Chôm trong truyện Những hạt thóc giống có đức tính gì đáng quý ? (trung thực). Vậy theo em trung thực là gì? Còn tự trọng, em hiểu thế nào là tự trọng? (HS nêu ý kiến như: tôn trọng/ ) 
 	GV: Để giúp các em biết thêm nhiều từ, nắm được nghĩa và cách dùng các từ ngữ theo chủ điểm Trung thực- Tự trọng. Hôm nay chúng ta sẽ Mở rộng vốn từ theo chủ điểm này.
 	Rõ ràng các cách giới thiệu bài trên đã tạo được không khí học tập, thu hút được sự chú ý của học sinh.
Để thu hút học sinh vào bài học, ngoài giới thiệu bài thì trong khi tổ chức, hướng dẫn làm bài tập tôi cũng luôn tạo không khí học tập để khơi gợi sự hứng thú đối với học sinh. 
	Ví dụ: Khi tổ chức làm bài tập 3 ở tiết LTVC tuần 3 trang 33 SGK TV lớp 4 tập một : Tôi hướng dẫn cách làm bài tương tự như trò chơi Rung chuông vàng, cách làm như sau:
- Bước 1: Cho học sinh nắm yêu cầu.
- Bước 2 : Phổ biến cách làm : Học sinh suy nghĩ, lần lượt viết vào bảng con các từ thích hợp trong ngoặc để hoàn chỉnh các câu thành ngữ. Sau thời gian quy định HS sẽ giơ bảng. Em nào sai sẽ bị loại đứng sang một bên và phải hát một bài hoặc làm 1 động tác gây cười cho cả lớp mới được quay lại “ sàn thi đấu”.
- Bước 3: Cho HS làm bài. GV chốt lời giải đúng. Sau đó đọc thuộc các câu thành ngữ đã hoàn chỉnh. 
a, Hiền như bụt ( đất )
b, Lành như đất ( bụt )
c, Dữ như cọp
d, Thương nhau như chị em gái
VD khác BT2 trang 17, tiết luyện từ và câu bài Mở rộng vốn từ : Nhân hậu - Đoàn kết tuần 2 tôi dùng những thẻ từ ghi từ đã cho như nhân dân, nhân hậu, nhân ái, công nhân, nhân loại, nhân đức, nhân từ, nhân tài. Sau đó tổ chức làm bài theo nhóm đôi, trình bày kết quả bằng hình thức thi đua. Giáo viên chia 2 đội. Mỗi đội cử 4 học sinh lên thi đua gắn những chiếc thẻ từ vào 2 cột đã chia trên bảng. Đội nào làm nhanh, làm đúng là đội thắng cuộc.
Từ có tiếng nhân có nghĩa là “người”
Từ có tiếng nhân có nghĩa là 
“lòng thương người”
 nhân dân, công nhân, nhân loại, nhân tài
nhân hậu, nhân ái, nhân đức, nhân từ
Ngoài ra để tạo hứng thú học tập cho học sinh, người giáo viên cần phải biết vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực như kĩ thuật chia nhóm, kĩ thuật động não, kĩ thuật “Công đoạn”. 
Đối với kĩ thuật chia nhóm, GV nên sử dụng nhiều cách khác nhau để gây hứng thú đồng thời tạo cơ hội cho các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp. GV có thể chia nhóm theo số điểm danh, theo màu sắc, theo tên các loại trái cây các em yêu thích,. Yêu cầu học sinh có cùng số điểm danh, cùng một màu, cùng một loại trái cây yêu thích sẽ vào cùng một nhóm. 
Kĩ thuật “Công đoạn” là một kĩ thuật dạy học tích cực khi ứng dụng vào dạy học tôi nhận thấy rất hiệu quả nhất là với những bài tập tìm từ. Với kĩ thuật này, GV cũng chia lớp thành các nhóm, giao cho mỗi nhóm một nhiệm vụ khác nhau. Ví dụ : nhóm 1 làm câu a, nhóm 2 câu b, nhóm 3 câu c, nhóm 4 câu d,Sau khi các nhóm làm việc và ghi kết quả vào giấy A0 xong, các nhóm sẽ luân chuyển giấy A0 ghi kết quả làm việc cho nhau. Cụ thể nhóm 1 chuyển cho nhóm 2, nhóm 2 chuyển cho nhóm 3, nhóm 3 chuyển cho nhóm 4, nhóm 4 chuyển cho nhóm 1 Các nhóm đọc và bổ sung cho nhau. Sau đó lại tiếp tục luân chuyển kết quả cho nhóm tiếp theo và nhận kết quả từ nhóm khác để góp ý. Cứ như vậy cho đến khi các nhóm đã nhận lại tờ giấy A0 của nhóm mình cùng với các ý kiến của các nhóm khác. Từng nhóm sẽ xem, xử lí ý kiến của các bạn để hoàn thiện kết quả của nhóm mình. Sau khi hoàn thiện xong, nhóm sẽ treo kết quả lên bảng.
Ví dụ : Bài tập 1 trang 17 SGK tiết Luyện từ và câu Mở rộng vốn từ Nhân hậu- Đoàn kết. GV chia 4 nhóm, nhóm 1 làm câu a, nhóm 2 làm câu b, nhóm 3 làm câu c, nhóm 4 làm câu d. Chẳng hạn câu a, nhóm 1 tìm được các từ như thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại : tình thân ái, yêu quý, xót thương. Sau đó chuyển sang nhóm 2, nhóm 2 bổ sung thêm các từ: cảm thông, đồng cảm tiếp tục chuyển sang nhóm 3, nhóm 3 bổ sung thêm từ nhân ái, chuyển sang nhóm 4, nhóm này bổ sung tiếp từ tha thứ. Cuối cùng chuyển về nhóm 1. Nhóm 1 xem và hoàn thiện lại sau đó dán bảng trình bày. Tương tự như trên, các nhóm khác cũng làm bài của nhóm mình, bổ sung bài cho các nhóm khác. Theo cách tổ chức này, các em rất thích thú và quan trọng là đảm bảo cho mọi học sinh đều được làm tất cả các phần của bài tập. 
Tóm lại vì Luyện từ và câu được đánh giá là môn học hơi khô nên việc gây hứng thú đối với học sinh là rất quan trọng. Tuy nhiên phải làm sao trong lúc học mà chơi, không biến giờ học thành giờ chơi.
2. Khả năng áp dụng:
 Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tích cực tìm tòi phương pháp tổ chức cho học sinh làm các dạng bài tập Luyện từ và câu. Trải qua thời gian áp dụng phương pháp nghiên cứu tôi đã tiến hành khảo sát để xem sự chuyển biến của học sinh sau khi đã được hoạt động sôi nổi trong giờ luyện từ và câu giải quyết các bài tập với lớp 4A do tôi chủ nhiệm.
Qua quá trình khảo sát, kết quả thu được như sau: (lớp có 30 em)
Điểm 10
Điểm 9
Điểm 8
Điểm 7
Điểm 6
Điểm 5
Điểm dưới 5
10
8
8
3
1
Với kết quả khảo sát này cho thấy rõ các em đã có tiến bộ vượt bậc so với lúc chưa áp dụng đề tài. Số lượng học sinh đạt khá và giỏi tăng rõ rệt.
2.1. Dạy thực nghiệm trên lớp đối chứng:
 Không chỉ dừng lại phạm vi nghiên cứu trong lớp 4 mình đang dạy năm học 2013-2014 Tôi sử dụng ngay bài khảo sát trên để khảo sát lớp 4A năm học 2014-2015 vào đầu năm. Kết quả như sau: (Lớp có 30 em)
Điểm 10
Điểm 9
Điểm 8
Điểm 7
Điểm 6
Điểm 5
Điểm dưới 5
4
2
5
6
7
5
1
Điều này chứng tỏ phương pháp giúp học sinh nhận biết và sử dụng câu đúng rất quan trọng. Nó góp phần quyết định rất nhiều đến kết quả học tập của học sinh. Cùng với việc nghiên cứu của mình, tôi hướng dẫn cho các em học theo phương pháp mới mà mình đang nghiên cứu nhưng tôi sử dụng mềm dẻo và linh hoạt hơn (do đã rút kinh nghiệm từ những năm học trước.) Sau một thời gian giảng dạy, tôi khảo sát lại chất lượng lớp 4A năm học 2014-2015, với một đề bài tương tự. Kết quả thu được rất khả quan:
Điểm 10
Điểm 9
Điểm 8
Điểm 7
Điểm 6
Điểm 5
Điểm dưới 5
12
10
5
3
	Với kết quả thu được ở việc dạy thực nghiệm trên lớp đối chứng, tôi càng vững vàng tin tưởng vào việc vận dụng phương pháp cho học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 4. Cùng với việc nghiên cứu của mình, kết hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp, phổ biến kinh nghiệm tổ chức phương pháp dạy học tốt cho học sinh xác định rõ yêu cầu của bài, tổ chức cho các em được hoạt động có hiệu quả, học sinh được hướng dẫn thực hành phù hợp với nội dung từng bài. Dần dần các em đã hình thành được thói quen làm việc có kế hoạch, linh hoạt với từng dạng bài. Điều đó sẽ giúp việc học của các em ngày càng có hiệu quả hơn. 
2.2. Khả năng thay thế giải pháp hiện có:
	Khi giảng dạy, trong thực tế, nhờ áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, tôi có thể vận dụng linh hoạt để phân tích một cách sâu sắc, rõ ràng tất cả các dạng bài tập trong phân môn Luyện từ và câu. Đề tài có thể giúp học sinh phân tích các dạng bài tập một cách chính xác nhất mà không hề bị nhầm lẫn giữa dạng này với dạng khác. Các em có thể vận dụng kiến thức đã học để viết những câu văn đúng về mặt nội dung, hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp. Tránh được hiện tượng viết “câu què, câu cụt” hoặc những câu quá rườm rà. Học sinh tích cực học tập, học một cách tự giác, làm bài nhanh, tiết kiệm được thời gian cho cả học sinh và giáo viên. Sáng kiến này có thể vận dụng một cách linh hoạt. Tuy nó không thay thế hoàn toàn những phương pháp cũ nhưng nó sẽ là một đòn bẩy tích cực, một điểm tựa quan trọng để học sinh có thể nắm vững các kiến thức về các dạng bài tập Luyện từ và câu một cách dễ dàng, sâu sắc, đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, tùy theo tình hình thực tế của địa phương, của trường, của lớp, của từng đối tượng học sinh mà giáo viên có thể sử dụng linh hoạt các giải pháp trên để đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình giảng dạy. 
2.3. Khả năng áp dụng ở đơn vị:
Qua các năm, tôi liên tục thực dạy và áp dụng đề tài này cho việc giúp học sinh làm thành thạo các dạng bài tập của phân môn Luyện từ và câu lớp 4 ở trường Tiểu học số 2 Hoài Tân và đạt hiệu quả rất cao. 
Đề tài này đã áp dụng một cách linh hoạt trong môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học, đặc biệt rất có hiệu quả đối với việc mở rộng, hệ thống hóa vốn từ và trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu. Rèn cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu. Đồng thời bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu; có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp. Nó không những giúp cho giáo viên dạy tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 4 ở Trường Tiểu học số 2 Hoài Tân mà nó còn giúp cho học sinh học môn Tiếng Việt một cách tích cực, tự giác, đầy hứng thú. Từ đó chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt được nâng lên một cách rõ rệt.
3. Lợi ích kinh tế xã hội:
3.1. Lợi ích về kinh tế - xã hội trong giảng dạy: 
	- Việc áp dụng đề tài là một trong những nội dung của việc đổi mới phương pháp dạy học, giúp giáo viên giảng dạy một cách linh hoạt, có hiệu quả cao mà tốn ít công sức và thời gian trong công tác dạy học nói chung và giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu nói riêng. Đồng thời giúp học sinh rèn các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu. Đồng thời bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu; có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp. Từ đó học sinh có thể sử dụng câu thành thạo trong học tập và giao tiếp hàng ngày.
3.2. Tính năng kỹ thuật, chất lượng, hiệu quả sử dụng:
	- Tính năng kỹ thuật:
	+ Các giải pháp được áp dụng đơn giản, dễ vận dụng cho mọi đối tượng giáo viên đứng lớp.
	+ Học sinh sẽ vận dụng một cách dễ dàng, khá linh hoạt trong mọi trường hợp làm các dạng bài tập của Luyện từ và câu.
	- Chất lượng của đề tài:
	Đề tài đã được vận dụng, áp dụng thử nghiệm ở học sinh lớp 4 Trường Tiểu học số 2 Hoài Tân và đạt kết quả cao trong công tác giảng dạy và nâng cao dần chất lượng dạy và học.
	- Hiệu quả sử dụng:
	Sau 3 năm dạy thử nghiệm, khi học sinh đã được củng cố, khắc sâu, mở rộng và rèn kĩ năng luyện tập thực hành về các dạng bài tập “Luyện từ và câu” lớp 4 tôi thấy kết quả của việc làm đó như sau:
- Học sinh được tổ chức hoạt động một cách độc lập, tìm tòi kiến thức, tầm nhận thức đối với mọi đối tượng học sinh là phù hợp, nên học sinh tiếp thu một cách có hiệu quả.
- Các em biết dựa vào kiến thức lý thuyết để vận dụng làm các bài tập một cách chủ động.
- Với phương pháp tổ chức này học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc có cơ sở, được đối chứng qua nhận xét của bạn, của giáo viên.
- Các em đã hình thành được thói quen đọc kỹ bài, xác định yêu cầu của bài. Không còn tình trạng bỏ sót yêu cầu của đề bài.
- Học sinh có ý thức rèn cách trình bày sạch sẽ, khoa học, biết dùng từ đặt câu hợp lý. Ngoài ra học sinh còn có thêm thói quen kiểm tra, soát lại bài của mình.
- Qua việc giảng dạy theo dõi kết quả của học sinh qua các giờ kiểm tra, bài kiểm tra định kỳ của học sinh tôi thấy: Học sinh sẵn sàng đón nhận môn “Luyện từ và câu” bất kỳ lúc nào. Đó cũng nói lên học sinh đã bắt đầu yêu thích môn học, mạnh dạn nêu ý kiến của mình.
3.3. Tác động tích cực của đề tài:
	- Tác động xã hội:
	 + Học sinh nhận biết và làm thành thạo các dạng bài tập Luyện từ và câu từ đó giúp cho tiết học diễn ra nhẹ nhàng. Các em hứng thú hơn, vui vẻ hơn, học tập một cách tích cực và tự giác, làm cho các em thêm yêu Tiếng Việt, bảo vệ sự trong sáng và giàu đẹp của Tiếng Việt.
	+ Công tác dạy và học phân môn Luyện từ và câu ở môn Tiếng Việt được dễ dàng, có hiệu quả cao, ít tốn thời gian để giáo viên giải quyết vấn đề này.
	- Cải thiện môi trường, điều kiện lao động:
	+ Học sinh nắm được nội dung bài học một cách dễ dàng, rút ngắn thời gian học tập mà vẫn đạt hiệu quả cao.
	+ Giáo viên giảng dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu trở nên rõ ràng, tiết học sinh động, hứng thú, tiết kiệm được thời gian, công sức mà vẫn đạt hiệu quả cao.
PHẦN C. KẾT LUẬN
1. Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp:
Dạy học các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4 giúp học sinh nắm được kiến thức trong phân môn “Luyện từ và câu” cung cấp: Học sinh hiểu được từ mới, phát triển kĩ năng, kỹ xảo sử dụng từ ngữ, học sinh còn biết nhận diện xác định các dạng bài tập, phân tích kỹ, chính xác yêu cầu của đề bài, từ đó có hướng cho hoạt động học tập của mình. Để đạt được các điều đó, người giáo viên cần chú ý:
- Trong quá trình giảng dạy giáo viên không nên nóng vội, mà phải bình tĩnh trong thời gian không phải ngày 1 ngày 2. Đặc biệt luôn xem xét phương pháp giảng dạy của mình để điều chỉnh phương pháp sao cho phù hợp với việc nhận thức của học sinh, gây được hứng thú học tập cho các em.
- Phải nghiên cứu để nhận thức rõ về vị trí, nhiệm vụ của phần kiến thức vừa dạy.
- Lưu ý quá trình giảm tải đề điều chỉnh sao cho phù hợp với đặc điểm học sinh lớp mình, đề ra hướng giải quyết cho việc cân chỉnh thống nhất giảm tải.
- Không ngừng học hỏi trao đổi với đồng nghiệp để nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy và học nhằm nâng cao chất lượng. Trong giảng dạy, giáo viên không được áp đặt học sinh mà coi nhiệm vụ học của học sinh là quan trọng, là nhân tố chủ yếu cho kết quả giáo dục. Luôn gợi mở khám phá tìm tòi biện pháp tốt nhất cho học sinh nắm chắc kiến thức. Rèn cho học sinh cách tư duy thông minh, sáng tạo, làm việc độc lập, nâng cao kết quả tự học của mình: Tạo cho học sinh có niềm vui trong học tập, có hứng thú đặc biệt trong học tập. Giáo viên luôn luôn giải quyết tình huống vướng mắc cho học sinh.
- Giáo viên phải tôn trọng nghiêm túc thực hiện giáo dục, giảng dạy theo nguyên tắc từ những điều đơn giản mới đến nâng cao, khắc sâu... Để học sinh nắm vững việc giải quyết các bài tập “Luyện từ và câu”, giáo viên cũng cần lưu ý điểm sau:
+ Tìm ra phương pháp tổ chức sao cho phù hợp với từng dạng bài tập.
+ Phân biệt cho học sinh hướng giải quyết cho các dạng bài khác nhau. Học sinh cần nắm được các bước tiến hành một bài tập. Cần tổ chức cho học sinh theo các hình thức tổ chức có thể theo nhóm, cá nhân, có thể làm việc cả lớp để phát huy tốt hiệu quả giờ dạy.
- Lưu ý cho học sinh cách trình bày sạch sẽ, khoa học, rèn chữ viết đẹp đúng chính tả cho học sinh.
2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp:
	- Giúp giáo viên nắm được phương pháp nhận biết và sử dụng câu đúng ngữ pháp để giảng dạy cho học sinh.
	- Giúp học sinh biết hoạt động độc lập, biết tự tìm tòi kiến thức, vận dụng làm bài tập một cách chủ động.
	- Với phương pháp tổ chức này, học sinh nắm kiến thức một cách có cơ sở, sâu sắc và vững chắc, hình thành ở các em thói quen đọc bài, xác định yêu cầu của đề bài; Có ý thức trình bày bài sạch sẽ, khoa học, biết dùng từ, đặt câu hợp lí, biết sử dụng câu đúng ngữ pháp, đúng văn cảnh. Ngoài ra các em có thêm thói quen kiểm tra, soát lại bài làm của mình.
	- Góp phần bồi dưỡng nâng cao chất lượng học tập của học sinh đối với môn Tiếng Việt nói riêng và vận dụng trong các môn học khác, trong cuộc sống nói chung.
 Chính vì những ý trên mà triển vọng của đề tài có khả năng phát huy một cách mạnh mẽ, tích cực, càng ngày càng mạnh mẽ hơn. Nó song song, trường tồn cùng thời gian mỗi khi giáo viên hay học sinh có nhu cầu tìm hiểu về câu và cách sử dụng câu cho đúng nhất, hay nhất.
3. Đề xuất, kiến nghị: 
	Dạy các dạng bài tập “Luyện từ và câu” là nguồn cung cấp vốn từ, lối diễn đạt bồi dưỡng tư duy văn học cho học sinh. Muốn vậy:
3.1. Về phía nhà trường và các cấp quản lý: Nhà trường cần tạo điều kiện cơ sở vật chất để giáo viên và học sinh có thể học tập nâng cao kiến thức.
	+ Tạo điều kiện để giáo viên nâng cao tay nghề qua việc cung cấp các loại sách tham khảo, trang thiết bị phục vụ bộ môn.
	+ Động viên khuyến khích kịp thời những giáo viên, học sinh đạt nhiều thành tích cao trong giảng dạy và học tập.
	+ Quan tâm xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
3.2. Về phía người dạy: Không ngừng học hỏi tìm tòi tích luỹ kinh nghiệm từ đồng nghiệp, từ thông tin, sách vở và từ chính học sinh.
	+ Nắm chắc nội dung chương trình, ý đồ của sách giáo khoa, dạy sát đối tượng học sinh, lựa chọn phương pháp hình thức tổ chức phù hợp với mỗi dạng bài.
	+ Cần xác định không phải dạy bài khó, bài nâng cao thì học sinh mới giỏi.
	+ Đặc biệt phải tâm huyết với nghề, luôn đặt học sinh là trung tâm, có trách nhiệm với việc học của học sinh và bài dạy của mình. Động viên gần gũi giúp đỡ học sinh.
3.3. Về phía phụ huynh học sinh: Không ngừng
	+ Thiết lập và duy trì mối liên hệ với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn qua gặp gỡ trực tiếp, gọi điện thoại, xem sổ liên lạc hay các kỳ họp phụ huynh.
	+ Thường xuyên nắm bắt tình hình học tập, rèn luyện của con ở trường, lớp đồng thời cung cấp thông tin (diễn biến tâm tư, tình cảm) của con cho giáo viên chủ nhiệm.
	+ Tham gia đầy đủ các cuộc họp phụ huynh, các hoạt động khác theo yêu cầu của trường, lớp.
	+ Nắm bắt thông tin và luôn giữ liên lạc với ban Phụ huynh, cán sự lớp và bạn bè thân thiết của con.
3.4. Về phía học sinh: Các em cần quan tâm, xác định được tầm quan trọng của môn này. Các em cần được động viên, khích lệ kịp thời, đúng lúc của mọi người để kích thích các em có nhiều cố gắng vươn lên trong học tập, đó chính là gia đình – nhà trường xã hội.
Kết luận: Với mục tiêu giáo dục hiện nay đòi hỏi ở người giáo viên không những giỏi về kiến thức chuyên môn mà còn phải giỏi về công tác chủ nhiệm. Công tác chủ nhiệm tốt là nền tảng là động cơ thúc đẩycho mọi hoạt động dạy và học đạt được chất lượng cao, có như vậy mới góp phần bồi dưỡng và đạo tạo thế hệ trẻ trở thành những công dân có ích cho xã hội.
Trên đây là những kinh nghiệm mà tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy, rất mong được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô.
	Tôi chân thành cảm ơn.
Hoài Tân, ngày 27 tháng 2 năm 2016
 GV thực hiện
 Đặng Ngọc Tín
Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT CẤP TRƯỜNG
 Hoài Tân, ngày  tháng  năm 2016
	 HIỆU TRƯỞNG

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_lop_4_hoc_tot_phan_mon_l.doc
Sáng Kiến Liên Quan