Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm nhằm giáo dục toàn diện cho học sinh Lớp 3

Khó khăn:

1. Đối với giáo viên chủ nhiệm:

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại của giáo viên có thể là thiếu kinh nghiệm hoặc sử dụng phương pháp giáo dục thiếu linh hoạt. Giáo viên chỉ chú trọng rèn kiến thức, kĩ năng mà ít quan tâm việc hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho các em. Giáo viên chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của nó. Công tác chủ nhiệm lớp mới chỉ quan tâm đến nề nếp học sinh. Giáo viên chủ nhiệm chưa thấy được vai trò của mình trong việc giúp học sinh hình thành và phát triển toàn diện cho các em, chưa tạo cơ hội cho các em khả năng điều hành, tự học, tự quản, mạnh dạn, tự tin, biết chia sẻ, bày tỏ ý kiến, hợp tác. ; chưa tạo được môi trường học tập thân thiện, mối quan hệ gần gũi giữa giáo viên - học sinh, học sinh, phụ huynh- giáo viên. 2. Đối với học sinh:

 Về kiến thức: Một số học sinh chưa xác định được động cơ học tập đúng đắn, chưa chăm học. chưa nắm được phương pháp học tập và mất căn bản ở lớp dưới. Về nhóm năng lực: Khả năng tự phục vụ, tự quản của một số học sinh còn ỉ lại, thiếu ý thức tự giác; chưa chấp hành nội quy lớp học. Kĩ năng giao tiếp, hợp tác còn hạn chế: học sinh thiếu mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp; trình bày lủng củng, rụt rè; ứng xử chưa thân thiện, các em ít chia sẻ với mọi người Học sinh chưa biết cách tự học và giải quyết vấn đề: làm việc trong nhóm thiếu tích cực; khả năng tự học còn lúng túng; chưa biết cách chia sẻ kết quả học tập với bạn, với cả nhóm; chưa mạnh dạn tự đánh giá kết quả học tập và báo cáo kết quả trong nhóm hoặc với giáo viên; còn ngại khi tìm kiếm sự trợ giúp kịp thời của bạn, giáo viên hoặc người khác; vận dụng những điều đã học để giải quyết nhiệm vụ trong học tập, trong cuộc sống chưa linh hoạt; học sinh chưa tìm được cách giải quyết khi phát hiện những tình huống mới liên quan tới bài học hoặc trong cuộc sống.

 Về nhóm phẩm chất: Một số em chưa tích cực tham gia hoạt động giáo dục, ít trao đổi nội dung học tập, hoạt động giáo dục với bạn, thầy cô giáo và người khác; các em thiếu mạnh dạn khi thực hiện nhiệm vụ học tập, trình bày ý kiến cá nhân; chưa dám tự chịu trách nhiệm về các việc làm chưa đúng. Các em chưa ham thích tìm hiểu về các địa danh, nhân vật nổi tiếng ở địa phương

 

doc19 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 03/03/2022 | Lượt xem: 891 | Lượt tải: 3Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm nhằm giáo dục toàn diện cho học sinh Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m trách nhiệm để từng bước điều chỉnh mình.
* Đối với  học sinh cần quan tâm nhiều đến phát triển năng lực: 
 Giáo viên tạo cơ hội cho học sinh chia sẻ, bày tỏ ý kiến. Coi trọng sự tiến bộ của các em dù chỉ là rất ít. Luôn động viên, khích lệ để các vững tin hơn. Thường xuyên quan tâm các em trong việc tham gia các hoạt động...
 * Đối với những học sinh đi học thiếu chuyên cần:
 Phối kết hợp với chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường. Điều này, sẽ giúp cho các bậc phụ huynh nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc học tập và rèn luyện của con em, động viên, khích lệ các em cố gắng. Thường xuyên kiểm tra việc đi học chuyên cần của học sinh nhằm phát hiện kịp thời những học sinh có nguy cơ bỏ học, đến tìm hiểu nguyên nhân và có biện pháp vận động phù hợp.
3. Theo dõi, nhận xét thường xuyên, sâu sát với từng học sinh:
 Các năng lực, phẩm chất của học sinh được hình thành và phát triển trong quá trình học tập, rèn luyện, hoạt động trải nghiệm cuộc sống trong và ngoài nhà trường. Giáo viên chủ nhiệm giúp học sinh hình thành và phát triển một số năng lực thông qua các hoạt động giáo dục.
 Các biểu hiện hoặc hành vi về năng lực: Tự phục vụ, tự quản / hợp tác / Tự học và giải quyết vấn đề.
 Các biểu hiện hoặc hành vi về phẩm chất: Chăm học, chăm làm / tự tin, trách nhiệm/ trung thực, kỉ luật / đoàn kết, yêu thương.
	Hàng ngày, hàng tuần, giáo viên quan sát các biểu hiện trong các hoạt động của học sinh để nhận xét sự hình thành và phát triển năng lực; từ đó động viên, khích lệ, giúp học sinh khắc phục khó khăn, phát huy ưu điểm và các năng lực riêng, điều chỉnh hoạt động để tiến bộ. Hàng tháng, giáo viên thông qua quá trình quan sát, ý kiến trao đổi với cha mẹ học sinh và những người khác để nhận xét học sinh, ghi vào sổ theo dõi chất lượng giáo dục cụ thể, sâu sát đối với từng học sinh. Tôi luôn chú ý tìm đến biện pháp phù hợp, hữu hiệu để “lấp đầy” cho học sinh trong những tháng sau.
4. Trang trí lớp học thân thiện:
	Không gian lớp học sạch đẹp, an toàn thân thiện là yếu tố rất quan trọng góp phần thu hút trẻ đến trường, đến lớp, góp thêm cho lớp học một luồng không khí thân thiện, thỏai mái, sinh động, hăng say trong giờ học, rèn luyện kỷ năng sống cho học sinh. Các khẩu hiệu trong lớp mang ý nghĩa quan trọng, có tính giáo dục cao "mỗi ngày đến trường là một ngày vui", xây dựng nội quy lớp học, bảng ghi 5 điều Bác Hồ dạy. Vì thế giáo viên cần phải giải thích để các em hiểu được nội dung ý nghĩa của mỗi bảng, mỗi khẩu hiệu. Di ảnh Bác Hồ được treo nơi trang trọng nhất, dể thấy. Giáo dục lòng kính yêu nhớ ơn Bác Hồ, lòng yêu nước. Bảng trưng bày sản phẩm giúp các em có cơ hội thể hiện một số năng khiếu đặc biệt .
	Thường xuyên nhắc nhở học sinh giữ tài sản chung của nhà trường. Lớp học có đủ ánh sáng , quạt, lọ hoa, cây xanh, tạo không khí thật sự thoải mái, thân thiện gần gũi với thiên nhiên hơn. Bàn giáo viên có khăn trải bàn, lọ hoa, tủ đồ dùng phải sắp xếp gọn gàng khoa học. Lớp học có góc thư viện tạo điều kiện cho các em ham đọc sách, mở rộng vốn hiểu biết phát triển khả năng đọc cho các em. Rèn kỹ năng và trách nhiệm bảo quản tài sản chung, rèn luyện kỷ năng gọn gàng ngăn nắp.
 Giáo viên sử dụng lời nói, ánh mắt và cử chỉ thân thiện: Lời nói là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của thầy cô giáo với học sinh. Bởi vậy, giáo viên cần sử dụng lời nói sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Khi giao tiếp với học sinh, tôi luôn sử dụng ngôn ngữ sao cho các em dễ hiểu nhất, giàu hình ảnh và đạt giá trị biểu cảm cao. Lời nói nhẹ nhàng cùng với ánh mắt thân thiện sẽ tạo ra những xúc cảm tâm lí, giúp các em thoải mái và tự tin.
 Cần khen ngợi, đừng chê bai: Khen ngợi là việc làm không thể thiếu trong giáo dục, đặc biệt là giáo dục tiểu học. Khi học sinh làm được việc tốt là tôi phải khen ngợi ngay để khích lệ, động viên. Một lời khen có hiệu quả giáo dục gấp nhiều lần so với những lời chỉ trích, chê bai. Đặc biệt với học sinh cá biệt thì lời động viên, khen ngợi như là liều thuốc tinh thần giúp các em thay đổi hành vi theo chiều hướng tích cực, còn là động cơ thúc đẩy quá trình học tập và rèn luyện của các em, giúp học sinh mạnh dạn khi giao tiếp, tự tin, sẵn sàng chia sẻ với bạn và thầy cô giáo.
 Quan tâm và chia sẻ: Tôi giáo dục học sinh có thói quen biết quan tâm, chia sẻ, động viên, thăm hỏi lẫn nhau trong học tập cũng như trong cuộc sống. Trong lớp học có góc dán ngày sinh của các em để lớp tổ chức sinh nhật cho bạn của mình. Quà sinh nhật có thể là những lời chúc mừng hay những lời ca tiếng hát của các bạn trong lớp. Bên cạnh đó giáo viên chủ nhiệm có thể chuẩn bị một món quà nhỏ có thể là quyển vở, hộp màu,... để tặng các em trong ngày sinh nhật hoặc khi các em có sự tiến bộ vượt bậc.... Điều này giúp các em thấy được sự quan tâm của cô giáo và các bạn trong lớp. Từ đó, giúp các em tự tin hơn trong học tập, rèn luyện cũng như tham gia các hoạt động tập thể.
 GV là người rất gần gũi với học trò, vì vậy hãy cố gắng để các em luôn cởi mở với thầy cô. Giáo viên vừa là bạn vừa là thầy của các em. Giáo viên không cần phải che giấu tình cảm của mình với các em, nhưng cần tuyệt đối tránh sự ưu ái đặc biệt với một vài em nào đó. Thương yêu, công bằng, kiên trì và trung thực là nguyên tắc của tôi trong công tác chủ nhiệm. 
	 Xây dựng Đôi bạn cùng tiến: Trong lớp bao giờ cũng có nhiều đối tượng học sinh, ngoài những học sinh hoàn thành tốt các môn học còn có những học sinh chưa hoàn thành, tiếp thu chậm, để các em học sinh này không bị tự ti, mặc cảm và thụ động trong học tập. Tôi xây dựng các mô hình học tập như “ Đôi bạn cùng tiến” để học sinh học tốt kèm cặp học sinh còn chậm tiến. Qua nắm được sức học của từng em, tôi lưu ý nhiều đến những em thuộc đối tượng đặc biệt cần lưu ý. Tôi phân công từng đôi bạn cùng tiến giúp nhau trong mọi lĩnh vực như: Nhắc nhở bạn học bài, xem lại bài; trao đổi kinh nghiệm học tập; cách học bài dễ thuộc; cách vận dụng kiến thức đã học vào làm bài tập; hướng dẫn bạn làm bài tập hoặc củng cố kiến thức mà bạn chưa hiểu. Qua kiểm tra định kì học kì 1, nhóm bạn nào tiến bộ tôi thường trao một món quà để động viên các em có sự cố gắng. Đồng thời, qua đó khuyến khích nhóm bạn khác thi đua nhau.
	 Nhờ thế, tôi thấy tình cảm giữa thầy trò đã gắn bó nhau hơn và những học sinh hay nhút nhát, rụt rè nay không còn nữa mà trở nên mạnh dạn, tự tin hơn. Từ đó các em càng ham thích đến lớp để hòa nhập với bạn bè, các em biết hợp tác, chia sẻ kết quả học tập với bạn, việc học của các em ngày càng tiến bộ hơn.
 5. Thực hiện hoạt động ngoài giờ lên lớp có hiệu quả:
 Tôi động viên, nhắc nhở học sinh tham gia một cách tích cực các hoạt động ngoài giờ lên lớp như: thi văn nghệ nhân ngày 20/11; thi em viết, vẽ về mẹ và cô nhân ngày 20/10; Thi chúng em kể chuyện Bác Hồ, thăm mẹ liệt sĩ, gia đình có công, thăm bia tưởng niệm các liệt sĩ nhân dịp 22/12, chương trình Đàn gà khăn quàng đỏtrò chơi dân gian, tìm hiểu lễ hội quê em, em hát dân ca, vệ sinh trường lớp... Đây là cơ hội để học sinh phát triển năng lực giao tiếp, mạnh dạn, tự tin, tích cực hoạt động, giao lưu học hỏi bạn bè và rèn luyện phẩm chất yêu trường, yêu lớp, biết ơn thầy cô giáo, giữ gìn và bảo vệ môi trường, tự hào về quê hương mình
 Ngoài ra tôi còn chủ động lựa chọn các hình thức, nội dung phù hợp chủ điểm hoạt động của Liên đội hoặc đặc điểm của lớp để tổ chức các hoạt động cho các em tham gia sinh hoạt sao. Tổ chức có chất lượng tiết sinh hoạt tập thể, giao cho chủ tịch HĐTQ điều hành tiết sinh hoạt lớp, học sinh phát biểu dân chủ, mạnh dạn nhận khuyết điểm của mình và chỉ ra thiếu sót của bạn, bình bầu các bạn được khen trong học kì 1 vừa quaNhờ vậy rèn cho học sinh khả năng điều hành, tính tự tin, trung thực, tự trọng, tự chịu trách nhiệm
6. Làm tốt công tác nền nếp tự quản tốt:
 Học sinh tiểu học hiếu động, các em rất thích hoạt động, ham hiểu biết, muốn tập thể công nhận mình. Xây dựng nề nếp tự quản không những thoả mãn tâm lý này của các em mà còn tạo cho các em cơ hội để được trải nghiệm, chia sẻ và được nuôi dưỡng, rèn luyện, phát triển theo hướng tích cực.
 Đối với học sinh tiểu học việc tự quản là tương đối khó (đặc biệt là trong các hoạt động như truy bài đầu giờ, hoạt động giữa giờ) vì các em rất hiếu động. Nếu không có giáo viên chủ nhiệm thì nhiều hoạt động của các em sẽ khó đạt hiệu quả như ý muốn. Mặt khác, ở lớp các em có thói quen chỉ nghe lời thầy cô chủ nhiệm, có em hay lẫn tránh những hoạt động tập thể. Vì vậy dường như hoạt động trên lớp cũng cần giáo viên chủ nhiệm có mặt để chỉ đạo. Trong khi đó việc dạy học ở tiểu học bây giờ đã được chuyên biệt hoá, giáo viên chủ nhiệm không thể có mặt cả ngày trên lớp để nhắc nhở, chỉ đạo các em. Để giải quyết vấn đề này người giáo viên chủ nhiệm bắt buộc phải xây dựng thành công nề nếp tự quản của lớp và được nâng cao năng lực của mỗi cá nhân trong lớp. GVCN thành lập các ban và hướng dẫn các ban hoạt động có nền nếp, tăng cường hoạt động của ban tự quản, nhất là kĩ năng điều hành của em lớp trưởng.
7. Vận dụng mô hình trường học mới VNEN: 
	Thay đổi trong sắp xếp bàn ghế phù hợp dạy học theo nhóm tạo ra môi trường sư phạm thuận lợi cho việc dạy học của thầy và trò. Học sinh được bố trí ngồi theo nhóm (4 -5em) đã có được không gian thông thoáng dễ dàng cho việc đi lại giữa thầy và trò trong lớp học; giáo viên đến với các nhóm một cách thuận lợi để kiểm tra việc học của từng học sinh và giúp đỡ điều chỉnh việc làm của các em trong nhóm. Học sinh có cơ hội bộc lộ khả năng thực hiện nhiệm vụ học tập, tự làm việc theo sự phân công của nhóm, làm việc theo nhóm, hợp tác nhóm, báo cáo kết quả trong nhóm,...
	Trong mỗi phòng học còn có các góc học tập Tiếng việt, Toán,..góc thư viện, góc cộng đồng với các đồ dùng dạy học cho mỗi môn và các sản phẩm như bài văn, tranh vẽ, bài viết chữ đẹp, mẫu vật tự làm của học sinh, sản phẩm địa phương.
 Ở mỗi lớp, giáo viên tổ chức thành Hội đồng tự quản của học sinh đế góp phần thúc đẩy sự phát triển tình cảm, đạo đức cũng như một số kĩ năng sống phù hợp thông qua hoạt động thực tế tại xã hội thu nhỏ là lớp học và nhà trường. Giáo viên thực hiện một số công cụ để nâng cao hiệu quả của Hội đồng tự quản như học sinh tự giác tham gia vào các nhóm làm việc; cùng nhau xây dựng nội qui quy lớp học, vẽ sơ đồ cộng đồng của lớp, hộp thư điều muốn nói, hòm thư chia sẻ,... Những việc làm này góp phần tạo ra đức tính tự tin cũng như ý thức và kĩ năng hòa nhập xã hội rất tốt cho các em.
	Giáo viên chú trọng hoạt động học của học sinh, đến với từng em và nhóm học tập nhiều hơn làm việc chung cho cả lớp, giải đáp ý kiến và vướng mắc của học sinh thay vì thuyết giảng. Học sinh học làm quen theo nhóm là một đặc trưng trong đổi mới cách dạy và học; hầu hết các tiết học, học sinh đã có gần ba phần tư thời gian để làm việc nhóm, cặp và cá nhân một cách khá vui, sinh động và hiệu quả. Các em được thực sự cùng nhau trao đổi, tìm tòi khám phá kiến thức qua các hoạt động học tập để tìm ra lời giải hoặc để hiểu bài; chỗ nào chưa rõ thì hỏi cô giáo hoặc bạn trong nhóm để có thêm gợi ý giải thíchHọc sinh tiến bộ rõ về sự tự tin cũng như mạnh dạn hơn trong giao tiếp; các em có sự chia sẻ giúp đỡ nhau trong học tập, kĩ năng tự học và tự đánh giá được nâng lên; các đối tượng HS còn chậm có cơ hội phát biểu, để thắc mắc và hiểu được bài học. Tôi chú trọng việc “ Học mà chơi - chơi mà học”. Tham gia trò chơi giúp các em rèn luyện thể chất, sự khéo kéo, nhanh nhẹn, hoạt bát, tạo sự hòa đồng, thân thiện, đoàn kết,... Những phút vui chơi thỏa mái, lành mạnh sẽ giúp các em thêm hào hứng để học tập và sống hồn nhiên hơn. Hơn nữa, việc vui chơi lành mạnh còn tạo ra nhiều đức tính tốt đẹp, hạn chế những tật xấu, đồng thời rèn luyện thể chất và tâm hồn các em theo chiều hướng tốt hơn.
	Đổi mới tiết sinh hoạt lớp, hằng tuần các ban tự thảo luận, đánh giá hoạt động của ban mình trong tuần qua và cùng nhau thảo luận để xây dựng kế hoạch tuần tới.
 8. Thường xuyên trao đổi, chia sẻ với phụ huynh học sinh: 
 Thường xuyên liên hệ, trao đổi với phụ huynh cùng phối hợp với giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục các em, động viên giúp đỡ kịp thời từng học sinh nhất là đối với những học sinh chưa đạt để nâng cao chất lượng học tập, phát triển phẩm chất, năng lực. Trao đổi chia sẻ với phụ huynh giúp học sinh rèn luyện kĩ năng tự phục vụ: thực hiện được một số việc phục vụ cho sinh hoạt của bản thân như vệ sinh thân thể, ăn, mặc; một số việc phục vụ cho học tập như chuẩn bị đồ dùng học tập ở lớp, ở nhà; bố trí thời gian học tập, sinh hoạt ở nhà; cố gắng tự hoàn thành công việc;
 Tôi trao đổi với phụ huynh bằng nhiều hình thức như: có thể gặp trực tiếp hoặc trao đổi qua điện thoại mỗi khi có sự việc cần trao đổi ngay, đôi khi chỉ là những thăm hỏi việc học tập sinh hoạt của học sinh ở nhà để tìm nguyên nhân học sa sút hay cùng nhau phối hợp để giúp học sinh tiến bộ về phẩm chất và năng lực. Với những học sinh cần giúp đỡ để nhiều hơn như còn quá rụt rè, còn nói dối, không tự chịu trách nhiệm về những lỗi của mình, chưa tích cực tham gia các hoạt động giáo dục..tôi đến nhà các em trao đổi, chia sẻ với cha mẹ các em để cùng giúp đỡ, quan tâm giáo dục. 
 Thông qua các cuộc họp phụ huynh tôi lại có cơ hội được bày tỏ các biện pháp giúp đỡ học sinh theo hướng đánh giá mới. Trong cuộc họp phụ huynh cuối học kì I, tôi thông báo đánh giá quá trình học tập, rèn luyện và kết quả học tập của học sinh cho cha mẹ các em. Không thông báo trước lớp và trong cuộc họp những điểm chưa tốt của học sinh. Đồng thời tôi cũng lắng nghe để hiểu những tâm tư, nguyện vọng của họ cùng nhau bàn bạc thống nhất cách giáo dục con em mình cho phù hợp.
 9. Phối hợp giữa giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm để có biện pháp giáo dục học sinh:
Giáo viên bộ môn chịu trách nhiệm đánh giá quá trình học tập, rèn luyện và kết quả học tập của học sinh đối với môn học, hoạt động giáo dục theo quy định. Theo cách đánh giá học sinh theo thông tư 22 sửa đổi TT 30/2014/TT-BGD ĐT ngày 28/8/2014 về Qui định đánh giá học sinh tiểu học, giáo viên chủ nhiệm cũng đánh giá học sinh ở cả 3 nội dung nên rất thuận lợi trong việc giúp học sinh phát triển phẩm chất, năng lực; nắm được những hạn chế của học sinh và đã có các biện pháp giúp đỡ. Giáo viên chủ nhiệm phối hợp với giáo viên bộ môn, lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch bồi dưỡng, giúp đỡ học sinh học tập, rèn luyện đối với môn học, hoạt động giáo dục. Phối hợp với giáo viên bộ môn đánh giá quá trình học tập, rèn luyện và kết quả học tập của học sinh. VD: Em Thuận cần giúp đỡ về giao tiếp, hợp tác; em Hùng cần giáo dục phẩm chất tính trung thực, kỉ luật; em Trường còn chưa chăm học, chưa tích cực tham gia các hoạt động
   Giáo viên bộ môn cũng là người thầy, là người anh, người chị nắm đặc điểm tình hình mỗi em trong mỗi tiết học và ngoài giờ học để kịp thời trao đổi với giáo viên chủ nhiệm tìm các biện pháp giúp đỡ, giáo dục để các em hoàn thiện hơn.
 III. Kết quả đạt được: 
Qua thời gian thực hiện các giải pháp về phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc hình thành và phát triển toàn diện cho học sinh, thực tế đã cho thấy học sinh đều tự tin khi giao tiếp, trả lời các vấn đề, các em mạnh dạn và luôn được kích thích "cạnh tranh" trong việc phát biểu ý kiến. Học sinh chủ động học tập và thường xuyên rèn luyện phương pháp tự học, tự quản và được rèn luyện kỹ năng sống trong tập thể, kỹ năng giao tiếp, nhất là kỹ năng hợp tác, chia sẻ. 	
Kết quả đạt được cuối học kì 1 như sau: 
Tổng số học sinh: 30
* Về kiến thức - kĩ năng:
KT - KN
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
SL
%
Toán
10
33.3
18
60.0
2
6.7
Tiếng việt
14
46.7
16
53.3
0
0
TNXH
8
26.7
22
73.3
0
0
Đạo đức
8
26.7
22
73.3
0
0
Mĩ thuật
6
20.0
24
80.0
0
0
Âm nhạc
6
20.0
24
80.0
0
0
Thủ công
7
23.3
23
76.7
0
0
* Về năng lực:
Tổng số 30 em
Tốt
Đạt
Cần cố gắng
SL
%
SL
%
SL
%
Tự phụ vụ, tự quản
20
66.7
10
33.3
0
0
Hợp tác
20
66.7
10
33.3
0
0
Tự học, GQVĐ
18
60.0
12
40.0
0
0
* Về Phẩm chất:
Tổng số 22 em
Tốt
Đạt
Cần cố gắng
SL
%
SL
%
SL
%
Chăm học, chăm làm
20
66.7
10
33.3
0
0
Tự tin, trách nhiệm
17
56.7
13
43.3
0
0
Trung thực, kĩ luật
17
56.7
13
43.3
0
0
Đoàn kết, yêu thương
20
66.7
10
33.3
0
0
	So với đầu năm, sau khi vận dụng một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm nhằm giáo dục toàn diện cho học sinh lớp 3 đã có sự tiến bộ rõ về cả kiến thức - kĩ năng, năng lực và phẩm chất.
PHẦN III: KẾT LUẬN
 1. Ý nghĩa của sáng kiến:
	Sự nghiệp trồng người là một sự nghiệp cao cả mà không phải ai cũng làm được. Nó đòi hỏi người thực hiện phải có cái tâm yêu nghề, mến trẻ. Vì thế, người giáo viên mang trên vai một trách nhiệm rất lớn, làm một công việc không đơn giản chút nào. Muốn hoàn thành được nhiệm vụ này, người giáo viên phải luôn học hỏi, nâng cao tay nghề, luôn có sự đầu tư, sáng tạo trong suốt quá trình giảng dạy lâu dài. Nó đòi hỏi lòng nhiệt tâm, sự cần mẫn, kiên trì của mỗi giáo viên.Bởi vì giáo dục Tiểu học là nền tảng tạo cơ sở vững chắc để các em tiếp bước . Bên cạnh giúp hoàn thành kiến thức kĩ năng các môn học thì việc giúp các em phát triển năng lực và phẩm chất vô cùng cần thiết. Giáo dục học sinh có tài, có đức, năng động, sáng tạo, tự tin để đáp ứng với yêu cầu của xã hội là nhiệm vụ cao cả của mỗi chúng ta. Tạo ra những người tài của đất nước – kết quả của quá trình lao động vất vả mà chúng ta đã tốn bao tâm huyết, tiền của để thực hiện sẽ là phần thưởng to lớn của mỗi giáo viên và nó còn là nguồn động lực giúp chúng ta vượt qua khó khăn để hoàn thành sự nghiệp trồng người.Bằng lòng yêu nghề mến trẻ, bằng sự vị tha, bao dung, độ lượng, cái ”tâm” nghề nghiệp chắc chắn giáo viên chủ nhiệm sẽ thành công trong việc giúp học sinh phát triển phẩm chất và năng lực. Giáo viên chủ ngiệm có vai trò như là người cha, người mẹ thứ hai của các em, luôn gần gũi, quan tâm, chia sẻ với tất cả học sinh bởi mỗi em có một hoàn cảnh khác nhau. Để giúp học sinh hình thành và phát triển toàn diện giáo viên chủ nhiệm cần làm tốt các giải pháp sau:
	- Nắm chắc sơ yếu lý lịch của học sinh.
	- Hiểu rõ tâm sinh lý, tính cách của từng học sinh š có những biện pháp giáo dục cụ thể, thích hợp.
	- Luôn có sự đổi mới trong các hình thức rèn luyện, thi đua, giáo dục š tạo hứng thú, mới mẻ đối với học sinh.
 - Đổi mới PPDH, vận dụng mô hình VNEN.
 - Đánh giá thường xuyên học sinh theo TT 22.
 - Tổ chức có hiệu quả các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
 - Thường xuyên trao đổi, chia sẻ với phụ huynh học sinh. 
	- Thật sự xem mỗi học sinh là một đứa con của mình để từ đó giáo dục bằng tất cả tấm lòng, tình thương yêu và tinh thần trách nhiệm .
	Với những kinh nghiệm này, tôi thiết nghĩ nó có thể áp dụng với bất cứ giáo viên nào, đối tượng học sinh nào bởi nó không khó thực hiện mà chỉ cần có lòng say mê, sự quyết tâm của giáo viên thì chắc chắn chúng ta sẽ thành công.
	2. Những kiến nghị, đề xuất: 
	- Cần tổ chức nhiều hơn các hoạt động vui chơi, giải trí cho học sinh để các em có được sân chơi lành mạnh, bổ ích.
	- Cần tăng cường công tác giáo dục kỹ năng sống cho các em, để các em hiểu thêm về vai trò, trách nhiệm của lứa tuổi học đường.
	- Giáo viên chủ nhiệm lớp tăng cường công tác phối hợp với cha mẹ học sinh để kịp thời giáo dục những học sinh cá biệt có hiệu quả.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_con.doc
Sáng Kiến Liên Quan