Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 thực hiện bốn phép tính cơ bản với số tự nhiên
Như chúng ta đã biết, trong chương trình Tiểu học cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong các môn học. Mục tiêu của việc dạy - học môn Toán ở Tiểu học hiện nay không chỉ hướng dẫn cho học sinh phát hiện và nắm vững kiến thức, quy tắc, công thức toán học hay rèn luyện kỹ năng tính toán, tìm ra kết quả cho những bài toán có sẵn mà quan trọng hơn là phải làm sao trang bị cho học sinh phương pháp tự hoạt động, tự phát hiện và tự chiếm lĩnh kiến thức; tạo cho các em khả năng tự học, khả năng khái quát hóa vừa sức, khả năng nắm vững kiến thức lý thuyết trừu tượng. Từ đó, hình thành cho các em khả năng đưa ra được các bước giải quyết các bài toán cũng như các tình huống đa dạng nảy sinh trong học tập và trong đời sống. Trong quá trình dạy học của bản thân tôi nhận thấy đa số học sinh đã biết đặt tính và tính thành thạo các phép tính cơ bản với số tự nhiên. Song bên cạnh đó cũng có những em khả năng tính toán còn chậm, nhầm lẫn khi thực hiện tính các phép tính cơ bản dẫn đến kết quả sai. Một số em tỏ ra không thích khi học toán vì thế việc truyền đạt kiến thức cho các em trong những tiết toán đã trở nên khó khăn. Học sinh chưa nắm được các bước thực hiện phép tính: thường là những em không tập trung, uể oải và ít khi làm bài tập đầy đủ.
ích cực trong học tập, giờ học sẽ trở nên sinh động và đạt kết quả cao. Khi tổ chức trò chơi giáo viên căn cứ vào nội dung kiến thức bài dạy, trình độ học sinh của lớp và điều kiện hiện có. Trò chơi được thể hiện như một hình thức thi đua, giúp các em đoàn kết hơn, mạnh dạn và tự tin hơn. Từ đó không khí lớp học trở nên sôi nổi, kích thích học sinh tính nhẩm nhanh và chính xác để trả lời bạn. Ví dụ: Khi dạy bài: “Nhân với số có ba chữ số” giáo viên có bài tập nhận diện như sau: Đúng viết Đ sai viết S vào ô trống. Với dạng bài tập như vậy, tôi tổ chức cho các em thi: “Ai nhanh ai đúng” xxx 456 203 1368 912 2280 xxx 456 203 1368 912 10488 xxx 456 203 1368 912 92568 Mục đích của trò chơi này là giúp học sinh củng cố và nắm vững cách nhân với số có ba chữ số, trong đó tích riêng thứ hai gồm toàn chữ số 0. Khi nhân ta không viết tích riêng này mà viết gọn lại như cách nhân ở phép tính thứ ba. Trong trường hợp này điều quan trọng nhất học sinh phải biết là khi đã không viết tích riêng thứ hai thì viết tích riêng thứ ba ( 912) lùi sang bên trái hai cột so với tích riêng thứ nhất. Kết thúc trò chơi, giáo viên cho các em tự nhận xét, đánh giá lẫn nhau sau đó giáo viên khen ngợi, động viên kịp thời các em. Không chê và phân tích tỉ mỉ những chỗ sai, chỗ yếu của từng em để các em biết cách khắc phục và tự tin hơn trong học tập. 3. Phụ đạo những kiến thức bị hổng cho học sinh Với những học sinh bị hổng kiến thức về bảng cộng, trừ; bảng cửu chương tôi cho học sinh ôn lại các bảng: Bảng nhân, bảng chia, cách cộng, trừ. Kiểm tra bảng cộng, trừ; bảng cửu chương hàng ngày. Có thể mỗi ngày thuộc một bảng (đọc - viết ra giấy). Thực hành rèn kĩ năng cộng, trừ, nhân, chia thường xuyên. Cho học sinh làm các phép tính từ đơn giản đến phức tạp. Rèn cho học sinh kĩ năng tính nhẩm. - Với mỗi phép tính yêu cầu các em cần phải học thuộc các bảng tính. Khi học đến dạng bài nào ở mỗi tiết tự học giáo viên cho các em ôn tập thông qua một số hình thức như: thi đua giữa hai bạn ngồi cùng bàn; gọi các em lên bảng đọc; hỏi bất kì phép tính nào trong bảng; yêu cầu học sinh kiểm tra bài nhau hoặc đố nhau các phép tính... Những hoạt động này giúp các em nhớ lại kiến thức cũ. Hơn nữa việc làm này đã giúp các em thay đổi không khí lớp học, kích thích học sinh tính nhẩm nhanh và chính xác để trả lời bạn. Những học sinh trả lời sai nhiều lần đã cố gắng về nhà học lại bảng cộng, trừ, nhân, chia cho thuộc để hôm sau sẽ trả lời đúng cho bạn. Trong khi đó học sinh có lực học khá hơn sẽ theo dõi và giúp đỡ học sinh yếu. 4. Hướng dẫn học sinh kĩ năng tính + Kĩ năng cộng, trừ các số có nhiều chữ số Bước 1: Đặt tính đúng ( các hàng phải thẳng cột với nhau) Bước 2: Thực hành tính từ phải sang trái, lần lượt từ trên xuống dưới. Bước 3: Thử lại để kiểm tra kết quả *Đối với phép cộng: Ví dụ: Khi cộng 24679 với 6541 có em đặt phép tính như sau: +xx 24679 6541 mà không phải là 90089 +xx 24679 6541 20210 Trong trường hợp này việc đặt tính của các em chưa thẳng hàng, thẳng cột nên khi cộng các em thường cộng sai. Qua quan sát học sinh làm bài, tôi phát hiện ra khi làm các dạng bài về phép tính cộng có nhớ thì các em thường quên nhớ dẫn đến kết quả sai. Vì vậy khi dạy phép cộng, biện pháp đầu tiên là giúp học sinh nắm vững kiến thức về số tự nhiên, về hàng, về giá trị của các chữ số từ đó giúp các em nắm vững cách đặt phép tính đúng, thẳng hàng. Tôi luôn lưu ý học sinh khi cộng phải cộng từ phải sang trái cộng từ hàng đơn vị rồi mới đến các hàng tiếp theo. Đối với những học sinh hay quên nhớ giáo viên đã lưu ý các em mỗi lần cộng có nhớ các em cần đánh số lần nhớ hoặc dùng dấu chấm để đánh dấu vào bên trái số mình đang cộng. Biện pháp này giúp các em khi cộng sẽ không quên nhớ vào hàng liền kề. Những học sinh chưa thuộc bảng cộng sau khi làm bài xong yêu cầu các em thử lại để xem kết quả thực hiện của mình đã đúng chưa, từ đó giúp các em thấy được chỗ mình sai và tác hại của việc không thuộc bảng cộng. Qua đó, chính các em này tự giác học thuộc bảng cộng để khi lên làm bài không bị sai. Những em đặt tính chưa đúng yêu cầu học sinh nhận xét cách đặt tính của bạn, chỉ ra chỗ được, chỗ chưa được của bạn để sửa. Từ những việc làm đó tôi thấy học sinh làm bài ít nhầm lẫn hơn và các em cũng tự tin làm bài hơn. *Đối với phép trừ: Việc dạy phép tính trừ là ngược lại của phép tính cộng. Để làm đúng kết quả đầu tiên học sinh cũng phải học thuộc bảng trừ, cách đặt tính, cách thực hiện tính. Kĩ năng thực hiện phép trừ cũng giống như thực hiện phép cộng, vì vậy khi dạy ở những dạng bài này giáo viên cũng hướng dẫn tương tự như khi dạy các bài về phép tính cộng. Thường xuyên kiểm tra bảng trừ của học sinh. Ví dụ trong tiết dạy giáo viên có thể bất chợt hỏi một vài học sinh trong lớp về kết quả của một số phép tính trừ, chẳng hạn như: 12 - 7 = ?; 15 - 9 = ? ; 13 - 8 = ? . hoặc tổ chức các trò chơi để ôn lại bảng trừ và cách thực hiện. *Đối với phép nhân: Dạy phép nhân ở lớp 4 là bước kế tiếp của dạy phép nhân ở lớp 3. Ở lớp 3, các em đã được làm quen với việc nhân số có hai, ba, bốn chữ số với số có một chữ số nên về kĩ thuật nhân đa số các em đã nắm được. Tức là các em đã biết nhân theo thứ tự từ phải sang trái. Sang lớp 4 các em không chỉ thực hiện nhân số có nhiều chữ số với số có một chữ số mà các em còn phải thực hiện nhân số có nhiều chữ số với số có hai, ba chữ số. Chính vì nhân với số có hai, ba chữ số nên khi thực hiện nhân các em còn mắc nhiều lỗi như: Đặt các tích riêng thẳng hàng với nhau như khi thực hiện phép cộng, cũng có những học sinh khi viết các tích riêng lùi sang trái không đúng hàng. Quá trình nhân có nhớ lại không nhớ hoặc nhớ lộn xộn. Để khắc phục các lỗi sai đã nêu ở trên là khi dạy đến các dạng bài tập này giáo viên thao tác chậm để học sinh nắm bắt được cách nhân, cho các em làm các bài tập thực hành vận dụng. Các trường hợp nhân thì có nhiều nhưng xin được đưa ra một số trường hợp sau cần làm chậm để các em nắm rõ. Trường hợp nhân với số có hai chữ số. Dạng phép tính này là tương đối mới so với học sinh. Về cách thực hiện dạy lí thuyết tôi hoàn toàn thống nhất như cách dạy trong sách giáo khoa, sách hướng dẫn nhưng ở phần thực hành nhân giáo viên làm rõ cho học sinh thấy được đây là phép nhân số có mấy chữ số với số có mấy chữ số. Sở dĩ tôi nói điều này bởi vì để các em nhớ số lần nhân và cách đặt các tích riêng. Ví dụ khi nhân 3456 với 45 là phép nhân giữa số có bốn chữ số với số có hai chữ số nên mỗi lần nhân một số ta có bốn lần nhân số đó. x 3456 45 17280 13824 155520 Như vậy khi nhân số 5 ta có bốn lần nhân, số 4 có bốn lần nhân. Làm như thế học sinh sẽ không bỏ sót số trong khi nhân. Về cách đặt thì giáo viên cũng lưu ý học sinh: vì số 5 ở hàng đơn vị nên khi nhân 5 với 6 ta phải viết 0 vào dưới chữ số 5 thẳng hàng đơn vị và nhớ ba vào hàng liền kề bên trái, làm như vậy cho đến khi đã nhân lần lượt hết bốn chữ số ở trên. Khi nhân đến số 4 ở hàng chục giáo viên cần hỏi lại học sinh số 4 nằm ở hàng nào? để học sinh nắm cách viết tích riêng thứ hai. Giải thích cho học sinh vì số 4 ở hàng chục nên khi thực hiện phép nhân ta ghi kết quả phép nhân lùi sang bên trái một chữ số so với tích riêng thứ nhất. Đối với phép tính có nhớ yêu cầu học sinh nhớ thầm trong đầu hoặc để không quên thì chấm ngay số lần nhớ vào hàng kế tiếp hoặc ghi số ra bên ngoài. Khi thực hiện phép nhân gọi các em còn lúng túng lên để thực hiện. Khi chữa bài yêu cầu các em khác nhận xét, bản thân các em thực hiện nêu lại cách nhân. Trường hợp dạy phép nhân với số có ba chữ số cũng thực hiện tương tự. Giáo viên cũng hướng dẫn kĩ để các em nắm cách nhân và thực hiện một cách thành thạo. Trong phần này chỉ lưu ý một điều ở phần nhân số có ba chữ số mà tích riêng thứ hai toàn chữ số 0 giáo viên hướng dẫn học sinh cách viết gọn lại sao cho hợp lí và phải giải thích cho học sinh về cách viết. Để kích thích các em làm đúng nhanh các bài tập, vào các tiết thực hành toán tôi thường cho học sinh làm các phép tính vào bảng con, các em tự kiểm tra kết quả cho nhau, giáo viên quan sát và giúp đỡ cho những em còn lúng túng, khen ngợi những em tính nhanh và đúng.Với việc làm này tôi thấy học sinh thường rất thích và hiệu quả thường cao, hầu hết học sinh trong lớp đều thực hiện tốt các bài tập theo yêu cầu của giáo viên. *Đối với phép chia: - Học sinh phải nắm thật chắc cách cộng, trừ, nhân các số có nhiều chữ số. - Học sinh có khả năng cộng, trừ, nhân nhẩm và biết ước lượng thương. - Đặc biệt, các em còn hạn chế nhiều về kĩ năng tính toán nhất là phép chia vì kĩ năng chia là tổng hợp kĩ năng tính toán (trong phép chia có cả cộng, trừ, nhân, chia). Để rèn luyện thành thạo các kĩ năng cho học sinh, tôi luôn hướng dẫn và yêu cầu học sinh nắm vững: Mối quan hệ giữa các phép tính giữa các phép tính cộng và trừ, giữa phép nhân và phép chia. Để cho học sinh dễ tính toán và làm bài nhanh, cần cung cấp cho học sinh thủ thuật che bớt hoặc làm tròn để các em ước lượng được nhanh hơn. Đối với những học sinh chưa biết cách ước lượng thương nhanh thì giáo viên phải hướng dẫn một cách tỉ mỉ. Để làm việc này, thông thường ta cho học sinh nắm được cách bắt chữ số chia ở lần chia đầu tiên và cách ước lượng thương là lấy số chục của số bị chia chia cho số chục của số chia sau đó nhân lên và trừ để tìm số dư. Một cách nữa là ta có thể cho học sinh làm tròn số bị chia và số chia để dự đoán thương, sau đó nhân lại và thử. Nếu tích vượt quá số bị chia thì phải rút bớt chữ số đã dự đoán ở thương, còn kém số bị chia quá nhiều thì phải tăng chữ số ấy. Cụ thể cách làm như sau: Ví dụ 1: Khi dạy cho học sinh phép chia 672: 21 Ở lần chia thứ nhất bắt 67 : 21 ( nhẩm 6 chia 2 bằng 3 để chọn thương là 6 ) vậy 3 x 21 = 63, 67- 63 = 4) như vậy thương bằng 3 là thích hợp. Ở lần chia thứ hai, ta hạ 2 là được 42; 42 chia 21 ( 4 chia 2 bằng 2, 2 nhân 21 bằng 42, 42 trừ 42 bằng 0) vậy thương bằng 2 là hợp lí. Ta cũng có thể hướng dẫn học sinh cách ước lượng thương bằng cách: Làm tròn 64 đến số tròn chục gần nhất là 60; 21 làm tròn đến số tròn chục gần nhất là 20 sau đó ước lượng lấy 6 : 2 = 3, ta tìm được thương là 3 rồi nhân lên, trừ đi để tìm số dư ở lần chia đó, lần chia thứ hai ta cũng thực hiện tương tự. Ví dụ 2: Khi dạy cho học sinh phép chia 779 : 18 Lần chia thứ nhất lấy 77 : 18. Hướng dẫn học sinh ước lượng thương bằng cách: Số 77 làm tròn đến số tròn chục gần nhất là 80; 18 làm tròn đến số tròn chục gần nhất là 20, sau đó ước lượng thương lấy 8 chia cho 2 được 4, 4 nhân 18 bằng 72, 77 trừ 72 bằng 5. Lần chia thứ hai, hạ 9 được 59, số 59 được làm tròn đến số tròn chục là 60, 18 làm tròn đến số tròn chục 20, nhẩm lấy 5 chia cho 2 được 3, 3 nhân 18 bằng 54, 59 trừ 54 bằng 5. Như vậy kết quả của phép chia 779 : 18 = 43 dư 5. Lưu ý: Nguyên tắc làm tròn là ta làm tròn đến số tròn chục gần nhất - Các số có hàng đơn vị nhỏ hơn 5 thì ta làm tròn xuống. - Các số có hàng đơn vị lớn hơn 5 thì ta làm tròn lên. Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy tùy vào đối tượng học sinh của lớp giáo viên linh động chọn cách tìm thương cho phù hợp. Đối với học sinh chậm tiến bộ, ta cho các em ước lượng thương bằng cách thử; lấy số chia nhân với lần lượt các số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 để tìm thương. 5. Hướng dẫn học sinh phương pháp học môn Toán Với mỗi phép tính về số tự nhiên giáo viên cho các em thực hành nhiều dưới các dạng bài tập: tính giá trị của biểu thức, tìm thành phần chưa biết của phép tính, giải toán có lời văn Song song với việc ra nhiều bài tập giáo viên cũng ra những bài trắc nghiệm, cho các em xác định đúng, sai. Nếu sai thì phải giải thích, chỉ ra nguyên nhân sai và nêu cách sửa. Khi các em đã làm được điều này nghĩa là các em không mắc sai lầm nữa. Đặc biệt chú trọng cách học theo nhóm, đôi bạn, cách đánh giá, nhận xét lẫn nhau, cách sửa sai cho nhau. 6. Rèn tính cẩn thận trong tính toán Khi giảng dạy giáo viên hướng dẫn tỉ mỉ cho học sinh cách đặt tính và cách đặt các tích riêng ( đối với phép nhân ), cách ước lượng thương ( đối với phép chia) cách cộng, trừ có nhớ,... Lúc đầu giáo viên đặt tính cho học sinh tính, sau đó giáo viên cho phép tính rồi học sinh tự đặt tính và tính, cuối cùng cho các em nhiều phép tính đã đặt có kết quả nhưng trong đó có bài đúng, bài sai, yêu cầu học sinh điền đúng sai vào ô trống sau mỗi phép tính. Đồng thời học sinh phải chỉ ra được nguyên nhân sai và tìm cách sửa lại cho đúng. Giáo dục học sinh tính cẩn thận: Trong lúc học sinh làm bài giáo viên quan sát và nhắc nhở, giúp đỡ những em còn lúng túng, những em thường hay làm bài sai. Khi làm bài kiểm tra giáo viên nhắc các em kiểm tra lại bài trước khi nộp bài cho giáo viên. Tổ chức trò chơi thi đua làm toán nhanh, chính xác. Để tránh những sai sót lệch lạc khi làm toán, tôi ra những bài tập trắc nghiệm cho các em xác định đúng, sai. Nếu sai thì phải giải thích, chỉ ra nguyên nhân sai đồng thời nêu cách sửa. Khi đó các em hiểu rõ bản chất của bài tập mà giáo viên đưa ra và sẽ không mắc sai lầm nữa. Để khắc sâu kiến thức giáo viên cho các em làm đi làm lại nhiều lần. Trong quá trình giảng dạy cung cấp kiến thức mới nếu liên quan đến kiến thức cũ hoặc công thức, quy tắc tôi đều dừng lại 3 đến 5 phút để củng cố ôn tập. IV. HIỆU QUẢ MANG LẠI CỦA SÁNG KIẾN Sau khi áp dụng kinh nghiệm này vào thực tế dạy học, tôi nhận thấy các biện pháp tôi đưa ra đã mang lại hiệu quả cao: Các em đã biết nhận dạng nhanh, và biết lựa chọn cách giải hợp lí, khoa học nhất. Nhờ đó các em khắc sâu được kiến thức và có thể giải được hàng loạt các bài tập tương tự và nâng cao. Nếu như trước đó các em làm bài một cách thụ động, thiếu chắc chắn do ghi nhớ một cách mơ hồ, máy móc các bài toán tương tự đã làm thì nay các em đã nắm chắc các dạng và cách giải các dạng đó của từng bài toán cụ thể. Cũng chính vì vậy mà các em rất thích thú mỗi khi gặp các bài toán dạng này, vì các em có thể giải một cách dễ dàng và có hiệu quả. Cụ thể: Tôi đã tiến hành khảo sát lại 35 em học sinh lớp 4A (Áp dụng kinh nghiệm) và 34 em học sinh lớp 4B (Không áp dụng kinh nghiệm, chỉ dạy theo sách giáo khoa và sách hướng dẫn) mà tôi đã tiến hành khảo sát từ đầu năm học thì thu được kết quả cụ thể như sau: Lớp Tổng số HS Kết quả Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành SL TL SL TL SL TL Thực nghiệm Lớp 4A 35 16 45 % 19 55% 0 0 % Đối chứng Lớp 4B 34 12 34 % 18 51% 5 15% Đối chiếu kết quả khảo sát giữa hai lớp, lớp 4A có áp dụng kinh nghiệm, lớp 4B không áp dụng kinh nghiệm, kết quả khảo sát ở hai thời điểm trước và sau khi áp dụng kinh nghiệm, tôi thực sự hài lòng với những kết quả mà học sinh đã đạt được. Các em đã nắm kiến thức vững chắc, vận dụng kiến thức vào giải các dạng toán một cách linh hoạt, sáng tạo, đó là những thành công bước đầu mà bản kinh nghiệm của tôi sau khi áp dụng vào thực tế dạy học môn Toán tại đơn vị tôi đang công tác mang lại. V. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG VÀ TRIỂN KHAI Việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh giúp các em học tập tự giác, tích cực, giờ học nhẹ nhàng có hiệu quả. Đây là yêu cầu cấp thiết đối với ngành giáo dục nói chung và cấp Tiểu học nói riêng. Thực hiện yêu cầu này người giáo viên phải không ngừng nâng cao học tập, nghiên cứu, tìm tòi ra những phương pháp, biện pháp, hình thức dạy học đa dạng để giúp việc truyền đạt kiến thức một cách hiệu quả nhất. Các biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 4 thực hiện bốn phép tính cơ bản với số tự nhiên đã đạt kết quả tốt, khẳng định tính khả thi của sáng kiến. VI. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN Để nâng cao chất lượng dạy học đáp ứng được mục tiêu giáo dục Tiểu học đào tạo con người mới phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ thì ngành giáo dục nói chung và cấp Tiểu học nói riêng phải đổi mới tư duy, nhận thức về tầm quan trọng của môn Toán để giúp học sinh phát triển toàn diện đáp ứng mục tiêu giáo dục cấp Tiểu học. Với việc vận dụng: “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 thực hiện bốn phép tính cơ bản với số tự nhiên” như trên, tôi tự đánh giá đã đạt được kết quả như sau: - Đối với giáo viên: Đã tự học tập và có kinh nghiệm trong dạy Toán nói chung và trong bồi dưỡng học sinh có năng khiếu nói riêng, đồng thời giúp cho bản thân nâng cao được tay nghề. Thực hiện bồi dưỡng học sinh có năng khiếu đáp ứng được yêu cầu đặt ra của nhà trường cũng như của ngành giáo dục. - Các em học sinh: Đã nắm chắc được kiến thức cơ bản, các dạng toán cơ bản, nội dung nâng cao. Hình thành ở học sinh các phẩm chất cần thiết và quan trọng như: cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nề nếp, tích cực, tự giác và say mê giải toán. Vì thế nên kết quả học Toán của các em có nhiều tiến bộ, giờ học Toán đã trở nên sôi nổi hơn. C. KẾT LUẬN I. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM Trên đây là một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 4 giải các bài toán điển hình mà tôi đã tích lũy được qua quá trình dạy học môn Toán ở Tiểu học. Thành công lớn nhất mà kinh nghiệm này mang lại sau khi áp dụng là học sinh đã biết vận dụng những kiến thức đã học vào giải các dạng toán điển hình đặc biệt là các bài toán mở rộng, nâng cao một cách linh hoạt, sáng tạo, đạt hiệu quả cao, tạo được hứng thú học tập cho các em học sinh, được các đồng nghiệp tại đơn vi tôi đang công tác đánh giá cao. Do đó để đạt hiệu quả trong dạy học, bản thân tôi rút ra được một số kinh nghiệm: + Đối với giáo viên : - Ngay từ đầu năm học giáo viên cần nắm bắt rõ năng lực học của từng học sinh để có phương pháp dạy phù hợp. - Theo dõi, quan tâm đến từng đối tượng học sinh để các em được học tập và đạt được chuẩn kiến thức của chương trình, đặc biệt là những lớp đầu cấp. Bởi đây là việc làm thiết thực nhất để hạn chế những lỗi của học sinh trong quá trình làm toán. - Truyền thụ kiến thức rõ ràng, thể hiện rõ nội dung trọng tâm của bài theo đúng chuẩn kiến thức kĩ năng. - Có phương pháp nghiên cứu bài, soạn bài một cách khoa học. - Giáo viên phải biết cách khơi dậy niềm say mê, hứng thú học toán của học sinh; luôn phối hợp với gia đình học sinh để tạo điều kiện tốt nhất cho các em học. - Cần phải biết tạo ra không khí học tập thật thoải mái, tự nhiên, tránh gây căng thẳng. Biết trân trọng những phát hiện của các em dù là nhỏ nhất để hình thành ở các em niềm tin vào bản thân mình. Biết tạo ra một môi trường học tập tích cực để các em có cơ hội bộc lộ khả năng của cá nhân, biết trình bày quan điểm, ý kiến của mình trước tập thể, biết tự đánh giá kết quả học tập, biết học hỏi lẫn nhau trong quá trình học tập. - Trong dạy học giáo viên không sử dụng riêng lẻ một biện pháp nào để rèn kĩ năng tính cho học sinh mà sử dụng linh hoạt nhiều biện pháp, sao cho phù hợp mà mang lại hiệu quả cao đối với từng đối tượng học sinh. Hướng dẫn học sinh tự đánh giá kết quả học tập của bạn, của mình một cách khách quan, trung thực. Trân trọng sự cố gắng của học sinh, khuyến khích học sinh học tập. - Thường xuyên học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, góp phần nâng cao chất lượng dạy học. + Đối với học sinh: - Các em cần phải có ý thức tự học, tự giải quyết vấn đề. - Cần học thuộc bảng cộng, trừ, bảng cửu chương. - Tích cực học tập, chia sẻ cùng thầy cô, bạn bè. II. NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 thực hiện tốt bốn phép tính cơ bản với số tự nhiên. Để tiếp tục nâng cao chất lượng dạy học, đáp ứng yêu cầu đổi mới của xã hội tôi mong các cấp lãnh đạo quan tâm hơn nữa trong việc bồi dưỡng nâng cao đội ngũ giáo viên như chuyên đề giải toán, tổ chức các cuộc trao đổi kinh nghiệm học hỏi lẫn nhau.... và thường xuyên bổ sung những tài liệu hướng dẫn, tham khảo phục vụ cho giáo viên nghiên cứu, học tập. Bản thân là một giáo viên với tuổi nghề, tuổi đời còn ít, sự am hiểu chưa thực sâu sắc, có thể còn nhiều thiết sót. Kính mong các thầy giáo, cô giáo, cùng bạn đọc chân thành góp ý, bổ sung để kinh nghiệm của tôi được đầy đủ, trọn vẹn và có giá trị thực tiễn cao hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Tĩnh, ngày 18 tháng 4 năm 2020 XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ Tác giả sáng tác HIỆU TRƯỞNG Phạm Thị Phương
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_4_t.docx