Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt dạng bài “viết đoạn văn ngắn theo chủ đề”
Tiếng Việt là môn học trung tâm, môn học công cụ chiếm thời lượng lớn
nhất trong thời gian học tập ở trường của học sinh tiểu học. Một trong những phân môn có vị trí quan trọng hàng đầu trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học là phân môn Tập làm văn (TLV).
TLV là môn học phản ánh trung thực và tổng thể quá trình, kết
quả học tập Tiếng Việt ở Tiểu học của học sinh, nó rèn cho học sinh hai kĩ năng cơ bản đó là “Nói” và “Viết”.
Với tầm quan trọng như vậy ngay từ lớp 2, học sinh đã được học riêng phân
môn TLV. Hiện nay các nhà trường rất chú trọng đến phân môn này. Học xong chương trình Tập làm văn ở Tiểu học các em sẽ có một lượng kiến thức cơ bản để có thể tiếp tục học lên các lớp trên.
Hơn thế nữa kiến thức về TLV nếu các em lĩnh hội tốt thì đó sẽ là cái vốn vô giá trong cuộc đời các em. Là nền tảng căn bản vững chắc giúp các em bước vào cuộc sống dễ dàng, phục vụ cho giao tiếp hàng ngày được thuận lợi có hiệu quả.
Qua kinh nghiệm bản thân tôi nhận thấy, dạy tốt phân môn TLV không chỉ
“thức tỉnh” ở học sinh về nhận thức mà còn làm rung động về tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, khơi dậy những năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũngnhư bồi dưỡng tâm hồn cao đẹp cho các em. Đó chính là cái đích mà bất cứ
người giáo viên nào cũng mong có được.
Thực tế ở những lớp tôi dạy, học sinh rất ngại học TLV, thậm trí có em còn “sợ” học TLV. Các em đều cho rằng học TLV là khó, khó nhất trong các môn học.Vì vậy các em ít cố gắng hoặc có cố gắng nhưng chưa bền bỉ nên không thu được hiệu quả cao.Và hiện nay đa số các em học sinh lớp 3 đều rất ngại học phân môn TLV vì không biết nói gì? viết gì? Ngay cả bản thân giáo viên đôi khi cũng không tự tin lắm khi dạy phân môn này so với các phân môn khác.
Với tầm quan trọng của phân môn Tiếng Việt nói chung và TLV lớp 3 nói
riêng. Tôi luôn trăn trở làm thế nào để dạy tốt và giúp học sinh học tốt phân môn
TLV? Chính những trăn trở đó đã giúp tôi đến với đề tài: Một số biện pháp
giúp học sinh làm tốt dạng bài “Viết đoạn văn ngắn theo chủ đề ’’ ở lớp 3.
ảm, phải yêu quý người mình viết thì viết mới hay được. Chính vì vậy mới dẫn đến có những bài viết rất khô khan khiến người đọc không thấy, không cảm nhận được sự chân thực. Việc lựa chọn đúng đối tượng gần gũi, có tình cảm với mình, cái mình yêu thích còn giúp các em bộc lộ được hết cảm xúc chân thực của mình trong bài viết. Tôi còn sưu tầm các bài văn hay của học sinh năm trước, đọc cho các em nghe để khích lệ các em cố gắng. 3. Sử dụng biện pháp nghệ thuật trong viết văn: Ở lớp 3, các em đã được học hai biện pháp nghệ thuật đó là: Nhân hóa và So sánh. Đây là một yêu cầu cao khi viết văn nhưng không phải là không làm được. Để có bài văn hay thì không thể thiếu biện pháp nghệ thuật. Chính vì vậy tôi đã soạn ra một số bài tập, giúp các viết được các câu văn có hình ảnh và giàu cảm xúc. Bước đầu tôi yêu cầu các em nhận biết câu văn có hình ảnh. Ví dụ: Bài 1. Trong các câu sau, câu nào có hình ảnh nhân hóa: + Mây trắng mải mê vui chơi cùng bạn bè. + Mây trắng bồng bềnh như uốn lượn. + Chú voi như một nghệ sĩ đang biểu diễn trên sân khấu. + Cây tùng đứng im như người lính canh. Sau khi HS nhận biết câu văn có hình ảnh, tôi tiếp tục đưa ra các bài tập với yêu cầu cao hơn một chút : Bài 2. Hãy viết lại các câu văn sau cho hay hơn bằng cách thêm các từ ngữ. - Các em học sinh mặc quần áo đủ màu sắc sặc sỡ đang nô đùa trên sân trường. + Các em học sinh mặc quần áo sặc sỡ, đang nô đùa trên sân trường tựa như một đàn bướm xinh tung tăng bay lượn. - Bông hoa hồng xinh đẹp. + Bông hoa hồng xinh đẹp đang tươi cười thì thầm với gió. Bài 3. Đặt câu có sử dụng biện pháp nhân hóa để nói về các con vật. Các em đặt được một số câu như sau: + Chú Khỉ khoe tài đu dây giỏi. + Mấy chú chó con nũng nịu, dụi mõm vào bụng mẹ đòi bú. Điều này sẽ giúp các em viết được những câu văn có hình ảnh và bài văn trở nên sinh động hơn như bài: Kể về một buổi biểu diễn nghệ thuật: Xiếc thú,..... Bài 4.Thêm các từ ngữ vào chỗ chấm để thành những câu văn có sử dụng nghệ thuật nhân hóa và so sánh . - Ông mặt trời ................................................. + Ông mặt trời đỏ rực như một quả bóng lửa. + Ông mặt trời đang toả những ánh nắng chói chang như thiêu như đốt xuống vạn vật. Những đám mây trắng................................................................ + Những đám mây trắng đang nhởn nhơ rong chơi trên bầu trời. + Những đám mây trắng như bông đang bồng bềnh trôi. - Ông trăng ......................................................... + Ông trăng tròn như một quả bóng. + Ông trăng tròn, to như cái đĩa. Từ việc rèn cho các em kĩ năng viết các câu văn có hình ảnh, dần dần các em sẽ biết vận dụng biện pháp nghệ thuật vào việc viết văn để có những câu văn gợi cảm, gợi tả. Sử dụng biện pháp nghệ thuật trong viết văn sẽ làm cho bài văn sinh động, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc.Việc rèn cho các em cách viết văn hay ngay từ bậc Tiểu học nhằm nuôi dưỡng những tâm hồn yêu văn, để giúp các em học văn tốt hơn ở các lớp trên. IV. Biện pháp 4: Chú trọng tích hợp, lồng ghép khi dạy phân môn Tập làm văn lớp 3: Khi dạy phân môn TLV giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp kiến thức giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt như: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết để dạy TLV. Bài TLV chính là tổng hợp kiến thức của tất cả các phân môn trong môn Tiếng việt, từ việc dùng từ, viết câu, viết đúng chính tả, viết đúng cỡ chữ, diễn đạt lưu loát đúng nội dung. Mối quan hệ này thể hiện rất rõ trong cấu trúc sách giáo khoa. Các bài học xoay quanh một chủ điểm ở tất cả các phân môn. Vì vậy người giáo viên phải biết tận dụng và khai thác triệt để các kiến thức trong chủ điểm để bổ trợ cho phân môn TLV. * Ví dụ: Chủ điểm Sáng tạo dạy trong 2 tuần, tuần 21 và tuần 22, gồm các bài Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả Trong quá trình rèn đọc khai thác nội dung bài đọc, cung cấp cho học sinh vốn từ, những câu văn có hình ảnh về chủ điểm sáng tạo. - Cụ thể khi dạy bài Tập đọc: Nhà bác học và bà cụ, giáo viên khai thác bài theo hệ thống các câu hỏi: + Hãy nói những điều em biết về Ê- đi- xơn. + Câu chuyện giữa Ê- đi- xơn và bà cụ xảy ra lúc nào? + Vì sao bà cụ mong có chiếc xe không cần ngưạ kéo? + Nhờ đâu mà mong ước của bà cụ được thực hiện? + Theo em, nhà khoa học đem lại lợi ích gì cho con người? Qua các câu trả lời của HS giáo viên định hướng cho các em biết các nhà khoa học họ phải dùng trí óc của mình để nghiên cứu, phát minh những công trình khoa học vĩ đại nhằm phục vụ cuộc sống của con người. Như nhà bác học Ê- đi- xơn đã chế ra đèn điện, chế tạo ra xe điện để tiện lợi hơn trong việc đi lại của con người. Qua đó giáo dục các em biết kính trọng và yêu quý những thành quả của các nhà khoa học. Từ đó có mục đích phấn đấu. Những điều này giúp các em làm bài viết Kể về người lao động trí óc. - Câu chuyện “ Nâng niu từng hạt giống” nói về nhà bác học Lương Định Của. Qua câu chuyện giáo viên hướng dẫn cho các em thấy được công việc của một nhà bác học về lĩnh vực nông nghiệp. - Hay bài tập chính tả tuần 21- Chủ điểm sáng tạo. Bài tập (2): a) Điền vào chỗ trống tr hay ch? í thức là những người uyên làm các công việc í óc như dạy học, ữa bệnh, ế tạo máy móc, nghiên cứu khoa học. Cùng với những người lao động ân tay như công nhân, nông dân, đội ngũ í thức đang đem hết í tuệ và sức lực của mình xây dựng non sông gấm vóc của chúng ta. b) Đặt trên chữ in đậm dấu hỏi hay dấu ngã? Trên ruộng đồng, trong nhà máy, trên lớp học hay trong bệnh viện, ơ đâu, ta cung gặp nhưng trí thức đang lao động quên mình. Các ki sư nông nghiệp nghiên cứu giống lúa mới , ki thuật trồng trọt, chăn nuôi mới. Các ki sư cơ khí cùng công nhân san xuất máy móc, ô tô. Các thầy giáo, cô giáo dạy ta thành người có ích cho xa hội. Các bác si chưa bệnh cho dân. Bài chính tả trên không chỉ rèn cho học sinh biết viết đúng các chữ có âm đầu tr hoặc ch và điền đúng những chữ có dấu hỏi hay dấu ngã, mà còn cung cấp rất nhiều kiến thức về những người lao động trí óc. Vì vậy với bài tập này sau khi nêu yêu cầu và cho học sinh làm, khi chữa bài, tôi yêu cầu học sinh đọc bài đã điền. Tôi hướng dẫn HS phân biệt giữa người lao động trí óc và người lao động chân tay; hiểu được ích lợi, ý nghĩa công việc cũng như sự cống hiến cho xã hội của người lao động trí óc. Để từ đó giúp các em biết lựa chọn đối tượng để kể trong bài Viết về người lao động trí óc. Ở bài 2b, sau khi học sinh điền dấu hỏi và dấu ngã, tôi cho một học sinh đọc bài làm và tôi hỏi: - Các kĩ sư nông nghiệp họ làm gì? (Nghiên cứu giống lúa, kĩ thuật trồng trọt.). - Các kĩ sư cơ khí họ làm gì? (sản xuất máy móc,) - Công việc của bác sĩ là gì? (chữa bệnh cho bệnh nhân, ) - Những người lao động trí óc họ làm việc như thế nào? (quên mình). Qua tiết chính tả, học sinh không chỉ biết viết đúng chính tả mà còn có thêm hiểu biết về công việc của những người lao động trí óc để phục vụ cho việc viết bài văn. Nhưng nếu giáo viên chỉ dừng lại ở việc chữa bài, học sinh điền đúng hay sai thì chưa hiểu đúng ý đồ của sách giáo khoa, chưa khai thác triệt để, để giúp học sinh lĩnh hội đầy đủ kiến thức, hiệu quả học tập sẽ bị hạn chế. - Bài Luyện từ và câu. Tuần 22 - Chủ điểm Sáng tạo Bài 1: Dựa vào những bài tập đọc, chính tả đã học ở các tuần 21, 22 em hãy tìm các từ ngữ: a) Chỉ trí thức M: Bác sĩ,. b) Chỉ hoạt động của trí thức: M: Nghiên cứu. Học sinh sẽ tìm được: - Từ chỉ trí thức: Bác sĩ, giáo viên, kiến trúc sư, giảng viên, kĩ sư,. - Chỉ hoạt động trí thức: Nghiên cứu, phát minh, chế tạo máy móc, chế thuốc Sau bài tập này, tôi nhấn mạnh cho học sinh biết trí thức chính là những người lao động trí óc, công việc của họ rất vất vả và thành quả lao động của họ mang lại rất nhiều ích lợi cho xã hội. Điều đó sẽ giúp học sinh viết được các ý về ích lợi công việc của những người lao động trí óc trong bài văn của mình. Tiết Luyện từ và câu này không chỉ giúp HS hiểu biết thêm các công việc của những người trí thức mà còn giúp cho HS tích luỹ thêm vốn từ để viết văn về chủ điểm Sáng tạo. * Chủ điểm Cộng đồng Có bài Tập đọc: Các em nhỏ và cụ già Tuần 8. Giáo viên khai thác nội dung bài theo hệ thống câu hỏi sau: + Điều gì gặp bên đường khiến các bạn nhỏ phải dừng lại? + Các bạn quan tâm đến ông cụ như thế nào? + Vì sao các bạn quan tâm đến ông cụ? (Vì các bạn là những trẻ ngoan. Vì các bạn là người nhân hậu. Vì các bạn muốn quan tâm giúp đỡ ông cụ.) + Ông cụ gặp chuyện gì buồn? (Bà cụ bị ốm nặng phải nằm bệnh viện, khó mà qua khỏi). + Vì sao khi trò chuyện với các bạn nhỏ ông cụ thấy lòng nhẹ hơn? (Ông cảm thấy nỗi buồn được chia sẻ. Ông cảm thấy đỡ cô đơn vì có người trò chuyện. Ông cảm thấy ấm lại vì tình cảm của các bạn nhỏ dành cho mình.) Qua hệ thống câu hỏi và câu trả lời của học sinh, giáo viên định hướng cho các em ý thức biết quan tâm, chia sẻ với những người trong cộng đồng, giúp các em khi viết đoạn văn Kể về người thân, hay người hàng xóm, đoạn văn toát lên được nội dung: Con người phải biết yêu thương nhau, sự quan tâm chia sẻ của những người xung quanh làm cho mỗi người dịu bớt đi những nỗi lo lắng, buồn phiền, và cảm thấy cuộc sống tốt đẹp hơn. Như vậy qua tiết học này, học sinh được mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt mạch lạc logic, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Trên cơ sở đó hình thành cho học sinh kiến thức về mối quan hệ tương thân, tương ái giữa mọi người trong cộng đồng. Cũng trong chủ điểm này có bài chính tả Viết đoạn 4 trong bài Các em nhỏ và cụ già: Cụ ngừng lại, rồi nghẹn ngào nói tiếp: - Ông đang rất buồn. Bà lão nhà ông nằm bệnh viện mấy tháng nay rồi. Bà ốm nặng lắm, khó mà qua khỏi. Ông ngồi đây chờ xe buýt để đến bệnh viện. Ông cảm ơn lòng tốt của các cháu. Dẫu các cháu không giúp gì được, nhưng ông cũng thấy lòng nhẹ hơn. Đám trẻ lặng đi. Các em nhìn cụ già đầy thương cảm. Một lát sau, xe buýt đến. Giúp ông cụ lên xe rồi, các em còn đứng nhìn theo mãi mới ra về. Khi viết đoạn văn trên, học sinh được rèn viết chính tả, cách sử dụng các dấu câu; thấy được sự cảm thông, chia sẻ giữa con người với nhau làm dịu bớt buồn phiền tăng cho mỗi người niềm hy vọng, nghị lực trong cuộc sống. HS vận dụng cái hay, cái đẹp của ngôn từ trong đoạn văn để thể hiện tình cảm, thái độ đánh giá trong từng bài văn của các em. Tương tự ở môn Tập viết - Tuần 8. Các em được luyện viết câu ứng dụng: Khôn ngoan đối đáp người ngoài / Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau Ý nghĩa câu tục ngữ khuyên: Anh em trong nhà phải đoàn kết thương yêu nhau. Xuất phát từ phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết xoay quanh chủ đề Cộng đồng; HS biết “Kể về người hàng xóm mà em quý mến” (Tập làm văn - Tuần 8) và viết được đoạn văn hoàn chỉnh, thể hiện tình cảm thái độ đánh giá đối với người hàng xóm qua việc sử dụng từ ngữ, câu văn có hình ảnh. Như vậy, khi dạy tất cả các phân môn: Luyện từ và câu, Chính tả, Tập đọc đều nhằm mục đích giúp HS có kĩ năng hình thành văn bản, ngôn bản. Do đó, tích hợp lồng ghép phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn TLV lớp 3. V. Biện pháp 5: Rèn kĩ năng làm văn miệng Một tiết TLV nói, viết theo chủ đề thường có 2 bài: Bài 1- Làm miệng. Bài 2 - Làm viết Để làm tốt bài văn viết tôi chú trọng và hướng dẫn kĩ bài làm miệng. Ví dụ tiết TLV- tuần 8 Bài 1: Kể về người hàng xóm mà em quý mến. Bài 2: Viết những điều em vừa kể thành một đoạn văn từ 5 đến 7 câu. Sau khi học sinh đọc yêu cầu của bài 1 và gợi ý, tôi thường hướng dẫn học sinh nói theo từng phần. Mỗi phần tôi cho nhiều em được nói và các em có thể nói theo nhiều cách khác nhau. Nếu em nào nói chưa tốt một ý nào đó, tôi cho học sinh khác nhận xét và chỉnh sửa ngay cho chính học sinh đó. Với mỗi gợi ý của bài tập 1 có nhiều cách nói khác nhau. a) Người hàng xóm mà em quý mến tên là gì? bao nhiêu tuổi? (Người hàng xóm mà em quý mến là bác Tâm, năm nay Bác đã ngoài 40 tuổi. Bác Lan ở kề bên nhà em là người hàng xóm thân thiết nhất của gia đình em. Năm nay Bác 60 tuổi rồi. Ở cạnh nhà em có chú Sơn, năm nay chú 32 tuổi. Chú chơi rất thân với bố em.) b) Người đó làm nghề gì? (Bác Tâm làm công nhân ở Công ty Môi trường đô thị. Tuy tuổi đã cao nhưng Bác Lan vẫn còn khỏe và tham gia những công việc đồng áng mà bác đã làm mấy chục năm nay. Chú Sơn là một kĩ sư điện của một công ty chuyên sản xuất đồ điện gia dụng.) c) Tình cảm của gia đình em đối với người hàng xóm như thế nào? (Mọi người trong gia đình em đều quý bác Tâm. Thỉnh thoảng rảnh rỗi mẹ cho em sang nhà bác Tâm chơi để trò chuyện với bác. Cả nhà em đều thương bác Lan vì các con của Bác đều công tác xa, ít khi về được. Những lúc nhà bác Lan có việc gì khó, gia đình em đều sẵn sàng giúp đỡ. Những hôm chú Sơn phải đi công tác, bố em thường sang nhà chú ngủ để trông nhà hộ vì chú ở một mình.) d) Tình cảm của người hàng xóm đối với gia đình em như thế nào? (Bác Tâm cũng rất quan tâm đến gia đình em. Bác thường hỏi thăm sức khỏe của ông bà em ở quê, hỏi han về việc học hành của em và khuyên em nhiều điều tốt. Bác Lan quan tâm đến gia đình em bằng những tình cảm rất mộc mạc, chân thành. Có lần mẹ em đi làm về bị cảm nắng, Bác vội đi lấy gừng để đánh gió cho mẹ em, rồi giúp em nấu cháo cho mẹ ăn. Mỗi khi nhà em bị hỏng điện chú sẵn sàng sang sửa giúp.) Sau khi các em được luyện nói theo từng phần, tôi mời hai, ba học sinh luyện nói cả bài. Sau mỗi một học sinh trình bày miệng, tôi lại cho học sinh khác nhận xét về nội dung, ý, dùng từ, bạn nói thành câu chưa?....Việc chỉnh sửa khi làm bài miệng sẽ hạn chế được những sai sót khi làm viết. Nhờ việc rèn kĩ năng làm văn miệng, các em được nghe nhiều bạn nói, với cùng một gợi ý nhưng lại có nhiều cách nói khác nhau. Các em được học hỏi lẫn nhau, tự so sánh câu của mình với câu của các bạn, để từ đó biết lựa chọn những cái hay, cái đẹp cho mình. Điều này sẽ giúp các em viết được những bàiviết phong phú mà không dập theo khuôn mẫu nào. Các em đã nói thành câu thì viết cũng thành câu, diễn đạt lưu loát thì bài văn sẽ trôi chảy hơn. VI. Biện pháp 6: Sử dụng các thiết bị dạy học hiện đại: Hiện nay, hầu hết các trường học ở Hà Nội đều được trang bị các thiết bị dạy học hiện đại như máy tính xách tay, máy chiếu Projecter, máy chiếu vật thể, bảng tương tác Vì vậy giáo viên nên sử dụng triệt để các thiết bị này. Người giáo viên cần nắm vững cách thiết kế bài giảng điện tử trên các phần mềm PowerPoint, Violet Việc tra thông tin và tìm kiếm các hình ảnh đẹp, các clip hay trên mạng Internet rất dễ dàng. Điều này sẽ giúp học sinh dễ dàng cảm nhận được nội dung bài học và viết văn có cảm xúc hơn. Giáo viên có thể sử dụng phần mềm Violet, phần mềm bảng tương tác để thiết kế các bài tập dạng điền từ, chọn ý, sắp xếp ý Học sinh có thể trực tiếp làm bài, chữa bài trên phần mềm và cả lớp đều quan sát được. VII. Biện pháp 7:Vận dụng linh hoạt đánh giá theo thông tư 22: Thời gian 40 phút một tiết thì thời gian dành cho việc chữa bài sẽ rất ít. Chính vì vậy, sau khi HS viết xong bài tôi sẽ thu một vài bài của các em học tốt - học khá - học trung bình hoặc yếu để nhận xét, đánh giá. Dùng máy Projecter để chiếu bài của HS. Yêu cầu các em nhận xét về nội dung, câu, từ, cách diễn đạt. Giáo viên gạch chân từ dùng sai, hay những câu chưa rõ ý. Nếu dùng từ sai, học sinh khác có thể bổ sung thay thế bằng từ khác cho phù hợp hơn. Nếu em nào viết câu chưa rõ ý, giáo viên có thể gọi chính học sinh đó sửa luôn. Ví dụ giáo viên có thể hỏi học sinh: - Câu em viết đã đủ hai bộ phận chưa? - Còn thiếu bộ phận nào? - Em có thể sửa lại để cô và các bạn biết rõ em viết điều gì không? Việc chiếu bài còn giúp học sinh quan sát các bài viết trình bày đẹp, đọc các bài viết hay. Nếu em nào làm bài tốt, viết được các câu văn có hình ảnh, dùng biện pháp nghệ thuật thì GV phải biểu dương kịp thời và đọc cho cả lớp nghe, đánh giá sự cố gắng tiến bộ vượt bậc của em đó để động viên và khích lệ để các em khác phấn đấu. Đối với bài làm có ý hay, giáo viên giúp học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho bài văn hay hơn. CHƯƠNG 4 - KẾT QUẢ Sau một thời gian áp dụng các biện pháp dạy học theo hướng tích cực tôi đã nêu trên, tôi thấy kết quả học TLV viết của lớp mình đạt được thật đáng mừng. Tôi tiến hành khảo sát và thu được kết quả như sau: HS có kĩ năng viết văn tốt Học sinh có kĩ năng viết văn HS chưa có kĩ năng viết văn 27/42 = 64,3% 14/42 = 33,3% 01/42 = 2,4% Qua bảng thống kê kết quả, tôi thấy lớp 3C là lớp tôi thực nghiệm đã có tiến bộ rõ rệt. Hầu hết học sinh viết đúng nội dung của chủ đề yêu cầu. Các em sử dụng từ ngữ rất chính xác, viết thành câu và đã biết dùng các dấu câu đã học vào bài viết. Có những bài văn viết rất tự nhiên và chân thực. Các em không còn ngại học, sợ học môn TLV nữa. Kết quả học tập tiến bộ rõ rệt nên các em càng phấn khởi, hăng say học tập. Không những đạt kết quả tốt trong môn TLV mà các em còn giao tiếp tốt trong cuộc sống hàng ngày. Bản thân tôi cùng cảm thấy thật sự nhẹ nhàng khi dạy các em viết bài TLV, tôi không phải nhắc nhở thúc giục các em như trước nữa, mà các em đã chủ động viết bài bằng vốn kiến thức của mình. Tôi xin dẫn một số bài văn của học sinh lớp tôi. PHẦN III - KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ I. Kết luận Là giáo viên trực tiếp đứng lớp, muốn có kỹ năng viết văn cần cả một quá trình rèn luyện lâu dài nhưng nó cũng phụ thuộc vào vai trò điều khiển, dẫn dắt của người thầy. Từ kết quả giảng dạy lớp mình, tôi thấy rằng để nâng cao chất lượng dạy TLV viết ở lớp 3, đặc biệt là kiểu bài viết đoạn văn theo chủ đề cần chú ý một số vấn đề sau: - Giáo viên nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy, chuẩn bị những kiến thức cần thiết theo chủ đề để chủ động được nội dung bài dạy. - Nắm vững đặc trưng của bài làm viết, từ đó có định hướng rèn cho học sinh kĩ năng viết văn bản. - Dạy theo quan điểm tích hợp lồng ghép tất cả các phân môn trong môn Tiếng Việt và khai thác triệt để kiến thức ở mỗi bài học trong chủ điểm để bổ trợ cho phân môn TLV. - Chú trọng việc cung cấp cho học sinh vốn từ ngữ, vốn sống để viết văn. - Định hướng cho học sinh viết chân thực những gì mình thích, mình yêu mến. - Rèn kĩ năng làm văn miệng tốt trước khi làm bài viết. - Rèn kĩ năng viết câu có sử dụng biện pháp nghệ thuật. - Xây dựng hệ thống câu hỏi dễ hiểu, dễ nói, dễ viết cho học sinh. - Thường xuyên quan sát, trao đổi ý kiến với học sinh để thu thập các thông tin ngược từ học sinh để điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp . - Khuyến khích và tổ chức cho các em thường xuyên đọc sách báo để mở mang kiến thức, rèn khả năng nói, viết. - Trao đổi với các em những câu chuyện hay, cuốn sách hay các em đã đọc để phát triển ở các em khả năng cảm thụ. - Cần động viên khích lệ kịp thời những tiến bộ của học sinh. - Giáo viên phải thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tăng cường học hỏi, nghiên cứu tài liệu để nâng cao hiểu biết cho bản thân. II. Khuyến nghị - Tổ chức nhiều hội thảo chuyên đề để giáo viên được học hỏi, bồi dưỡng chuyên môn. - Giáo viên tích cực sử dụng đồ dùng dạy học trong giảng dạy (được trang bị cũng như tự làm). - Nghiên cứu kĩ bài dạy, vận dụng và phối hợp linh hoạt, sáng tạo các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học. Trên đây là một vài kinh nghiệm, biện pháp mà tôi đã sử dụng để nâng cao chất lượng dạy Tập làm văn lớp 3 dạng bài Viết đoạn văn theo chủ đề. Tôi rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các cấp lãnh đạo, các bạn bè đồng nghiệp để tôi có được một cách dạy đạt hiệu quả cao nhất cho học sinh. Tôi xin chân thành cảm ơn XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Hà Nội, ngày 09 tháng 3 năm 2019 Người viết Trần Thị Kim Mỹ TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Sách nghiên cứu. 1. Hỏi đáp về đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học – Chủ biên PTS Đỗ Đình Hoan. 2. Thực hành TLV – Trần Mạnh Hưởng. 3. Vui học Tiếng Việt – Trần Mạnh Hưởng. 4. Bồi dưỡng văn tiểu học – Nguyễn Quốc Siêu 5. Đánh giá kết quả học Tiếng Việt lớp 3 – Nguyễn Trại – Lê Thị Thu Huyền – Đỗ Thị Bích Liên. II. Tạp chí: 1. Chăm học. 2. Thế giới trong ta. 3. Dạy và học ngày nay. 4. Giáo dục thời đại. 5. Giáo dục tiểu học. III. Sách giáo khoa: 1. Sách Tiếng Việt. 2. Vở bài tập Tiếng Việt. 3. Sách giáo viên. 4. Kiểm tra Tiếng Việt lớp 3. 5. Yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng môn Toán – Tiếng Việt lớp 3.
File đính kèm:
- Tieng Viet 3 My THTrungTu.doc.docx