Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao công tác chủ nhiệm ở cấp Tiểu học

Khó khăn

*Những khó khăn do khách quan:

 Nhận thức của một số phụ huynh còn hạn chế. Sự quan tâm giáo dục của gia đình đối với các em chưa đúng mức, phụ huynh còn quan niệm việc giảng dạy và giáo dục học sinh là do nhà trường đảm nhiệm. Việc này đồng nghĩa với việc khoán trắng trọng trách cho người giáo viên. Mặt khác cũng có gia đình quan tâm tới việc học của con em mình nhưng lại không nắm được nội dung giảng dạy cũng như phương pháp dạy dẫn tới hiệu quả không cao. Thậm chí có trường hợp phụ huynh dạy sai dẫn tới các em nhận thức lệch hướng của vấn đề. Chính những khó khăn này ảnh hưởng trực tiếp đến việc học của các em.

 Bên cạnh đó ngoài giờ học các em còn phải tiếp giúp gia đình như: cắt lúa, phơi lúa, giữ em để cha mẹ đi làm. Vì thế khi tới mùa vụ tỉ lệ nghỉ học của các em tương đối cao. Điều này làm cho việc học của các em bị hụt kiến thức dẫn đến mất căn bản.

 Mặt trái của sự bùng nổ về công nghệ thông tin đã mang đến những tiêu cực, các trò chơi ngày càng nhiều đặc biệt các trò choi trên mạng Internet .thu hút học sinh tham gia. Đời sống kinh tế phát triển dễ làm cho các em rơi vào lối sống thiên về vật chất, do đó càng khó khăn hơn trong việc giáo dục tư tưởng cho các em có lối sống hồn nhiên có lý tưởng.

* Khó khăn từ phía giáo viên và học sinh:

- Công tác quan hệ phối hợp với phụ huynh học sinh chưa được thường xuyên.

- Còn có nhiều học sinh gia đình có hoàn cảnh khó khăn, thuộc diện hộ nghèo.

- Nhà ở vùng thấp, lũ lụt hay bị ngập nước nên việc thực hiện nội quy trường, lớp vào mùa mưa gió của các em học sinh còn hạn chế.

- Một số học sinh do thiếu thốn tình cảm gia đình (như chỉ ở với mẹ hoặc bố, cha mẹ làm ăn xa) nên các em ít được quan tâm, giáo dục toàn diện như các bạn cùng trang lứa, có em còn có những biểu hiện mặc cảm tự ti, không dám hòa mình trong mọi hoạt động chung của lớp.

- Lứa tuổi các em rất hiếu động, suy nghĩ chưa sâu sắc nên đôi khi còn hay tranh cãi, đánh nhau gây ra những trường hợp không đáng có trong môi trường giáo dục. Một số học sinh chưa có động cơ tự học tập, thiếu hứng thú, chưa thấy lợi ích của việc học, chưa có thói quen và kỹ năng lao động trí óc.

- Việc triển khai thực Thông tư 22 của BGDĐT và tiếp cận các phương pháp dạy học hiện đại, mô hình dạy học VNEN mới bắt đầu, cả GV và phụ huynh đều bắt đầu làm quen nên còn nhiều lúng túng.

2. Nguyên nhân của những thực trạng nói trên:

 Hiện tượng trẻ em chưa linh hoạt khi phải xử lí những tình huống của cuộc sống thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu sáng kiến và dễ nản chí ngày càng nhiều. Nhiều vấn đề của xã hội hiện đại tác động đến trẻ chưa được cập nhật, bổ sung vào chương trình giáo dục nhà trường. Việc định hướng sai các giá trị là nguyên nhân gây ra những hiện tượng đáng tiếc trong ứng xử của trẻ. Phương pháp giáo dục nhồi nhét, lí thuyết suông, không tạo được cho trẻ khả năng tư duy, óc phân tích, suy xét, phán đoán, không tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm những vấn đề thực trong cuộc sống hiện đại Qua nhiều năm thực tế giảng dạy ở trường, bản thân tôi nhận thấy học sinh chưa tốt là do những nguyên nhân sau:

 Giáo viên và người lớn chưa thật gần gũi, thân thiện với học sinh.

 Rèn kĩ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi chưa thật sâu sát.

 Giáo viên khuyến khích động viên khen thưởng học sinh còn ít.

 Công tác tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiện giáo dục đạo đức cho các em chưa nhiều.

 Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các kĩ năng sống do sự hạn chế của giáo dục gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên nhân trực tiếp khiến học sinh gặp khó khăn trong xử với tình huống thực của cuộc sống.

 

doc14 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 930 | Lượt tải: 3Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao công tác chủ nhiệm ở cấp Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hu của các em khá cao. 
 Ngoài việc dạy kiến thức tôi luôn quan tâm đến việc ghi chép bài vở của học sinh, xem các em viết bài như thế nào. Em nào ghi chưa hợp lý và chưa khoa học, tôi đã hướng dẫn các em ghi chép đầy đủ và khoa học hơn. Hướng dẫn các em cách cầm sách khi đọc bài, cách trả lời các câu hỏi phải có đầu, đuôi. Luôn quan tâm giúp đỡ các em học yếu. Luôn nhắc nhở và quan sát tư thế ngồi học của các em, để kịp thời sửa chữa cho các em ngồi đúng tư thế. Khi giảng dạy tôi luôn dùng những kí hiệu trên bảng để điều khiển lớp, nhằm hạn chế sự làm việc riêng của học sinh, giáo viên khỏi phải nói nhiều và thói quen trong học tập. 
Trong giờ học, tôi luôn tạo không khí sinh động, sôi nổi, hài hòa, vui tươi không căng thẳng mà tạo niềm vui, sự phấn chấn để các em tự tin học tập, các em vừa học vừa chơi nhưng vẫn đảm bảo chương trình chung. Ví dụ trong giờ học toán tôi vận dụng các câu chuyện cổ tích, câu chuyện vui để đưa ra các bài toán liên quan đến chương trình toán mà các em đang học. Khi đọc các bài toán có trong câu chuyện các em cảm thấy thú vị hơn với vấn đề yêu cầu các em giải quyết, nó còn giúp học sinh nâng cao kĩ năng đọc. Từ sự hưng phấn đó khoảng cách giữa các em với cô giáo chủ nhiệm được gần hơn, các em thực sự mạnh dạn trong học tập. 
Trong các tiết học tôi luôn chú ý các em yếu hoặc tính trầm lặng ít phát biểu. Đối với các em ít nói, tôi thường gọi các em đứng dậy nhắc lại những câu trả lời của bạn hoặc đọc lại những câu ghi trên bảng để tạo cho các em thêm mạnh dạn và nói lưu loát hơn trước đám đồng. Còn các em yếu kém tôi luôn chú ý kèm cặp và dìu dắt kĩ hơn các em khác. Luôn động viên và khuyến khích các em dù có những việc làm nhỏ. Từ đó tôi thấy các em mạnh dạn hơn và kết quả nâng cao. 
* Quan tâm giáo dục học sinh cá biệt, HS có hoàn cảnh khó khăn: 
Ở lớp tôi chủ nhiệm có em Võ Thị Bích Thuận có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn: Bố bỏ đi từ lúc em chưa chào đời, mẹ bị bệnh tâm thần khá nặng, nhà quá nghèo. Gia đình chỉ có hai mẹ con sống với nhau, thần kinh của em không được bình thường như các bạn trong lớp. Vì vậy, việc chấp hành nội qui của lớp, của trường nhiều lúc chưa thật nghiêm túc; em còn đi học không thường xuyên và có nguy cơ bỏ học. Ngoài ra, một số học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn như em Phạm Thị Tú (bố mẹ đi làm ăn xa, em ở với ông bà ngoại); em Nguyễn Hoàng Anh (nhà nghèo, gia đình đông con), .
 	 Là giáo viên chủ nhiệm lớp, trước hết phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân dẫn đến hành vi của HS; gặp riêng HS cá biệt bằng tình cảm chân thành của mình. Khi các em mắc lỗi, giáo viên cần bình tĩnh, nhẹ nhàng, tế nhị, phân tích có lý, có tình mức độ nguy hại của khuyết điểm, thức tỉnh HS bằng những câu chuyện đạo đức để cảm phục các em.
 	 Tin tưởng giao công việc tập thể phù hợp với khả năng của HS cá biệt.  Đây là việc làm mang tính hai mặt, đòi hỏi GVCN lớp phải thường xuyên giám sát, kiểm tra và động viên kịp thời khi HS đạt được thành tích dù là nhỏ nhất.
 	Tổ chức hoạt động tập thể, hoạt động nhân đạo để tạo điều kiện cho HS cá biệt tham gia; xây dựng môi trường lành mạnh, tích cực, để các em có cơ hội tự thể hiện mình. Cho các em tham gia và thực hiện tốt các chuyên đề ngoại khoá, rèn luyện kỹ năng sống để các em tiến bộ.
 	Tổ chức cho tập thể lớp quan tâm tận tình giúp đỡ dưới mọi hình thức như: thăm hỏi, đôi bạn, nhóm bạn cùng tiến. Ngoài ra bản thân tôi còn kêu gọi các tổ chức trong và ngoài nhà trường ủng hộ, quyên góp về vật chất để giúp các em có điều kiện đến trường. GVCN lớp có thể lấy tấm gương tốt trong tập thể, hoặc của chính một HS cá biệt đã tiến bộ để cảm hoá HS cá biệt.
	 Kết hợp chặt chẽ với GV bộ môn vừa để hiểu hơn về HS vừa giúp các em có những cố gắng ở từng môn học. Đồng thời, kết hợp  chặt chẽ với hội CMHS, Đội TNTP để thống nhất biện pháp giáo dục HS cá biệt.
Thực tiễn giáo dục HS cá biệt là rất khó khăn và không phải HS cá biệt nào cũng giáo dục thành công. Công tác giáo dục HS cá biệt luôn là một thử thách rất lớn đối với mỗi GVCN lớp, song làm tốt được điều này bạn mới thực sự trở thành một nhà giáo dục theo đúng nghĩa.
6. Biện pháp 6: Tổ chức tốt các hoạt động tập thể và các trò chơi vui tươi lành mạnh.
 Thích sinh hoạt tập thể và tham gia các trò chơi bổ ích là nhu cầu, là sở thích của hầu hết các học sinh tiểu học. Vì vậy, khi tổ chức cho các em sinh hoạt tập thể và tham gia các trò chơi là giáo viên đã giúp các em “học mà chơi, chơi mà học”, kiến thức và kĩ năng ở mỗi em sẽ được hình thành và rèn luyện một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không gây căng thẳng, gò bó đối với các em. Ngoài ra, tổ chức sinh hoạt tập thể và vui chơi còn giúp các em phát triển và hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và tài năng sáng tạo. Ngoài ra, việc tổ chức các hoạt động tập thể còn là sợi dây gắn bó, kết nối, đoàn kết các em lại với nhau.
 Các hoạt động sinh hoạt tập thể và một số trò chơi đơn giản, gọn nhẹ, tôi có thể tổ chức ngay trong mỗi buổi học chính khóa và cả các buổi sinh hoạt ngoài giờ lên lớp.
 * Tổ chức sinh hoạt tập thể và vui chơi trong buổi học chính khóa
 Giữa 2 tiết học căng thẳng, tôi thường tổ chức cho các em múa hát tập thể, biểu diễn văn nghệ, hát dân ca, diễn hài,...
 Trong các tiết TNXH, Đạo đức, tôi tổ chức cho các em chơi các trò chơi như: làm phóng viên; sắm vai xử lí các tình huống phòng tránh bị xâm hại, từ chối các chất gây nghiện, bày tỏ thái độ đối với người bị nhiễm HIV/AIDS,...và đóng vai xử lí các tình huống trong môn Đạo đức. Thông qua các hoạt động này, các em còn được hình thành và rèn luyện nhiều kĩ năng sống cần thiết.
 Tôi phân công vai diễn, múa hát hoặc giao việc phù hợp với khả năng của từng em, khuyến khích động viên các em tự tin bộc lộ năng khiếu của mình. Nhờ vậy, các tiết học chính khóa trở nên sôi nổi, các em rất hào hứng tham gia. Thông qua các hoạt động vui chơi, các em được “làm”, “được trải nghiệm” như trong cuộc sống thực, điều đó sẽ giúp các em lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống một cách nhẹ nhàng, nhưng lại hiệu quả.
 * Tổ chức các họat động sinh hoạt tập thể và vui chơi thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp
 Ở Tiểu học, giáo dục ngoài giờ lên lớp được qui định trong chương trình chính khóa, không bắt buộc giáo viên chủ nhiệm phải lên tiết ngoài giờ lên lớp. Nhưng nếu các hoạt động này chỉ diễn ra ở các tiết học chính khóa trên lớp thì sẽ mất rất nhiều thời gian, nếu như giáo viên vận dụng và tổ chức không khéo léo thì sẽ làm ảnh hưởng đến tiến trình giờ học. Do vậy, đối với những hoạt động chiếm nhiều thời gian, cần nhiều sức lực, tôi tổ chức cho học sinh tham gia trái buổi, mỗi tuần 1 buổi. 
 - Tổ chức cho học sinh ôn luyện kiến thức bằng các trò chơi như: Rung chuông vàng, Hái hoa dân chủ, Thi tìm hiểu về An toàn giao thông,... Nội dung thi được tôi soạn bằng chương trình PowerPoint nên gây được sự thích thú, hào hứng cho học sinh mỗi lần tham gia.
 - Tổ chức các buổi họp lớp, làm đồ dùng học tập và làm báo tường, vẽ tranh chào mừng các ngày lễ lớn.
 - Tổ chức cho học sinh xem phim tài liệu kỉ niệm các sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước như: Kỉ niệm ngày thành lập Đảng, Cách mạng tháng Tám, Kỉ niệm ngày Quốc khánh, ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày giải phóng miền Nam,...Những đoạn phim tài liệu này, tôi lấy trên mạng Internet rồi kết nối với máy chiếu, chiếu lên cho học sinh xem. 
 - Hướng dẫn các em làm bình hoa, cắt gấp hoa để trang trí góc học tập và làm một số đồ chơi đơn giản để trưng bày hoặc để tặng người thân bạn bè. Dựa trên hướng dẫn ở báo Chăm học, tôi tập chung cả lớp lại và hướng dẫn các em làm việc theo nhóm. Các em cùng làm, cùng góp, giúp đỡ nhau làm việc.
 Nhờ thường xuyên tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể và các trò chơi cho cả lớp nên các em trở nên rất tự tin, rất năng động sáng tạo. Và điều quan trọng là tôi đã thực sự xây dựng được một môi trường học tập thân thiện, học sinh tích cực. Sĩ số của lớp tôi luôn đảm bảo, chất lượng học tập của học sinh ngày càng nâng cao.
* Tổ chức tốt giờ sinh hoạt lớp cuối tuần: 
Là giáo viên chủ nhiệm lớp thì giờ sinh hoạt cuối tuần là thời gian quan trọng nhất, bởi tiết này không đơn thuần chỉ dừng lại ở việc nhận xét ưu, khuyết điểm của lớp trưởng về hoạt động của lớp tuần qua mà trong giờ sinh hoạt cuối tuần nhằm để học sinh nhận thấy được các khuyết điểm của chính bản thân mình, dù nhỏ hay lớn đều phải tự hứa trước lớp sẽ có biện pháp khắc phục trong tuần tới. Đặc biệt trong giờ sinh hoạt này, tôi lấy các tấm gương điển hình về học tập, giúp đỡ bạn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao để tuyên dương, khen ngợi phần này được nhấn mạnh hơn, phần tồn tại chỉ nhắc nhở không quá khắt khe có như vậy các em mới tự giác thực hiện tốt.
Ngoài những biện pháp nói trên, tôi còn thường xuyên quan tâm đến việc phối hợp tốt với các GV bộ môn, với Liên đội, với BGH nhà trường, với Phụ huynh học sinh, Nhờ vậy mà việc giáo dục học sinh của lớp có nhiều hiệu quả hơn. Đặc biệt bản thân tôi luôn làm gương trong mọi mặt để cho các em noi theo. Bởi vì tôi luôn nghĩ, giáo viên chủ nhiệm như người mẹ hiền thứ hai chăm sóc đàn con của mình, mỗi việc làm lời nói của người giáo viên chủ nhiệm ảnh hưởng rất lớn trong việc hình thành nhân cách học sinh. 
Trong những năm làm công tác chủ nhiệm, tôi nhận thấy rằng: Người giáo viên chủ nhiệm nào chăm lo tới lớp của mình và có năng lực tổ chức quản lý lớp thì lớp đó bao giờ cũng ngoan hơn, nề  nếp hơn. Đúng là “Mẹ nào con đó, tướng nào quân ấy”. Người giáo viên nào đứng lớp cũng cần chữ “ UY”. Nhưng chữ “UY” của giáo viên chủ nhiệm đối với học sinh thì cần hơn. Chữ “UY” ở đây là uy tín, là lòng kính trọng tin yêu, là lòng khâm phục  lòng ngưỡng mộ của trò đối với thầy... Thầy có chữ “UY’’ thì thầy bảo, thầy nói, thầy dạy trò mới vâng theo. Theo tôi, chữ “UY” được hình thành từ cái nhỏ nhất. Đó là lời nói, việc làm, hành động; là trang phục, tư thế tác phong, cách thức cư xử ... và sự hấp dẫn trong từng tiết học của thầy của giáo viên chủ nhiệm. Bên cạnh chữ “UY” thì phải nói tới chữ “TÂM” của giáo viên chủ nhiệm. Chữ “TÂM” được hiểu ở đây là lòng thương yêu trẻ đích thực, là lòng tâm huyết với công việc của mình. Người giáo viên chủ nhiệm cần phải quản lý lớp, giáo dục học sinh bằng tình yêu thương. Kinh nghiệm của bản thân tôi: Học sinh yêu quí thầy cô nào thì thích học thích vâng nghe theo lời thầy cô ấy.
 Tóm lại, người giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học có một vị trí đặc biệt quan trọng. Lao động của một giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là lao động sáng tạo không ngừng; Sự sáng tạo đó đòi hỏi phải toàn diện: sáng tạo trong soạn giảng, trong tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi, trong sinh hoạt tập thể và đặc biệt là trong các biện pháp giáo dục đạo đức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Vì vậy chỉ có những giáo viên thực sự tâm huyết với nghề, thực sự thương yêu học sinh của mình thì mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân luôn cố gắng làm tốt công tác chủ nhiệm, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong mọi trường hợp. 
 Việc nâng cao công tác chủ nhiệm cho giáo viên Tiểu học là điều hết sức cần. Để đạt được điều đó, giáo viên cần kiên trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên tục trong suốt quá trình giảng dạy. 
III. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG:
 Qua việc thực hiện các biện pháp trên, kể từ năm học 2017-2018 đến giữa học kì I này, bản thân tôi thật sự vui mừng vì các em có nhiều tiến bộ rõ rệt. Các em đều có ý thức kỉ luật, tinh thần tự giác và có tinh thần tự học. Giờ truy bài thực sự hữu ích với các em vì đó chính là giờ tự học, tự kiểm tra rất có kết quả. Các em mạnh dạn trình bày ý kiến và mong muốn của mình trước tập thể. Hội đồng tự quản làm việc có bài bản, thực sự năng động hơn. Việc sinh hoạt hằng ngày trên lớp, trong nhiều nghi thức lời nói, các em biết vận dụng những lời nói thân thiện vào thực tế, những lời chào, cảm ơn hay xin lỗi, những yêu cầu, đề nghị lịch sự,... đã trở thành thói quen được các em vận dụng hằng ngày. Các em rất hăng hái phát biểu trong tiết học. Phụ huynh học sinh rất vui mừng phấn khởi trước sự tiến bộ trưởng thành của con em mình, với những kết quả tốt đẹp của tập thể lớp 3C.
 Kinh nghiệm trên đã áp dụng rộng rãi ở tất cả các lớp trong khối 3 nói riêng và học sinh toàn trường nói chung, được các đồng nghiệp đồng tình ủng hộ. Học sinh trong khối ngoan hơn, tự giác chủ động, mạnh dạn hơn, đã thể hiện được cách xử lí trong ứng xử khá phù hợp. Toàn khối trong năm qua không có em nào bị kỉ luật và tỉ lệ lên lớp đạt chỉ tiêu.
 Nhìn lại kết quả trên cho thấy, học sinh trong lớp chủ nhiệm về năng lực và phẩm chất đều đạt. Về kiến thức kĩ năng các em đều hoàn thành và hoàn thành thành tốt.
Như vậy, với hiệu quả đạt được như trên đã phần nào phản ánh được tác dụng sáng kiến này, nó được áp dụng có hiệu quả trong lớp cũng như trong khối. Các giáo viên trong trường cũng đã áp dụng sáng kiến này trong công tác chủ nhiệm của mình, học sinh đa số đều có kĩ năng sống tốt hơn: thích ứng được với môi trường xã hội, tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như vấn đề về sức khỏe, môi trường, tệ nạn xã hội,các em có thể tự tin, chủ động không bị quá phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi ích chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học tập phấn đấu vươn lên đáp ứng được phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.”
  Với việc áp dụng những biện pháp nói trên, kết quả lớp 2017 - 2018 đạt được cụ thể sau:
* Năm học 2017-2018: 
+Kiến thức, kỹ năng :100% học sinh hoàn thành
+Năng lực: 
 -Tự phục vụ, tự quản: 100% học sinh xếp loại Tốt.
 - Hợp tác: 100% học sinh xếp loại Tốt.
 - Tự tin, giải quyết vấn đề: 87,5% học sinh xếp loại Tốt. 12,5 % học sinh xếp loại Đạt.
+Phẩm chất: 
 - Chăm học, chăm làm: 100% học sinh xếp loại Tốt.
 - Tự tin, trách nhiệm: 100% học sinh xếp loại Tốt.
 - Trung thực, kĩ luật: 100% học sinh xếp loại Tốt.
 - Đoàn kết, yêu thương: 100% học sinh xếp loại Tốt.
+ Có 19/24 em được khen thưởng cuối năm đạt tỉ lệ: 79,2%
 - Học sinh hoàn thành xuất sắc các nội dung học tập và rèn luyện: 8 em 
- Học sinh có thành tích vượt trội hay tiến bộ vượt bậc về ít nhất một môn học hoặc ít nhất một năng lực, phẩm chất : 11 em.
* Kết quả các hội thi của lớp 5A:
 Tổng số: 30 giải từ cấp trường trở lên ( Trong đó: Cấp trường 24 giải ; Cấp huyện 3 giải ; Cấp tỉnh 3 giải ) cụ thể như sau:
a) Cấp trường:
Đạt 01 giải Nhất OTE tiếng Anh .
Đạt 01 giải Nhì OTE tiếng Anh .
Đạt 01 giải Ba Em hát dân ca và Hò khoan Lệ Thủy.
Đạt 01 giải Ba Hội thi Kể chuyện theo sách
Đạt 01 giải Ba Hội thi Nghi thức đội.
Đạt 01 giải nhất Nội dung Gian hàng – Ngày hội học sinh Tiểu học
Đạt 01 giải nhất Nội dung kéo co – Ngày hội học sinh Tiểu học
Đạt 01 giải nhất Nội dung Đổ nước vào chai – Ngày hội học sinh Tiểu học
Đạt 01 giải nhất Nội dung Nhảy bao bố – Ngày hội học sinh Tiểu học
Đạt 01 giải nhất chạy 60m nam
 Đạt 01 giải Ba chạy 60 m nam
 Đạt 01 giải Nhì chạy 60 m nữ
 Đạt 01 giải Nhất bật xa nam
Đạt 01 giải Nhất bật xa nữ
 Đạt 01 giải Nhất cờ vua nữ
 Đạt 01 giải Ba cờ vua nam
 Đạt 01 giải Nhất đá cầu đơn nam 
 Đạt 01 giải Nhất đá cầu đơn nữ 
 Đạt 01 giải Nhất đá cầu đôi nam 
 Đạt 01 giải Nhất đá cầu đôi nữ 
 Đạt 01 giải Nhất đá cầu đôi nữ 
 Đạt 01 giải Nhất đá cầu đôi nữ 
 Đạt 01 giải Nhất đá cầu đôi nam nữ 
 Đạt 01 giải Nhất đá cầu đôi nam nữ 
b) Cấp huyện:
Đạt 01 giải Nhì OTE tiếng Anh .
Đạt 01 giải Nhì nội dung chạy 60 nam.
Đạt 01 giải Ba nội dung đá cầu đôi nữ.
 c) Cấp tỉnh
 Đạt 01 giải Ba OTE tiếng Anh
 Đạt 01 giải Nhì Hội thi Trạng nguyên Tiếng Việt.
 Đạt 01 giải Khuyến khích Hội thi Trạng nguyên Tiếng Việt
* Học giữa học kì 1 - Năm học 2018-2019 (Lớp 5A): 
a/ Kết quả giáo dục: 
Môn học, HĐGD
Tổng số học sinh
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
Tiếng Việt
26
11
42.3
15
57.7
0
0.0
Toán
26
15
57.7
9
34.6
2
7.7
Đạo đức
26
14
53.8
12
46.2
0
0.0
Khoa học
26
11
42.3
15
57.7
0
0.0
Lịch sử và Địa lí
26
11
42.3
15
57.7
0
0.0
Âm nhạc
26
8
30.8
18
69.2
0
0.0
Mĩ thuật
26
9
34.6
17
65.4
0
0.0
Thủ công (Kĩ thuật)
26
11
42.3
15
57.7
0
0.0
Thể dục
26
9
34.6
17
65.4
0
0.0
Tiếng Anh
26
8
30.8
18
69.2
0
0.0
Tin học
26
10
38.5
16
61.5
0
0.0
Năng lực
26
Đạt tốt
Đạt
Cần cố gắng
Tự phục vụ, tự quản
26
25
96.2
1
3.8
0
0.0
Hợp tác
26
15
57.7
11
42.3
0
0.0
Tự học và GQVĐ
26
15
57.7
11
42.3
0
0.0
Phẩm chất
26
Chăm học, chăm làm
26
17
65.4
9
34.6
0
0.0
Tự tin, trách nhiệm
26
17
65.4
9
34.6
0
0.0
Trung thực, kỉ luật
26
26
100.0
0
0.0
0
0.0
Đoàn kết, yêu thương
26
26
100.0
0
0.0
0
0.0
b/ Kết quả các phong trào thi đua và mũi nhọn: 
- Tham gia đầy đủ các hội thi cấp trường, đạt giải cao. Cụ thể:
 + Hội thi Tiếng Anh OTE cấp trường : 02 giải Nhất ; 01 giải Nhì
 + Hội thi Kể chuyện theo sách: đạt giải Ba.
C. PHẦN KẾT LUẬN
I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI:
Công tác chủ nhiệm lớp quả thật nặng nề và phức tạp. Người giáo viên phải vừa như người mẹ dịu dàng, người thầy nghiêm khắc, người bạn gần gũi, trọng tài phân minh Thành công của giáo viên là làm cho học sinh tôn trọng, kính yêu, tin tưởng, là xây dựng được một tập thể lớp đoàn kết, gắn bó. Muốn đạt được điều đó, GVCN phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây:
Thầy cô phải luôn là điểm sáng, là thần tượng của các em. Các em dễ tin, dễ nghe theo lời dạy bảo của thầy cô. 
Nắm chắc được những thuận lợi, khó khăn, hiểu rõ thực tế trường lớp mình, khéo léo tìm cách bỏ đi mọi rào cản trong mối quan hệ với phụ huynh, đề ra những biện pháp hữu hiệu, tiếp cận gần với các em nhất, tôi nghĩ rằng bất cứ giáo viên nào cũng sẽ sớm trở thành những người bạn của trẻ. 
Luôn gần gũi, bên cạnh, quan tâm tới hoàn cảnh sống của học sinh, nhất là học sinh có hoàn cảnh đặc biệt. 
Bên cạnh đó, liên hệ chặt chẽ với phụ huynh, ban đại diện cha mẹ học sinh của trường, của lớp, vận động cha mẹ học sinh có những hành động thiết thực hỗ trợ học tập sẽ giúp cho hoạt động của lớp có hiệu quả hơn. 
Phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ lớp làm nòng cốt, là “cánh tay phải” của mình. Muốn vậy cần phải có một sự chọn lựa dựa trên cơ sở định hướng của giáo viên và khả năng tín nhiệm của học sinh. Để giúp cho các em hoạt động có hiệu quả, tích cực, chính xác, người giáo viên cần xây dựng kế hoạch chủ nhiệm sát hợp với tình hình của lớp, thiết kế hệ thống sổ sách theo dõi phù hợp và thường xuyên kiểm tra, đánh giá để có cách điều chỉnh thích hợp. 
Ngoài ra, sự liên hệ chặt chẽ thường xuyên với các GVCN khác, với các giáo viên bộ môn cũng góp phần quan trọng cho GVCN trong thực hiện công tác của mình.
Sống, học tập, lao động là những vấn đề thiết yếu mà bản thân luôn cố gắng để ươm mầm cho thế hệ trẻ. Bởi trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, là nhân tố để cây đời mãi mãi xanh tươi. Việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, bồi dưỡng trẻ em trở thành công dân tốt của đất nước là một công việc vô cùng quan trọng mà mỗi giáo viên chúng ta phải cùng có trách nhiệm.
II. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
* Đối với nhà trường: 
- Thường xuyên tổ chức hội thảo chuyên đề về công tác chủ nhiệm lớp nhằm không ngừng nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên nói chung, GVCN nói riêng giúp cho đội ngũ làm tốt hơn nữa công tác chủ nhiệm lớp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường
- Hằng năm tổ chức bình bầu danh hiệu GVCN lớp giỏi cấp trường một cách công bằng, chính xác để tạo sự phấn đấu thi đua trong mỗi giáo viên. Động viên khen thưởng kịp thời cho những GVCN làm tốt công tác của mình, khen thưởng lớp đạt thành tích cao trong học tập và rèn luyện.
 Trên đây là một số biện pháp mà bản thân tôi đã thực hiện trong công tác chủ nhiệm lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục học sinh lớp 5. Kính mong nhận được những ý kiến đóng góp của hội đồng khoa học các cấp để sáng kiến được đưa vào thực hiện có hiệu quả cao.
 Tôi xin chân thành cảm ơn !

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_cong_tac_chu.doc
Sáng Kiến Liên Quan