Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Tự nhiên xã hội lớp 3

Trong quá trình thay đổi sách giáo khoa từ 165 tuần sang 175 tuần môn Sức khoẻ đã được tích hợp lại với Tự nhiên - xã hội. Điều đó có nghĩa là môn Tự nhiên - xã hội đã tích hợp với nội dung khoa học về sức khoẻ con người, coi con người, tự nhiên và xã hội là một thể thống nhất.

Qua môn Tự nhiên - xã hội trẻ được trang bị những hiểu biết cơ bản ban đầu về con người và sức khoẻ, có những kiến thức dợn giản về một số sự vật hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. Môn Tự nhiên - xã hội cũng cung cấp cho trẻ một số kĩ năng ban đầu về chăm sóc sức khoẻ bản thân và phòng tránh một số bệnh tật tai nạn.

Môn Tự nhiên - xã hội còn giúp học sinh có những kĩ năng quan sát, nhận xét, diễn đạt những hiểu biết của mình về hiện tượng đơn giản trong tự nhiên - xã hội.

Môn Tự nhiên - xã hội ở tiểu học còn giúp trẻ hình thành một số hành vi tốt như tự giác thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, biết giữ an toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Đặc biệt môn Tự nhiên - xã hội còn giúp trẻ biết yêu thiên nhiên, gia đình, trường học và quê hương.

Trong xu thế đổi mới của nền giáo dục nước nhà. Giáo dục Tiểu học đang tạo ra những chuyển dịch định hướng có giá trị. Cùng với 5 môn học khác, Tự nhiên - Xã hội là một môn học có nhiều sự đổi mới. Nó là tích hợp của 2 môn học cũ Sức khoẻ và Tự nhiên xã hội.

Môn Tự nhiên - Xã hội ở bậc Tiểu học được chia thành 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 từ lớp 1 đến lớp 3, giai đoạn 2 từ lớp 4 đến lớp 5 - nó có một vai trò cực kì quan trọng đó là: Tìm hiểu khám phá thế giới Tự nhiên - Xã hội xung quanh chúng ta và cách chăm sóc sức khoẻ cho mình, cho cộng đồng.

Mỗi môn học có một sắc thái riêng. Môn Tự nhiên - Xã hội cũng vậy. Tuy bản chất là cung cấp những kiến thức Tự nhiên - Xã hội có xung quanh chúng ta song trong sách giáo khoa lớp 3 không đưa ra kiến thức đóng khung có sẵn mà là một hệ thống các hình ảnh bên cạnh các lệnh yêu cầu học sinh thực hiện. Học sinh muốn chiếm lĩnh tri thức không thể khác là thực hiện tốt các lệnh trong sách giáo khoa. Vậy một giờ học Tự nhiên - Xã hội ở lớp 3 được tiến hành ra sao?

 

doc30 trang | Chia sẻ: minhtam111 | Lượt xem: 7708 | Lượt tải: 5Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Tự nhiên xã hội lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
học nội dung cụ thể sẽ được trình bày trong mỗi tiết học là gì? Vấn đề nào trình bày trước, vấn đề nào trình bày sau? Vấn đề nào cần được trọng tâm và nhấn mạnh? 
Ngoài những nội dung trên, hình ảnh minh hoạ được đưa vào bài giảng, thao tác cơ bản nhất đòi hỏi người thầy phải nắm được cách thiết lập các hiệu ứng để làm cho bài giảng sinh động, mang lại không khí học tập, giảng dạy mới mẻ. Các hiệu ứng này là gì? Đó chính là các hoạt ảnh của các đối tượng (văn bản, hình ảnh....) được thiết lập có thứ tự. Có thể dòng chữ này xuất hiện trước dòng chữ kia hay khi dòng chữ này xuất hiện từ dưới lên, khi từ trên xuống... chẳng hạn trong giờ học toán khi tổ chức trò chơi, giáo viên cho học sinh đoán kết quả trước, sau đó mới hiển thị kết quả trên màn hình, như thế mới tiết kiệm được thời gian chép câu hỏi trên bảng, đồng thời tăng khả năng tư duy của học sinh, khi giáo viên sử dụng một cách triệt công cụ hyperlinhk và các hiệu ứng add effect... thì sẽ có ngay nội dung màn hình trên bảng trình bày các câu hỏi theo kiểu chương trình đường lên đỉnh olympia - học sinh sẽ thấy được chủ động tham gia trò chơi và rất hứng thú với nội dung bài học... Ngoài ra, với hình thức này sẽ giúp cho giáo viên tiết kiệm được thời gian viết nội lên bảng, lượng thông tin đến với các em nhanh hơn, nhiều hơn và sâu sắc hơn.
Bài giảng sau khi thiết kế sẽ được trình chiếu lên màn hình thông qua máy chiếu. Giáo viên chỉ cần để ý một lần đầu, các lần sau có thể tự lắp máy được ngay phục vụ cho chính bài giảng mình. Đây là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với giáo viên, chỉ cần một vài thao tác lắp máy chiếu với CPU của máy tính là điều chỉnh độ lớn, độ nét trên màn hình giáo viên chắn hẳn sẽ có một bài giảng chất lượng. 
Tôi ứng dụng CNTT vào giảng dạy TNXH ở một số mảng như sau:
1. Ứng dụng minh họa.
- Theo kinh nghiệm học tập của các nước ở Châu Âu, trẻ chỉ phải học hai môn học: Tiếng Mẹ đẻ và Toán. Nhưng thời lượng ngoại khoá là 60%. Tại các buổi ngoại khoá, trẻ học cách tìm hiểu về cuộc sống các loài hoa, các con vật. Vẽ hình và mô tả sự hiểu biết đó. 
Ở Thái Lan: chương trình phân theo 3 chủ đề:
	Kinh nghiệm sống: Sinh học, Vật lý, Hoá học, Địa lý, Lịch sử.
	Phát triển tính cách: Đạo đức, Âm nhạc, Thể dục.
Định hướng lao động: Nữ công, Kỹ thuật nông nghiệp, Mỹ thuật.
Tại Malayxia, các môn học cuộc sống được phân theo 2 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: hiểu biết môi trường TN - XH gần gũi, bao quanh thông qua môn tiếng Malai.
Giai đoạn 2: Tích hợp các kiến thức môn Sinh học, Vật lý, Hoá học, Địa lý, Lịch sử, Đạo đức, Sức khoẻ thành môn Con người và Môi trường.
Để làm được việc này, trong quá trình soạn giáo án điện tử giáo viên ngoài việc nghiên cứu sách giáo khoa, sách tham khảo để đảm bảo nội dung và kiến thức trong bài dạy, GV cần tìm hiểu những phần mềm liên quan đến việc thiết kế.
Sách giáo khoa TNXH 3 có 3 chủ đề gồm 70 bài ứng với 70 tiết của 35 tuần thực học. Trong đó có 63 bài học mới và 7 bài ôn tập, được phân phối như sau: 
+ Con người và sức khỏe: HS được nhận biết một số cơ quan trên sơ đồ, cách giữ vệ sinh và phòng bệnh cho những cơ quan này.
+ Xã hội: Thể hiện mối quan hệ gia đình, nhà trường, vốn hiểu biết và ý thức về tỉnh, thành phố nơi đang sống.
+ Tự nhiên: Nói về Thực vật và động vật - Mặt trời và trái đất.
Trong năm học này, tôi đã không ngừng học tập và phấn đấu để nâng cao chất lượng dạy và học. Nội dung bài dạy được thiết kế trên nền Powerpoint sinh động và đẹp mắt, hình ảnh minh họa phù hợp, phong phú kết hợp với những âm thanh, bài hát. Giờ học của tôi đã thực sự trở lên hiệu quả hơn rất nhiều.
	2. Ứng dụng vào phần bài tập.
	Theo M.A.Đanilov “Kiến thức sẽ được nắm vững thật sự, nếu học sinh có thể vận dụng thành thạo chúng hoàn thành vào những bài tập lí thuyết hay thực hành”. Bài tập nhằm ôn tập những kiến thức đó học, củng cố kiến thức cơ bản của bài giảng. Một đơn vị kiến thức mới, học sinh chỉ có thể ghi nhớ khi được luyện tập nhiều lần. 
	Một điểm mạnh đáng kể của Violet so với các phần mềm thiết kế bài giảng khác là khả năng tạo ra các bài tập rất phong phú, sinh động và đặc biệt là rất đơn giản. Ví dụ trong Powerpoint ta phải mất cả buổi mới có thể tạo ra 1 bài tập trắc nghiệm hoặc bài tập đối với Violet chỉ cần vài phút là đã làm xong.	Những bài tập này cũng đặc biệt rất thích hợp trong việc củng cố kiến thức trong môn học TNXH. Chính vì vậy tôi thường sử dụng phần mềm Violet để thiết kế phần bài tập cho bài giảng TNXH của mình.
* Một số ví dụ Bài tập trắc nghiệm được tạo bằng Violet
a) dạng nhiều lựa chọn trong đó có một đáp án đúng:
	HS sẽ có cơ hội giao tiếp trực tiếp với máy tính để chọn ra đáp án đúng và kiểm tra kết quả. Thay vì việc GV và HS nhận xét thì các em sẽ nhìn thấy kết quả bài làm của mình ngay trên máy. Máy tính sẽ có những lời động viên khuyến khích hoặc nhắc nhở.
Dạng 2 Bài tập kéo thả chữ:
Với giao diện này sẽ có trường hợp HS trả lời đúng ngay. Nhưng nếu trường hợp HS trả lời sai thì HS khác có thể lên bảng thao tác lai để chọn ra đáp án đúng. Như vậy sẽ thu hút HS hướng lên màn hình theo dõi kết quả bài làm của bạn và cung không quên suy nghĩ đáp án cho riêng mình vì các bạn vẫn còn lượt trả lời.
3. Ứng dụng vào phần trò chơi.
 Bài tập dạng ô chữ cũng được thiết kế trên nền của Violet rất nhanh chóng và tiện lợi. Tuy nhiên về giao diện thì Powerpoint lại chiếm ưu thế hơn ở tính thẩm mỹ và độ tương tác. Do đó tôi thường thiết kế bài tập ô chữ trên nền Powerpoint. Đây là một dạng bài tập thú vị. Nó không những tổng hợp được những kiến thức trong giờ học mà còn gây hứng thú cho HS rất nhiều. Tôi không ngần ngại trong việc biến đổi dạng bài tập này sang hình thức của một trò chơi ô chữ để giờ học thêm sôi nổi, hào hứng.
Đây là một trong những là một trò chơi lý thú mà còn đưa ra được cho các em những kiến thức tổng hợp mà tôi thường xuyên áp dụng trong giờ học TNXH 
Nhờ GAĐT mà giáo viên đã tạo ra một không khí khác hẳn so với giờ dạy truyền thống. Đồng thời đã giảm nhẹ việc giảng giải, trình bày của giáo viên. Thay vào đó giáo viên dành thời gian hướng dẫn hỗ trợ quá trình học tập của học sinh. Học sinh thay đổi hoạt động học tập, làm giảm bớt sự căng thẳng, mệt mỏi giúp cho quá trình học tập hiệu quả hơn.
Biện pháp 4. Ứng dụng phương pháp trò chơi một cách có hiệu quả trong tiết Tự nhiên - Xã hội Lớp 3.
1. Những yêu cầu khi vận dụng dạy phương pháp trò chơi vào dạy môn Tự nhiên - Xã hội ở lớp 3
* Để phương pháp trò chơi thực sự có hiệu quả trong giờ học Tự nhiên - Xã hội. Giáo viên cần lựa chọn trò chơi hay và hiệu quả nhất cho mỗi bài dạy. Trong một tiết giáo viên chỉ nên tổ chức một trò chơi. Đặc biệt đối với trò chơi khám phá kiến thức giáo viên cần tổ chức cho tối thiểu học sinh được tham gia. Cần phối hợp linh hoạt liên hoàn giữa phương pháp truyền thống hiện đại và trò chơi để tiết học sôi nổi sinh động và sâu sắc.
Trong quá trình chỉ đạo giáo viên vận dụng phương pháp trò chơi vào dạy môn Tự nhiên - Xã hội tôi nhận thấy đây là phương pháp đặc biệt quan trọng bởi nó phù hợp với tâm lí của học sinh. Nó là con đường giúp các em đến với tri thức ngắn nhất. Vì "chơi mà học - học mà chơi" là một hoạt động mang tính tự nguyện không gò ép tạo cho các em được sống là chính mình được tìm tòi, được khám phá ...... Và đây chính là một nét mới - một nét độc đáo trong quá trình dạy học của mỗi giáo viên.
2. Về nhận thức:
	Giáo viên cần nhận thức rõ vai trò của phương pháp trò chơi trong quá trình dạy học ở Tiểu học nói chung và dạy môn Tự nhiên - Xã hội nói riêng. Phải hiểu rõ mục tiêu của từng bài, từng phần, từng mảng kiến thức và toàn bộ chương trình môn Tự nhiên - Xã hội ở lớp 3.
3. Về nội dung
	a. Nhóm 1:
	Các trò chơi nhằm mục đích khai thác nội dung kiến thức của bài học.
* Khi vận dụng phương pháp trò chơi vào khai thác nội dung kiến thức bài học giáo viên cần lưu ý.
- Chọn trò chơi phải phù hợp với học sinh, nội dung bài và điều kiện thực tế có thể cho phép.
- Ít nhất 3/4 số học sinh được tham gia.
- Cần tránh hiện tượng chỉ một số học sinh khá giỏi được tham gia
* Sau đây là một số trò chơi có thể áp dụng để tổ chức cho học sinh khai thác nội dung kiến thức bài học.
* Trò chơi: Tôi cần đến đâu?
* Mục tiêu:	
- Nhận biết và chỉ được các cơ quan hành chính cấp tỉnh.
	- Rèn tác phong nhanh nhẹn, luyện trí thông minh
- Ứng xử nhanh.
* Cách chơi: 
- Giáo viên nêu yêu cầu chơi: "Tôi cần đến đâu". Đây là trò chơi yêu cầu các em quan sát kĩ bức tranh cô đã phóng to trên bảng và lắng nghe câu hỏi của cô giáo hoặc của bạn. Nhiệm vụ của các em là nói được tên nơi mà cô hoặc bạn cần đến sau đó lên chỉ nơi đó ở bức tranh trên bảng lớp.
- Luật chơi:	
+ Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm A, B
+ Giáo viên nêu câu hỏi chỉ định 1 học sinh bất kì ở nhóm A chỉ đường. Học sinh chỉ được thì được phép yêu cầu một học sinh khác ở nhóm B chỉ đường đến nơi khác... cứ thế cho đến hết các địa điểm có trong tranh... Nếu học sinh được chỉ định không nói được nơi đến hoặc chỗ đến sai em đó sẽ nói "chuyển" để học sinh cùng nhóm với mình bên cạnh tiếp sức. Cứ mỗi lần nhóm nào có một học sinh nói từ "chuyển" thì ở nhóm đó sẽ bị một điểm phạt. Nhóm nào nhiều điểm phạt hơn là nhóm thua cuộc.
+ Các câu hỏi tham khảo để yêu cầu học sinh chỉ đường là:
 . Tôi đau bụng quá tôi cần đi tới đâu?
. Tôi muốn thăm một bạn học sinh học lớp 3.
. Tôi muốn gọi điện cho bố tôi.
. Tôi muốn hỏi đường đến một khu vực nào đó trong thị xã
+ Kết thúc cuộc chơi giáo viên hỏi: Chúng ta đã đi đến những địa chỉ nào?
* Trò chơi này sử dụng cho bài 27 - 28: Các cơ quan hành chính của Tỉnh.
b. Nhóm 2: Các trò chơi mang tính chất củng cố nội dung bài hoặc khởi động tạo sự liên hệ nhẹ nhàng giữa bài cũ vào bài.
	- Khi dạy xong một bài Tự nhiên - Xã hội để giúp các em khắc sâu về nội dung kiến thức bài học song không mang tính chất tự luận, giảng giải hay nhắc lại. Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: Trò chơi này sẽ có tác dụng giúp cho các em hiểu sâu, nhớ lâu, khó quên bài.
* Trò chơi: Hoa nào đẹp.
	* Mục tiêu: 
- Củng cố tên các bộ phận của các cơ quan trong cơ thể người hoặc các Châu lục và Đại dương của Trái đất. Sự khác biệt giữa làng quê, đô thị...
- Rèn kĩ năng xếp hình và khả năng nhanh nhạy óc phản xạ tốt.
	* Chuẩn bị:
- Nhiều miếng bìa cắt hình cánh hoa trên mỗi cánh có ghi tên hoặc hình vẽ các cơ quan khác nhau trong cơ thể người như: Mũi, Phế quản, Phổi... (hay các Châu lục và Đại dương, các hoạt động, công trình kiến thiết của làng quê, đô thị...).
- Chuẩn bị 4 bìa hình tròn làm nhị hoa trong đó ghi: Cơ quan hô hấp, cơ quan tuần hoàn, cơ quan bài tiết nước tiểu, cơ quan thần kinh (hoặc 2 miếng bìa ghi các Châu lục, các Đại dương, 2 miếng bìa ghi làng quê, đô thị...)
- Nam châm băng dính dán sẵn vào các tấm bìa
	* Cách chơi:
- Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm (hoặc 2 nhóm tuỳ theo số lượng bộ nhị và cánh hoa chuẩn bị được).
- Giáo viên nêu yêu cầu: Hoa nào đẹp là trò chơi yêu cầu các đội phải tìm các cánh hoa sao cho phù hợp với nhị hoa rồi ghép lại thành bông hoa đẹp.
- Luật chơi: Sau khi giáo viên hô bắt đầu thì tất cả học sinh thứ 1 của mỗi nhóm chạy lên lựa chọn nhị hoa cho nhóm mình. Tiếp đó học sinh chạy về cuối hàng của nhóm để học sinh thứ 2 chọn cánh...Trò chơi cứ thế tiếp tục cho đến khi cánh hoa cuối cùng được gắn. Đội nào gắn đẹp, nhanh đúng là đội thắng cuộc.
	* Trò chơi được áp dụng cho các bài:
Bài 17-18: Ôn tập và kiểm tra: Con người và sức khoẻ
Bài 20: Họ nội, họ ngoại.
Bài 66: Bề mặt Trái Đất.
Bài 69 -70: Ôn tập và kiểm tra kì II - Tự nhiên.
Ví dụ ở bài 66: Bề mặt Trái Đất
	* Chuẩn bị:
- 2 bộ cánh hoa ghi tên các Châu lục: Á, Âu, Phi, Mĩ, Đại dương.
- 2 bộ cánh hoa ghi tên các Đại dương là: Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương.	
- 2 bộ nhị hoa gồm: 2 nhị các Châu lục, 2 nhị các Đại dương.
	* Cách chơi:
	- Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm
	- Giáo viên phổ biến luật chơi và nêu yêu cầu chơi.
	- Học sinh gắn cánh hoa vào nhị hoa.
	- Giáo viên bình chọn nhóm thắng cuộc.
Kết thúc trò chơi học sinh được củng cố khắc sâu về các Châu lục và Đại dương và câu thành ngữ: Năm châu bốn biển.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Tuy thời gian nghiên cứu tài liệu và áp dụng vào thực tế dạy chưa được nhiều song tôi cũng đã bước đầu thu dược một số kết quả qua việc thực hiện đề tài “Ứng dụng một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Tự nhiên xã hội lớp 3” như sau :
1. Về phía giáo viên:
- Tôi đã cảm thấy mình tìm được hướng đi đúng, cách làm phù hợp với việc phát triển trí lực cho học sinh trong giờ Tự nhiên - xã hội. Các tiết dạy Tự nhiên - xã hội của tôi không hề khô khan, nhàm chán, nặng nề mà rất nhẹ nhàng cuốn hút học sinh.
- Bản thân mình cũng thấy say mê hứng thú khi dạy cho học sinh cách học bằng các đồ dùng dạy học cũng như bằng giáo án điện tử.
2. Về phía học sinh:
Đến bây giờ các em đã rất quen với việc sử dụng đồ dùng dạy học trong tiết Tự nhiên - xã hội. Các em đều đã có thói quen xem trước bài và chuẩn bị tranh ảnh hay vật mẫu theo yêu cầu của tiết học hay giáo viên. Chính những việc làm đó đã tạo tâm thế và gây hứng thú cho các em trước khi bước vào tiết học. Cùng với việc hứng thú say mê trong tiết học thì sự tiếp thu bài cũng được nâng cao, điều đó thể hiện qua bảng tổng kết sau đây:
Sĩ số
Kết quả đầu năm học
Kết quả học kỳ I
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
47
8
17,1
38
80,9
1
2
39
82,9
8
17,1
0
0
Như vậy nhìn vào bảng tổng kết trên ta thấy rõ được sự tiến bộ của học sinh, có được kết quả như vậy là do sự nỗ lực không ngừng của cả thầy và trò.
* BÀI HỌC RÚT RA
Xuất phát từ cơ sở lý luận cũng như thực tế giảng dạy, tôi thấy các biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học hay ứng dụng CNTT cũng như việc ứng dụng phương pháp Trò chơi vào giảng dạy của mình đã phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Các em không chỉ nắm vững những kiến thức mà còn có những kĩ năng cần thiết áp dụng vào cuộc sống hằng ngày. Đặc biệt khi sử dụng các biện pháp đã kể ở trên học sinh hoàn toàn chù động và sáng tạo tự tìm lấy kiến thức của bài mới dưới sự dẫn dắt chỉ bảo của giáo viên. Đó cũng là một hướng đi đúng đắn nhằm đáp ứng nhu cầu, cũng như mục tiêu của chương trình SGK mới. Qua quá trình giảng dạy tôi thấy muốn sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học và ứng dụng CNTT một cách có hiệu quả trong các tiết Tự nhiên - xã hội người giáo viên cần làm tốt các công việc sau:
1- Nắm vững được mục đích, yêu cầu , những điểm trọng tâm của tiết dạy. 
2- Hiểu được tâm lí học sinh đế gây hứng thú bộ môn.
3- Chuẩn bị trước giờ dạy:
- Soạn kĩ bài. Chuẩn bị đồ dùng dạy học thật chu đáo, chuẩn bị trước các tình huống và cách giải quyết tình huống.
4- Tuân thủ tốt các nguyên tắc sử dụng đồ dùng dạy học:
+ Sử dụng đúng mục đích.
+ Sử dụng đúng lúc. 
+ Sử dụng đúng chỗ.
+ Sử dụng đúng mức độ và cường độ.
+ Kết hợp sử dụng thiết bị dạy học với vlêc tận dụng khai thác, sử dụng cơ sở vật chất ngoài xã hội.
- Giáo viên hiểu tri thức sẽ là của học sinh nếu học sinh được tham gia vào các hoạt động và bằng hoạt động. Do vậy, mọi hoạt động liên quan tới đồ dùng dạy học phải phái huy dược tối đa tính tích cực của nó.
- Trong cùng một tiết dạy, giáo viên cần phối hợp nhịp nhàng các phương pháp dạy học, bên cạnh phương pháp trực quan cần phải kết hợp nhiều phương pháp khác cũng như đan xen nhiều hình thức học tập khác nhau để tiết học được nhẹ nhàng sinh đông, cuốn hút trẻ.
5. Các hoạt động của giáo viên trên lớp đều có ảnh hưởng rất nhiều đến học sinh. Chính vì thế, bản thân người giáo viên khi sử dụng đồ dùng dạy học cần phải chính xác, tỉ mỉ và nghiêm túc.
6. Giáo viên cần phải tôn trọng ý kiến riêng của trẻ. Trong giờ dạy không nên áp đặt trẻ phải tuân theo những khuôn mẫu có sẵn mà hãy để trẻ tự phát huy tính sáng tạo chủ động cua mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Muốn vậy người giáo viên phải tự mình trau dồi tri thức để những giờ học sau cuốn hút hơn giờ học trước.
C. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN CHUNG
Nhận thức được tầm quan trọng của bộ môn Tự nhiên - xã hội ở Tiểu học nói chung và khối lớp 3 nói riêng, tôi thấy Trò chơi chiếm một vị trí đáng kể trong cuộc sống của trẻ Tiểu học. Nhu cầu chơi của các em rất lớn. Trò chơi được coi như chuẩn bị cho lao động, như là biểu hiện của tính sáng tạo, như là để tôi luyện sức lực và năng lực, sau cùng là để giải trí. Qua trò chơi giáo dục cho các em tính hoạt bát, nhanh nhẹn, tinh thần tập thể đoàn kết thân ái. 
Cung cấp kiến thức và phát triển ở học sinh những năng lực hoạt động trí tuệ, nhất là năng lực tư duy sáng tạo, là nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy học nói chung và môn Tự nhiên Xã hội nói riêng. Trò chơi học tập với những đặc điểm độc đáo của nó là một phương tiện hữu hiệu giúp trẻ học nhanh nhất. Trò chơi học tập sẽ mang lại cho em niềm say mê, hứng thú với môn học và qua đó lượng kiến thức đưa vào cho các em rất nhanh, bền vững. 
Thêm vào đó, việc tích cực ứng dụng CNTT cũng như áp dụng linh hoạt phương pháp Trò chơi trong tiết Tự nhiên - xã hội là rất cần thiết. Bởi lẽ, đây chính là những điểm tựa cần thiết cho quá trình hình thành tư duy của trẻ. Nó còn chính là chìa khóa màu nhiệm giúp trẻ mở được những cánh cửa mới đối với thế giới xung quanh mình. Nó cũng là bậc thang để dẫn trẻ tới con đường khám phá tri thức khoa học của nhân loại.
Đề tài "Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Tự nhiên xã hội lớp 3" là kết quả của quá trình tìm tòi, nghiên cứu học hỏi. Mặc dù đã rất cố gắng song sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Vì vậy, tôi luôn mong nhận được sự đóng góp quý báu của lãnh đạo cấp trên cũng như đồng nghiệp để đề tài của tôi có tính khả thi, giúp cho tôi vững vàng hơn trong công tác giảng dạy, chủ nhiệm của mình.
II. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Như đề cập ở phần đầu, đồ dùng dạy học trong tiết Tự nhiên - xã hội vẫn mang nặng tính truyền thống là dừng lại ở tranh hoặc ảnh. Hiện nay ở các trường tiểu học trong thành phố đều đã trang bị ti vi và đầu video cũng như máy chiếu, máy vi tính nên giáo viên chúng tôi mong muốn sẽ có những băng hình giáo khoa về các chủ đề như con người, tự nhiên, xã hội hoặc kho tư liệu dạy học chung để chúng tôi, những người giáo viên có thể dễ dàng tìm kiếm tư liệu, khai thác nguồn tư liệu đó phục vụ cho quá trình dạy và học để từ đó các tiết học sẽ trở nên sinh động bổ ích.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Hà Nội, ngày 14 tháng 3 năm 2019
Người thực hiện
Trịnh Quốc Hoàng 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Giáo dục học tiểu học - Nhà xuất bản Đại học Sư phạm - H.2000.
136 trò chơi sinh hoạt - Nhà xuất bản Thể dục thể thao - H.2000.
Sách giáo viên TNXH3 - Nhà xuất bản Giáo dục - H.2004.
Tài liệu lớp chuyên đề: Giáo viên chủ nhiệm phụ trách lớp nhi đồng khối 3 - Trường Lê Duẩn - H.2006.
Nguyễn Thượng Giao “Giáo trình phương pháp giảng dạy môn Tự nhiên-Xã hội”-NXB Giáo dục,2004
Bùi phương Nga, Lê Thu Dinh”Sách giáo khoa và sách hướng dẫn giảng dạy Tự nhiên-Xã hội”lớp 1, lớp 2, lớp 3-NXB Giáo dục,2000.
Giáo Trình Tin Học Văn Phòng -Tác giả: Nguyễn Thanh Hải. 
Giáo Trình Cầm Tay Chỉ Việc - Tập Đánh Máy Và Trang Trí Văn Bản - Tạo Thiệp Chúc Mừng Ấn Tượng - Tác Giả: Trương Thanh Hải - Nguyễn Tấn Minh
Tự Học Microsoft Word 2007 - Tác Giả: Nguyễn Nam Thuận - Năm xuất bản: 2007
Giáo Trình Lý Thuyết Và Thực Hành Tin Học Văn Phòng - Tập 4: PowerPoint XP, Quyển 2 (Dùng Kèm CD) - Tác Giả: Hoàng Đức Hải. Nguyễn Đình Tê.
Trần Đình Châu, Sử dụng bản đồ tư duy - Một biện pháp hiệu quả hỗ trợ học sinh học tập môn Toán - Tạp chí Giáo dục, kỳ 2 - tháng 9/2009.
Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thuỷ, Sử dụng bản đồ tư duy góp phần TCH HĐ học tập của HS, Tạp chí Khoa học giáo dục, Số chuyên đề TBDH năm 2009.
Tony Buzan - Bản đồ Tư duy trong công việc - NXB Lao động - Xã hội. 
MỘT SỐ GIÁO ÁN MINH HỌA CÓ ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC 
MÔN TỰ NHIÊN XÃ HỘI LỚP 3
BÀI: SỰ CHUYỂN ĐỘNG CỦA TRÁI ĐẤT
1
2
3
4
5
6
7
8
BÀI: MẶT TRỜI
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
BÀI: TRÁI ĐẤT LÀ MỘT HÀNH TINH
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26

File đính kèm:

  • docTu nhien xa hoi 3 Hoang THTrungTu.doc.doc
Sáng Kiến Liên Quan