Chuyên đề Biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn đạt hiệu quả cho học sinh Lớp 2, 3

Nội dung chuyên đề:

1. Giải pháp 1: Tích cực vận dụng phương pháp dạy học phát huy năng lực học tập của học sinh.

a) Kết hợp phương pháp quan sát và hỏi đáp:

 Thứ nhất: Yêu cầu học sinh có thói quen quan sát những sự vật hiện tượng xung quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Kỹ năng quan sát rất cần cho học sinh khi viết văn: Quan sát trên lớp theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ở nhà. Thứ hai: khai thác kỹ tranh ảnh, hình ảnh, tập trung quan sát đặc điểm nổi bật của đối tượng , mục đích là giúp HS tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên cạnh đó, cũng hướng dẫn HS cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận một cách có cảm xúc về sự vật. Thứ ba thông qua phương pháp quan sát, rèn cho học sinh kỹ năng nói từ , nói câu ngắn, nói câu dài, trình bày miệng bài nói, trước khi làm bài viết. Trên cơ sở đó, điều chỉnh giúp học sinh hoàn thiện bài viết. Với phương pháp này, thường tổ chức cho học sinh luyện nói cá nhân, luyện nói trong nhóm. ( HS có thể kết nhóm theo ý thích, để có sự thoải mái tự nhiên, tự tin khi tham gia làm việc trong nhóm.

Ví dụ Tả ngắn về biển, có em bảo là con chưa bao giờ nhìn thấy biển. Quả đúng như vậy, vì các em được sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên các em không nhìn thấy biển là đúng. Bởi thế GV cần sưu tầm những phim ảnh, đoạn video để có thể trình chiếu cho các em, cho các em quan sát về cảnh biển,

 Hoặc vào dịp nghỉ lễ, nghỉ hè các em hay được ba mẹ cho đi tham quan tắm biển, nhân đó, có thể yêu cầu HS quan sát kỹ để có ý tưởng cho tập làm văn tả cảnh biển.

b) Phương pháp phân tích ngôn ngữ

 Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và câu được hình thành thông qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng cường sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ rất cần thiết trong giờ học Tập làm văn. Sử dụng phương pháp này để có cơ sở giúp học sinh nhận ra cấu tạo câu, nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận, diễn đạt ý rõ ràng, dễ hiểu.

Ví dụ: Dựa vào các mẫu câu được học trong phân môn Luyện từ và câu: “ Ai – là gì?”, “ Ai – làm gì?”, “ Ai – như thế nào?”, hướng dẫn HS nhận biết những vấn đề sau:

 - Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa: Bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai?( hoặc Cái gì?/ Con gì)?, bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì (hoặc Làm gì?/ Như thế nào? ( Đó chính là đảm bảo về hình thức cấu tạo).

 - Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa? (Đảm bảo về mặt nghĩa)

Trên cơ sở đó, hướng dẫn học sinh viết dấu chấm câu phù hợp khi hết câu. Mỗi tiết học có kiến thức liên quan, đều gợi mở cho HS tự khắc sâu kiến thức về các mẫu câu và nhắc HS áp dụng khi giao tiếp ở gia đình, trong trường học và nơi công cộng. Khi giao tiếp các em phải nói 1 câu rõ ràng cho người nghe hiểu được ý mình muốn nói.

 

doc6 trang | Chia sẻ: Hải Thượng | Ngày: 05/05/2023 | Lượt xem: 1155 | Lượt tải: 6Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn đạt hiệu quả cho học sinh Lớp 2, 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYÊN ĐỀ 3: 
“ Biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn đạt hiệu quả cho học sinh lớp 2, 3 ”
I. Lý do chọn chuyên đề 
 Ở bậc Tiểu học, môn Tiếng Việt (TV) có ý nghĩa đặt biệt quan trọng đối với học sinh, giúp các em phát triển toàn diện hình thành những cơ sở thế giới khoa học. Phân môn TLV trong môn TV hội tụ đủ 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Đối với HS lớp 2 -3 thì đây là một phân môn khó. Bởi ở lứa tuổi của các em, đang ở bước đầu rèn nói và viết từ, câu, đoạn, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp. 
Phân môn Tập làm văn ở Tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng là rèn kỹ năng nói và viết, góp phần hình thành, phát triển nhân cách của trẻ và những kiến thức cơ bản trong đời sống hằng ngày. Trong chương trình Tập làm văn lớp 2-3, ngay từ đầu năm học, các em đựơc làm quen với đoạn văn và được rèn kỹ năng viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu ( lớp 2) rồi 5 đến 7 câu ( lớp 3). Trong quá trình làm bài, tôi nhận thấy các em còn lúng túng, nhiều học sinh làm bài chưa đạt yêu cầu. Các em chưa biết viết 1 câu hoàn chỉnh, thường lặp lại câu đã viết, dùng từ sai, có em viết không đúng yêu cầu của đề bài hoặc có những bài làm đảm bảo về số câu nhưng viết không đủ ý. Mục đích của việc dạy Văn phải là khuyến khích và huấn luyện con người khả năng cảm thụ, tự do bộc lộ suy nghĩ, biểu cảm, kỹ năng sống, biết yêu thương, có trách nhiệm và gắn kết với cộng đồng.” 
 Vậy làm thế nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Giáo viên tổ chuyên môn 2-3 luôn cố gắng để tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh của lớp mình. Chính vì thế mà tổ chọn nghiên cứu và thực hiện bài trao đổi: "Biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn đạt hiệu quả cho học sinh lớp 2,3” để tháo gỡ những vướng mắc cùng đồng nghiệp trong giảng dạy.
II. Mục đích chuyên đề:
- GiúpHS khắc phục được những hạn chế về cách viết 1 đoạn văn ngắn theo lối truyền đạt cũ.
- Góp phần đổi mới về cách dạy của giáo viên và việc học của HS về phân môn TLV lớp 2-3 hiện nay. Qua đó bồi dưỡng lòng say mê yêu thích con người, cảnh vật xung quanh các em. 
- Giúp HS có kỹ năng viết đoạn văn ngắn theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, có kĩ năng sử dụng từ viết câu, biết liên kết các câu viết thành đoạn văn ngắn, tránh bị lặp từ, lặp ý. Có hứng thú để khám phá, thể hiện mình trong cách sử dụng ngôn ngữ nói, viết một cách linh hoạt. 
III. Nội dung chuyên đề: 
1. Giải pháp 1: Tích cực vận dụng phương pháp dạy học phát huy năng lực học tập của học sinh.
a) Kết hợp phương pháp quan sát và hỏi đáp:
 	Thứ nhất: Yêu cầu học sinh có thói quen quan sát những sự vật hiện tượng xung quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Kỹ năng quan sát rất cần cho học sinh khi viết văn: Quan sát trên lớp theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ở nhà. Thứ hai: khai thác kỹ tranh ảnh, hình ảnh, tập trung quan sát đặc điểm nổi bật của đối tượng , mục đích là giúp HS tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên cạnh đó, cũng hướng dẫn HS cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận một cách có cảm xúc về sự vật. Thứ ba thông qua phương pháp quan sát, rèn cho học sinh kỹ năng nói từ , nói câu ngắn, nói câu dài, trình bày miệng bài nói, trước khi làm bài viết. Trên cơ sở đó, điều chỉnh giúp học sinh hoàn thiện bài viết. Với phương pháp này, thường tổ chức cho học sinh luyện nói cá nhân, luyện nói trong nhóm. ( HS có thể kết nhóm theo ý thích, để có sự thoải mái tự nhiên, tự tin khi tham gia làm việc trong nhóm.
Ví dụ Tả ngắn về biển, có em bảo là con chưa bao giờ nhìn thấy biển. Quả đúng như vậy, vì các em được sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên các em không nhìn thấy biển là đúng. Bởi thế GV cần sưu tầm những phim ảnh, đoạn video để có thể trình chiếu cho các em, cho các em quan sát về cảnh biển,  
 Hoặc vào dịp nghỉ lễ, nghỉ hè các em hay được ba mẹ cho đi tham quan tắm biển, nhân đó, có thể yêu cầu HS quan sát kỹ để có ý tưởng cho tập làm văn tả cảnh biển. 
b) Phương pháp phân tích ngôn ngữ
 	 Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và câu được hình thành thông qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng cường sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ rất cần thiết trong giờ học Tập làm văn. Sử dụng phương pháp này để có cơ sở giúp học sinh nhận ra cấu tạo câu, nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận, diễn đạt ý rõ ràng, dễ hiểu. 
Ví dụ: Dựa vào các mẫu câu được học trong phân môn Luyện từ và câu: “ Ai – là gì?”, “ Ai – làm gì?”, “ Ai – như thế nào?”, hướng dẫn HS nhận biết những vấn đề sau:
 - Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa: Bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai?( hoặc Cái gì?/ Con gì)?, bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì (hoặc Làm gì?/ Như thế nào? ( Đó chính là đảm bảo về hình thức cấu tạo).
 - Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa? (Đảm bảo về mặt nghĩa)
Trên cơ sở đó, hướng dẫn học sinh viết dấu chấm câu phù hợp khi hết câu. Mỗi tiết học có kiến thức liên quan, đều gợi mở cho HS tự khắc sâu kiến thức về các mẫu câu và nhắc HS áp dụng khi giao tiếp ở gia đình, trong trường học và nơi công cộng. Khi giao tiếp các em phải nói 1 câu rõ ràng cho người nghe hiểu được ý mình muốn nói.
c) Phương pháp sử dụng từ ngữ trong câu 
 Các em mới ở lớp 1 lên, có một số em nói chưa rõ, thậm chí còn nói chớt, nói ngọng, chưa biết cách dùng từ để thể hiện ý của mình nên việc sử dụng từ ngữ trong bài tập làm văn còn nhiều hạn chế. Hầu hết học sinh sử dụng từ ngữ chưa phù hợp, chưa chính xác. Vì vậy, giáo viên cần cung cấp, giúp các em lựa chọn, phân tích để sử dụng từ ngữ cho hợp lý. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần giới thiệu, cung cấp thêm các từ đồng nghĩa phù hợp với bài văn.
 Ví dụ: 
 Khi viết đoạn văn kể về người thân thì HS sẽ có nhiều bài làm khác nhau, Giáo viên cần giúp học sinh chọn lựa từ ngữ cho phù hợp. Khi kể về bố là thầy giáo thì từ ngữ sử dụng phải khác với bài viết bố là bộ đội; viết về tình cảm của em đối với với cha mẹ, ông bà thì từ dùng phải khác với viết về tình cảm của mình đối với bạn bè; viết về cảnh biển buổi sáng có thể dùng các từ đồng nghĩa như: bình minh, hừng đông, sớm mai; viết về gia đình có các từ như đoàn tụ, sum họp, quây quần; để diễn tả mặt trời mùa hè có các từ: chói chang, gay gắt, đỏ rực, như mâm lửa khổng lồ, như quả cầu lửa Giáo viên cần chuẩn bị kỹ với mỗi bài để hướng dẫn, gợi mở cho HS một số vốn từ để học sinh vận dụng các từ ngữ thích hợp vào bài viết của mình.
2) Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn
Khi các em nắm được yêu cầu của đề bài, do vốn từ các em còn nhiều hạn chế, các em chưa biết cách sử dụng từ phù hợp vì vậy đoạn văn thường viết theo kiểu liệt kê, thiếu cảm xúc. Để khắc phục tình trạng này GV cần làm như sau:
a) Giúp HS có một hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng 
 Trong chương trình, hầu hết các bài văn đều có câu hỏi gợi ý rõ, đầy đủ. GV có thể tranh thủ thời gian cuối tiết học hướng dẫn HS chuẩn bị, đọc câu hỏi gợi ý, suy nghĩ bài viết cho tiết sau. Hoặc chuẩn bị phần tự học khi ở nhà, trước khi lên lớp. Đối với những bài không có câu hỏi gợi ý, có thể soạn, cung cấp cho các em. 
Ví dụ
Bài viết kể về một việc làm tốt mà em hoặc bạn em đã làm.
 Để phát huy được vốn từ và năng lực giải quyết vấn đề của các em, GV đã đưa ra các câu hỏi gợi ý sau:
 - Em (hoặc bạn em) đã làm việc tốt khi nào? Ở đâu? Đó là việc gì? 
 - Em (hoặc bạn ấy) đã làm như thế nào?
 - Em suy nghĩ gì khi làm (hoặc thấy bạn làm) việc tốt đó?
Bài viết kể về gia đình em.
 - Gia đình em gồm có mấy người? Đó là những ai? 
 - Kể từng người trong gia đình em. 
 - Mỗi người trong gia đình quan tâm nhau như thế nào?
 - Tình cảm của em đối với gia đình như thế nào?
 Khi các em có hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng, các em dễ dàng định hình những gì cần viết. Và đối với học sinh gặp khó khăn trong học tập các em cũng có thể bắt 
nhịp được yêu cầu của bài viết được câu ngắn, đủ ý theo yêu cầu.
b. Giúp học sinh nắm chắc bố cục của đoạn văn
 Trong quá trình viết bài, trình bày đoạn văn, nhiều HS thiếu câu mở đầu, hoặc kể liệt kê, chưa đảm bảo cấu trúc một đoạn văn . Để giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn GV cần hướng dẫn HS thực hiện như sau:
Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết. ( Có thể diễn đạt bằng một câu )
Phát triển đoạn văn : Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý , mỗi gợi ý có thể diễn đạt 2,3 câu tùy theo năng lực học sinh.
 Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ , mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người.
 Ví dụ
Viết về một con vật:
- Con vật em định kể là con vật gì? 
- Nó sống ở đâu? Hình dáng nó như thế nào?
- Hoạt động của nó có gì nổi bật?
- Vì sao em thích con vật đó?
Câu mở đầu: Giới thiệu chim cánh cụt
Trong thế giới loài chim, em thích nhất là chim cánh cụt.
Phát triển: Kể về chim cánh cụt
Cánh cụt sống ở những nơi lạnh giá, đầy băng tuyết. Nó có đôi cánh giống như hai mái chèo. Dáng đi của nó lũn chũn, trông rất buồn cười. Là một loài chim rất dễ thương nhưng em chẳng thấy nó bay bao giờ. Thế nhưng nó lặn sâu dưới nước để bắt cá rất giỏi. 
Câu kết thúc: Tình cảm của em đối với loài chim này
Em thích chim cánh cụt vì chúng là những con vật hiền lành, dễ thương.
c. Chú trọng lồng ghép kiến thức giữa các phân môn Tiếng Việt
 Để các em có thể làm được một bài văn tốt, các em phải có vốn từ ngữ phong phú. Mà vốn từ đó, có em tích lũy khá nhiều nhưng chưa biết vận dụng. Có em thì có rất ít hoặc chưa hề có. Bởi vậy, giáo viên chính là người cung cấp. Mà cung cấp ở đâu? Ở trong các bài tập đọc có khá nhiều. Mỗi chủ đề của môn Tiếng Việt thì môn tập đọc đều có những bài văn, bài thơ nói về chủ để đó. Trong quá trình giảng dạy Gv cần chú ý đến những bài tập đọc có liên quan đến tiết tập làm văn, yêu cầu HS gạch chân hoặc viết ra giấy. Từ đó học sinh có thể rút ra những câu văn hay, từ ngữ đẹp và ghi nhớ sau này vận dụng. Hoặc trong các tiết dạy TNXH các em được trực tiếp quan sát các con vật và có từ ngữ về đặc điểm của chúng, GV yêu cầu các em trình bày cụ thể, đây là cơ sở để các em có thể viết một đoạn văn ngắn về một con vật.
 Ví dụ: Khi học về chủ đề “ Ông bà“ “Cha mẹ”, “Anh em” ( từ tuần 10 đến tuần 16), với rất nhiều những bài đọc thắm đượm tình cảm thương yêu trong gia đình HS hiểu rõ và nắm chắc người thân của mình là những ai, giúp các em viết tốt về chủ đề kề về người thân trong gia đình.Trong bài tập đọc “Ngôi trường mới”, học sinh có thể rút ra được một số câu văn, từ ngữ tả về ngôi trường : “Nhìn từ xa, những mãng tường vàng, ngói đỏ như những cánh hoa lấp ló trong cây. Tường vôi trắng, cánh cửa xanh, bàn ghế gỗ xoan đào nổi vân như lụa.”. Vận dụng từ ngữ có trong phân môn luyện từ và câu. như bài: “từ ngữ về Bác Hồ. Dấu chấm, dấu phẩy” GV cho học sinh hoc thuộc các từ ngữ về Bác và cách sử dụng dấu chấm, dấu phẩy để vận dụng cho tiết TLV tả ngắn về Bác Hồ.
 Để cho đoạn văn thêm sinh động, giáo viên cần cung cấp cho học sinh : Nhiều từ ngữ gợi tả, từ láy, từ tượng thanh, tượng hình  Ví dụ : Mặt biển xanh và rộng thành mặt biển xanh ngắt và rộng mênh mông. Nối các câu văn lại thành những từ ngữ liên kết như : và, thì, nếu, vậy là . 
 Lưu ý học sinh trong đoạn văn tránh lặp lại từ nhiều lần mà phải thay những từ ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tương tự, ví dụ: Bác Hồ thành Bác, Ngườithay những từ ngữ thông thường thành những từ ngữ trau chuốt hơn. Ví dụ: buổi sáng thành buổi sớm mai, buổi bình minh. Ví dụ: Anh của em thành Anh trai của em , thành anh ấy, thành anh Minh ( thay bằng gọi tên) 
 Ví dụ: Các em sẽ thành lập một đoạn văn như sau : “Nhà em có nuôi một chú gà . Nó có bộ lông màu đỏ tía. Nó gáy rất to. Em rất yêu nó.”. Giáo viên có thể khuyến khích học sinh là “em làm đúng nhưng chưa hay. Từ những ý tưởng ban đầu của em, chúng ta sẽ hình thành một đoạn văn hay hơn nhé: “Chú gà trống nhà em trông mới oai vệ làm sao ! Toàn thân chú phủ một lớp lông vũ màu đỏ tía. Sáng sáng, trống tía nhảy tót lên trụ rơm đầu hè mà rướn cổ gáy vang ò ó o. Mỗi chiều đi học về, em thường rải cho chú trống một ít hạt bắp và vuốt ve cái đuôi dài, cong cong của chú.”. Khi đó, học sinh sẽ thấy được vẫn là ý tưởng cũ nhưng đoạn văn đã được lột xác, thêm thắt những từ ngữ trau chuốt hơn làm cho đoạn văn đẹp hơn, nghệ thuật hơn. 
d) Các bước thực hiện viết đoạn văn:
 Bước 1: Cá nhân thảo luận trong nhóm thông qua câu hỏi gợi ý (việc này phát huy được mọi thành viên đều làm việc, giúp đỡ được học sinh gặp khó khăn). GV gợi ý cho học sinh trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau.
 Bước 2: Tổ chức cho HS trả lời trước lớp. Cho HS nhận xét, đánh giá chính mình và của bạn kết hợp sửa chữa những câu trả lời chưa đúng.
 Hướng dẫn học sinh sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật tự hợp lý để hoàn chỉnh bài làm miệng. Tiếp theo cho một số học sinh làm miệng cả bài. 
 Bước 3: Hướng dẫn học sinh viết liền mạch các câu trả lời thành một đoạn văn. 
 cung cấp và gợi ý để các em có thể chọn từ đồng nghĩa thay thế cho từ cũ, có thể hướng dẫn mẫu các câu văn có hình ảnh nhân hóa hoặc so sánh để bài văn sinh động hơn (khuyến khích học sinh hoàn thành Tốt vận dụng, không bắt buộc tất cả các đối tượng học sinh thực hiện vì đây là phần kiến thức chưa học, giáo viên hướng dẫn mẫu và cung cấp các thành ngữ so sánh, nhân hóa ( nhưng không dùng những thuật ngữ này với đối tượng học sinh lớp 2 ).
3) Giải pháp 3: Thực hiện nghiêm túc việc nhận xét và chữa bài
 	Bước 1: Thực hiện nhận xét và chữa bài. Đây là việc làm hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra lỗi sai để điều chỉnh , sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn ( có theo dõi, kiểm tra, cho HS đọc lại bài đã được sữa, tránh tình trạng chỉ nghe mà không thực hành đối với HS Hoàn thành). Đối với những bài làm có ý hay, GV giúp học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho bài văn được hay hơn. Học sinh lớp 2-3 chưa được học và luyện tập nhiều về từ ngữ, ngữ pháp, chắc chắn trong bài viết của các em sẽ rất nhiều lỗi sai . Trong quá trình chấm bài, GV phát hiện, giúp HS khắc phục, biết lựa chọn, thay thế các từ ngữ cho phù hợp. GVghi lời nhận xét cụ thể về cách dùng từ,viết câu, hoặc có thể nhận xét trực tiếp cho các em hiểu, rút kinh nghiệm lần sau.
 Bước 2: Giới thiệu những bài văn hay của học sinh ở năm học trước nhằm kích thích tinh thần học tập của học sinh, hoặc những bài viết hay của học sinh trong lớp cho các em tham khảo, từ đó nhận thấy sự khác nhau về cách diễn đạt trong cùng một đề tài để các em hiểu rằng những bài làm thể hiện suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn được khích lệ và khen ngợi, yêu thích.
4) Giải pháp 4: Phối hợp với phụ huynh học sinh 
 Để học sinh học phân môn Tập làm văn của lớp đạt kết quả tốt, giáo viên cần làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh để cùng xây dựng tốt nề nếp tự học
và chuẩn bị bài ở nhà. Cụ thể như sau:
 Ngay từ đầu năm học GV cần trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập của con em, qua đó nêu vai trò của môn Tiếng Việt đặc biệt là phân môn tập làm văn. GV đưa ra chương trình mà các em được học trong năm học cụ thể là: 
 * Dạy các nghi thức lời nói tối thiểu, như: chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu, tán thành.
 * Dạy một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống, như: khai bản tự thuật ngắn, viết những bức thư ngắn, đọc và lập danh sanh sách học sinh, 
 * Viết một đoạn văn ngắn về: Gia đình; Một người thân; Cô giáo ( hoặc thầy giáo )của em; Các mùa trong năm; Một loài chim; Một con vật; Tả ngắn về biển; Tả ngắn về một loài cây; Một loài hoa; Viết về Bác Hồ; Một em bé; Kể một việc làm tốt.( Lớp 20); Kể hay nói – viết theo chủ đề ( Lớp 3).	
 Trong đó lưu ý cách viết đoạn văn ngắn và nêu thực trạng viết đoạn văn của các em trong những năm học trước, từ đó trao đổi các biện pháp tại nhà kết hợp với ở trường để giúp các em có kỹ năng viết văn tốt hơn. Nắm rõ nội dung chương trình các em được học, phụ huynh dễ dàng có những phương pháp tiếp cận, khơi gợi cảm xúc viết đoạn văn cho các em. Khuyến khích phụ huynh lựa chọn nhiều sách, báo cho các em đọc. 
Ví dụ
 Khi các em chuẩn bị hoc bài kể về người thân thì phụ huynh gợi ý trước cho em ở nhà bẳng cuộc nói chuyện về những người trong gia đình, chuẩn bị cho các em những tấm ảnh, tạo cho em bộc lộ tình cảm, suy nghĩ của mình với người thân. Từ đó phụ huynh có cơ hội sửa câu từ cho các em. Ngoài ra phụ huynh cần tạo cơ hội cho các em được trải nghiệm thực tế cuộc sống như đi tham quan, tắm biển
- Ngoài ra để giúp học sinh còn viết chậm do kĩ năng đọc chậm, nói sai. GV tăng cường sửa sai rèn đọc, hướng dẫn cách sử dụng từ ngữ, khen ngợi động viên các em dù tiến bộ rất ít. Đối với những em chưa mạnh dạn, gặp khó khăn trong học tập cần thường xuyên gần gũi, nhẹ nhàng động viên, đưa ra những yêu cầu vừa sức giúp em hoàn thành nhiệm vụ. Tăng cừờng công tác trao đổi với phụ huynh và giáo viên bộ môn về tình hình học tập của các em để cùng tìm biện pháp giúp đỡ các em.
* Tóm lại: Trên đây bài trao đổi thảo luận về một số giải pháp nhằm nâng cao kĩ năng cho HS khối 2-3 viết đoạn ngắn đạt hiệu quả. Giáo viên trong tổ sẽ dạy thực nghiệm rút kinh nghiệm để đi đến thống nhất và vận dụng dạy phân môn TLV cho tốt hơn.
Ý KIẾN CỦA BAN GIÁM HIỆU
...................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................................

File đính kèm:

  • docchuyen_de_bien_phap_ren_ky_nang_viet_doan_van_ngan_dat_hieu.doc
Sáng Kiến Liên Quan