Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém

Trong công cuộc đổi mới giáo dục và thực hiện nghiêm túc chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung của Ngành giáo dục nói riêng về việc nói không với tiêu cực và bệnh thành tích. Là người dân tộc thiểu số sinh ra và lớn ở vùng sâu, vùng xa, nay lại là giáo viên giảng dạy tại trường 100% là dân tộc thiểu số với nhiều học sinh yếu kém. Điều đó khiến tôi rất trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém, giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản trong từ những năm học ở các lớp ở cấp PTCS. Đó là nền móng cho sự phát triển của học sinh sau này. Qua 10 năm được giảng dạy ở các khối lớp khác nhau trong cấp ptcs , năm nào vào đầu năm học qua khảo sát chất lượng đầu năm, các khối lớp tôi giảng dạy cũng có khá nhiều học sinh có học lực yếu kém đó là hiện tượng đã có từ nhiều năm nay trong các nhà trường.

 Mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, các em khác nhau về ngoại hình, tính cách và cả khả năng nhận thức trong học tập. Có học sinh tiếp thu bài học nhanh, nhưng cũng có những em tiếp thu bài rất chậm, thậm chí là không hiểu gì thông qua các hoạt động trên lớp. đặc biệt là môn toán sự logich rất cao và có vị trí rất quan trọng, là một giáo viên dạy toán thì tôi phải làm gì đối với những học sinh yếu, kém về tiếp thu này? Đó chính là vấn đề mà tôi luôn quan tâm và nó luôn thôi thúc tôi trong suốt quá trình dạy.

 Được tiếp xúc hàng ngày với các em, đó là điều kiện tốt nhất giúp tôi tìm hiểu rõ về đặc điểm tâm lí của lứa tuổi và đề ra các biện pháp giáo dục thích hợp để rèn cho những em học sinh yếu có thể nắm được bài học và hoà nhập vào hoạt động học trên lớp cùng các bạn.

 

doc11 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 7940 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng và Nhà nước nói chung của Ngành giáo dục nói riêng về việc nói không với tiêu cực và bệnh thành tích. Là người dân tộc thiểu số sinh ra và lớn ở vùng sâu, vùng xa, nay lại là giáo viên giảng dạy tại trường 100% là dân tộc thiểu số với nhiều học sinh yếu kém. Điều đó khiến tôi rất trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém, giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản trong từ những năm học ở các lớp ở cấp PTCS. Đó là nền móng cho sự phát triển của học sinh sau này. Qua 10 năm được giảng dạy ở các khối lớp khác nhau trong cấp ptcs , năm nào vào đầu năm học qua khảo sát chất lượng đầu năm, các khối lớp tôi giảng dạy cũng có khá nhiều học sinh có học lực yếu kém đó là hiện tượng đã có từ nhiều năm nay trong các nhà trường.
 	Mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, các em khác nhau về ngoại hình, tính cách và cả khả năng nhận thức trong học tập. Có học sinh tiếp thu bài học nhanh, nhưng cũng có những em tiếp thu bài rất chậm, thậm chí là không hiểu gì thông qua các hoạt động trên lớp. đặc biệt là môn toán sự logich rất cao và có vị trí rất quan trọng, là một giáo viên dạy toán thì tôi phải làm gì đối với những học sinh yếu, kém về tiếp thu này? Đó chính là vấn đề mà tôi luôn quan tâm và nó luôn thôi thúc tôi trong suốt quá trình dạy.
 Được tiếp xúc hàng ngày với các em, đó là điều kiện tốt nhất giúp tôi tìm hiểu rõ về đặc điểm tâm lí của lứa tuổi và đề ra các biện pháp giáo dục thích hợp để rèn cho những em học sinh yếu có thể nắm được bài học và hoà nhập vào hoạt động học trên lớp cùng các bạn.
 	Bên cạnh đó, trong quá trình công tác tại trường PTCS Thanh Lâm, tôi luôn được sự hướng dẫn tận tình của BGH nhà trường, sự hỗ trợ tận tình của tập thể hội đồng sư phạm. Đặc biệt là những khó khăn mà tôi gặp phải trong quá trình công tác luôn được sự chia sẻ và quan tâm của tập thể giáo viên, và ban giám hiệu nhà trường. Bên cạnh sự chia sẻ và hỗ trợ về mặt tinh thần, điều mà tôi tâm đắc nhất trong thời gian công tác tại trường là tôi luôn được học hỏi và chia sẻ nhiều kinh nghiệm mà tập thể giáo viên tổ tự nhiên nói riêng và các tổ khác nói chung triển khai thực hiện. Mỗi sáng kiến kinh nghiệm mà tập thể đưa ra đều bổ ích để chúng tôi rút ra kinh nghiệm một cách tích cực.
 	Xuất phát từ tình hình thực tế học sinh như vậy, tôi rất mong muốn có những sáng kiến về rèn học sinh yếu. Vì thế tôi đã nghiên cứu và đã vận dụng cho học sinh các khối lớp tôi dạy. Sau đây tôi mạnh dạn trình bày để các đồng chí đóng góp ý kiến với đề tài: “Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém” hướng tới mục tiêu hằng năm không còn học sinh yếu kém trong khối cũng như trong trường của tôi nói riêng và của ngành giáo dục huyện nhà nói chung. 
II/MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: 
 	Qua đề tài này tôi mong muốn tìm ra nguyên nhân học sinh học yếu, từ đó tìm giải pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém hay xoá học sinh yếu kém trong khối cấp PTCS cũng như trong trường học. Tạo cho các em học sinh yếu kém có ý chí vượt khó khăn, kiên trì, cẩn thận, tự tin vươn lên trong học tập.
III/ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
 	- Để làm rõ được mục đích tôi đã nói rõ ở trên, tôi đã lấy đối tượng nghiên cứu là học sinh khối 8 và khôi 9 Trường PTCS thanh Lâm, trong năm học 2012-2013
 	Do thời gian và năng lực có hạn nên tôi chỉ nghiên cứu thông qua các tiết dạy môn toán hàng ngày.
IV/NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
 -Nêu cao các phẩm chất trong công tác giáo dục học sinh.
 	-Gần gũi, yêu thương, tôn trọng và đối xử công bằng với học sinh, an tâm với nghề dạy học.
 	-Có ý thức trách nhiệm, tinh thần khắc phục khó khăn tận tụy, sáng tạo trong lao động sư phạm.
 -Gắn bó mật thiết với tập thể và cộng đồng.
 	-Sống giản dị, lành mạnh, trung hậu, bao dung, vui tươi cởi mở. Có tác phong mẫu mực.
 	-Ham hiểu biết cái mới, luôn nâng cao trình độ, kĩ năng nghề nghiệp và rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách.
 -Khảo sát tình hình học sinh yếu kém của học sinh khối 8 và 9.
 	-Tiếp cận với học sinh, các thầy cô trong khối, các bậc phụ huynh học sinh để tìm ra biện pháp có hiệu quả nhất.
 -Rút ra kết luận và những kinh nghiệm để giải quyết một số khó khăn nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
PHẦN II: NỘI DUNG
I/CƠ SỞ LÍ LUẬN:
 	Quá trình dạy học ở khối 8 và khối 9 góp phần thiết thực vào việc hình thành phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập và rèn luyện tích cực, chủ động, khoa học, sáng tạo cho học sinh. Cho nên, giáo viên cần tổ chức hoạt động học tập thường xuyên tạo ra các tình huống có vấn đề, Đặc biệt các vấn đề là các sự vật, hiện tượng ngay xung quanh các em, tìm các biện pháp lôi cuốn học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề bằng cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ năng vấn đề đó, huy động các kiến thức và các công cụ đã có để tìm ra con đường hợp lí nhất giải đáp từng câu hỏi đặt ra trong quá trình giải quyết vấn đề, diễn đạt các bước đi trong cách giải, tự mình kiểm tra lại các kết quả đã đạt được, cùng các bạn rút kinh nghiệm về phương pháp giải. Tuy nhiên, để tổ chức được các hoạt động học tập, giáo viên cần xác định được: Nội dung cần cho học sinh lĩnh hội là gì? Cần tổ chức các hoạt động như thế nào? Mặt khác, nội dung dạy môn toán học ở lớp 8 và lớp 9 được sắp xếp hợp lí, đan xen và tương hợp với mạch kiến thức khác, phù hợp với sự phát triển nhận thức của học sinh nhằm hình thành và phát triển trình độ tư duy của học sinh. Các em biết phát triển và tự giải quyết vấn đề, tự nhận xét so sánh, phân tích tổng hợp, rút ra kết luận chung ở dạng khái quát nhất định.
 	Tuy nhiên, giáo viên phải chủ động tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động theo chủ đích nhất định với sự trợ giúp đúng mức của giáo viên, của sách giáo khoa và đồ dùng dạy học, để mỗi cá nhân học sinh “khám phá” tự phát hiện và tự giải quết bài học thông qua việc thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới, với các kiến thức liên quan đã học, với kinh nghiệm của bản thân. Đó là các cơ sở để giúp các em học sinh yếu, kém vươn lên và tự hoàn thiện.
II/THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
 1/Đặc điểm tình hình của nhà trường:
Trường PTCS Thanh Lâm được thành lập năm 1991, đóng ngay trên địa bàn thôn Khe Nháng, xã Thanh Lâm huyện Ba Chẽ tỉnh Quảng Ninh
 	*Cơ sở vật chất nhà trường:
-Diện tích tích toàn trường:  m 2
-Cổng, hàng rào kiên cố, có đầy đủ các phòng học.
-Khuôn viên nhà trường xanh - sạch - đẹp - an toàn.
 	*Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên của nhà trường năm học: 2012- 2013 nhà trường có: 
 Tổng số cán bộ, GV, NV: .. người, Nữ: . người Gồm tổ tự nhiên có:  người, Tổ xã hội có:.người. 
 	Trong những năm qua, chất lượng giáo dục của nhà trường luôn được đánh giá là trường có chất lượng giáo dục khá cao của ngành Giáo dục Huyện nhà. Tuy nhiên, bên cạnh đó tỉ lệ học sinh yếu của nhà trường hằng năm vẫn còn. Cụ thể như sau:
 Năm học 2012 - 2013: Có .. em - Tỉ lệ: 
 Năm học 2011 – 2012: Có.. em - Tỉ lệ: 
2/Thực trạng chung của học sinh:
 a/Đặc điểm chung:
 	Năm học 2012 - 2013, tôi được nhà trường phân công giảng dạy môn toán ở hai khối 8 và 9, với tổng số học sinh là 56 em, nữ 28 em, dân tộc 56 em. 100% các em là con em dân tộc thiểu số, gia đình nghèo, nhà xa trường và một số em đi học phải qua sông qua suối. Đa số các em học yếu lại thuộc diện gia đình khó khăn của xã.
Qua kết quả kiểm tra chất lượng đầu năm đạt như sau:
TSHS
Lớp TSHS
GIỎI
KHÁ
TB
YẾU
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
23
8 18
0
0
1
5
10
55,5
7
 38,8
9A 18
0
0
4
22,2
11
61,1
3
16,6
9B 16
0
0
4
25
9
56,3
3
18,7
 b/Thực trạng học sinh yếu:
 	Trong những năm qua tôi đã theo dõi học sinh của các khối khi học môn Toán, tôi thấy các em có một thói quen không tốt cho lắm:
 	- Phần lớn học sinh đọc các đề bài toán qua loa sau đó làm bài ngay, làm xong không cần kiểm tra lại kết quả, cho nên khi trả bài các em mới biết là mình sai hoặc các em bị hỏng kiến thức cũ, ví dụ như các em không thuộc bảng nhân, chia; hay dạng cộng với một số và trừ đi một số; Khả năng tính nhẩm kém do cộng, trừ, nhân, chia trong bảng cử chương chưa thuần thục dẫn đến tính toán chậm, thiếu chính xác khi thực hiện các phép tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia ngoài bảng. Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết quả theo cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận khi giải toán. Các em rất sợ các bài tập về giải toán vì ảnh hưởng bởi khả năng đọc hiểu và không biết tính hoặc tính thiếu chính xác. Các em đọc đề xong, lúc giải các em lại chép đề lần nữa nên mất nhiều thời gian, trong khi đó một tiết dạy chỉ có 45 phút. 
 	*Tóm lại sự yếu kém môn toán có những biểu hiện nhiều hình, nhiều vẻ nhưng nhìn chung thường có 5 đặc điểm sau:
 + Nhiều "lỗ hổng" kiến thức, kĩ năng .
 + Tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng chậm .
 + Năng lực tư duy yếu .
 + Phương pháp học tập toán chưa tốt .
 + Thờ ơ với giờ học trên lớp, thường xuyên không làm bài tập ở nhà .
 	-
c/Nguyên nhân:
 *Về phía học sinh:
 -Chưa có động cơ học: Đa số các em không xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau đó về nhà lấy tập ra “ học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì.
 -Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, bản thân nhận thấy rằng các em học sinh yếu là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường. 
 	-Học sinh bị hỏng kiến thức từ lớp dưới: Đây là một điều không thể phủ nhận với chương trình học tập hiện nay. Đặc biệt là học sinh vùng sâu, vùng xa, là con em dân tộc thiểu số như trường PTCS Thanh Lâm. 
 - Không hiểu từ ngữ trong các bài học: Một số câu từ Hán Việt trong bài học, định nghĩa hay định lý các em không hiểu nghĩa cũng là nguyên nhân cán trở tiếp thu bài của các em. 
 - Chưa có phương pháp học tập phù hợp: ví dụ như khi làm bài tập thì chép lại đề bài., và làm bài quá chậm.
*Về phía phụ huynh học sinh: Đa số gia đình các em nghèo, phụ huynh học sinh đều có trình độ thấp, khi các em gặp bài toán khó thì không biết hỏi ai được. Khi đến lớp thì nhiều em ngại không dám hỏi bài. Điều kiện học tập của các em chưa được các phụ huynh tạo điều kiện như bàn học, đền học , sách, bút...và giờ tự học chưa được giám sát chặt chẽ . Nhiều em thi còn bận phụ giúp gia đình, mải xem truyền hình
 	*Về phía giáo viên: Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở học sinh mà một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trò giỏi. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không phải giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà ở đây giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và với từng nội dung kiến thức. Qua quá trình công tác bản thân nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. Chưa tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. 
 	Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học yếu mà bản thân nhận thấy trong quá trình công tác. Cụ thể lớp tôi giảng dạy có các nhóm nguyên nhân như sau: 
 	*Tiếp thu chậm, hỏng kiến thức, Lười, chán học.(Ví dụ như các em: 
Mễ thị Thao, Chiếng Văn Quảng, trương Văn Hợp, Lục văn Toàn, 
 	*Thiểu năng trí tuệ.(Ví dụ như em:Vi Thanh Tùng, Nông Văn Tháp)
 	*Hoàn cảnh khó khăn, một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của các em.( Ví dụ như phụ huynh em: Nông Văn Tháp,Trần Đức Cảnh, Bàn Văn Điệp)
 	III/BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
 1/Những biện pháp chung:
* Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện:
 	-Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình.
 	 - Luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình.
 Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví dụ như nên thay chê bai bằng khen ngợi và tìm những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Hoặc có thể dùng các phiếu thưởng có in các lời khen phù hợp với từng việc làm của các em như: “Biết giúp đỡ người khác”, “Thái độ nhiệt tình và tích cực” 
 *Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh:
 	- Giáo viên phải xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát
 	-Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này.
 -Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên tôi cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. 
 	-Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình trong tập thể. Yêu cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các em này có thể hoàn thành 1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em.
 	-Ngoài ra, tôi có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Tôi đã tổ chức phụ đạo các em trong những tiết luyện của buổi hai. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với hình thức vui chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng nề.
 *Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:
 	- Giáo viên cần phải giáo dục ý thức học tập của các em tạo cho các em sự hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho các em có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy tôi phải liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để các em thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
 -Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ các em về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục các em về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho các em thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, tôi phải phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập cho các em. 
Vì thế bản thân tôi cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên. 
 Tôi thiết nghĩ nếu chúng ta phối hợp một cách nhịp nhàng và chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường thì dù các em có học yếu và không có ý thức trong học tập cỡ nào thì dưới tác động của gia đình và nhà trường nhất định rằng việc học của các em sẽ dần tiến bộ.
*Kèm cặp học sinh yếu:
 	-Ngay từ đầu năm tôi cần phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh yếu là bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo. 	-Lập danh sách học sinh yếu và chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời câu hỏi, khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng,
 2/Những biện pháp cụ thể:
 *Đối với các kiến thức cơ bản: 
 Học sinh phải nắm được kiến thức cơ bản thì mới làm được bài tập. Giáo viên cần tập trung giảng, giải thích cho học sinh hiểu, nắm chắc, từ đó mới vận dụng được và làm bài tập và học được các bài tiếp theo. 
 *Lấp lỗ hổng kiến thức:
 	Kiến thức có nhiều "lỗ hổng" là một "bệnh" phổ biến của học sinh yếu kém toán. Trong quá trình dạy học trên lớp, tôi cần phát hiện và phân loại những lỗ hổng kiến thức, kĩ năng của học sinh. Những lỗ hổng nào điển hình mà trên lớp chưa đủ thời gian khắc phục thì cần có kế hoạch tiếp tục giải quyết trong nhóm học sinh yếu kém. Thông qua quá trình học lý thuyết và làm bài tập của học sinh, tôi cũng cần tập cho học sinh, nhất là học sinh yếu kém có ý thức tự phát hiện những lỗ hổng của bản thân mình và biết cách tự lấp những lỗ hổng đó. Ví dụ quy đồng mấu thức.
*Luyện tập vừa sức:
 	Đối với học sinh yếu kém, giáo viên nên coi trọng tính vững chắc của kiến thức, kĩ năng hơn là chạy theo mục tiêu đề cao, mở rộng kiến thức và tăng cường luyện tập vừa sức.
 	Trong những tiết học đồng loạt, việc luyện tập được thực hiện theo trình độ chung, nhiều khi không phù hợp với khả năng học sinh yếu kém. Vì vậy khi làm việc riêng với nhóm học sinh yếu kém, cần dành thời gian để các em tăng cường luyện tập vừa sức mình. Khi giải dạng bài có lời văn tôi cần lưu ý những điều sau đây:
 	Đảm bảo học sinh hiểu đầu bài tập: Học sinh yếu kém nhiều khi vấp ngay từ bước đầu tiên, không hiểu bài toán đó nói gì thì không thể tiếp tục quá trình giải toán. Vì vậy, giáo viên nên lưu ý giúp các em hiểu rõ đầu bài, nắm được cái gì đã cho, cái gì cần tìm cần phải tìm, tạo điều kiện cho các em vượt qua sự vấp váp đầu tiên đó.
 *Tạo thói quen khi làm bài tập theo các bước:
 - Bước 1: Đọc kĩ đề toán. Đọc chậm, hai đến ba lần và xác định dạng toán
 - Bước 2: Tóm tắt đề toán (Vẽ hình hoặc sơ đồ nếu cần).
 - Bước 3: Phân tích bài toán.
 - Bước 4: Viết bài giải.
 - Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải.
 *tạo môi trường học tập:
 Đôi bạn, nhóm bạn cùng tiến. Đặc biệt tạo nhóm học học tập trong các tiết làm bài tập. Trong nhóm gồm có học sinh khá giỏi, cũng có học sinh yếu kém để các em có điều kiện kèm cặp nhau, dìu dắt nhau cùng nhau tiến bộ.
PHẦN III: KẾT THÚC VẤN ĐỀ
 1/Kết quả thực hiện:
 	Qua một học kì vận dụng và thực hiện, tôi nhận thấy hầu như đa số đối tượng học sinh yếu hai khối tôi trực tiếp giảng dạy giảm đáng kể so với đầu năm. Điều đặc biệt là phần đa phụ huynh học sinh đều hài lòng vì lực học của con em mình ngày được nâng cao rõ rệt. Cụ thể như sau:
LỚP
GIỎI
KHÁ
TB
YẾU
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
8
0
0
5
27,7
8
44,4
5
27,7
9A
2
11,1
0
0
12
66,6
4
22,2
9B
1
6,3
6
37,5
5
31,2
2
12,5
 	Nhờ việc vận dụng sáng kiến: “ Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu” mà đến giữa kì II, năm học 2012 – 2013 học sinh yếu do môn tôi giảng dạy đã giảm đáng kể. 
 2 Kết luận:
 	Một số kinh nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng rằng:  Đây sẽ là một tài liệu nhỏ để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình huống sư phạm thích hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh yếu là nghĩa vụ, trách nhiệm của người thầy. Hãy làm hết trách nhiệm bằng cái tâm của người thầy và hãy nhận lấy trách nhiệm về mình. 
Nhưng vì khả năng có hạn nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý chân thành của đồng nghiệp nhằm giúp tôi hoàn thiện hơn trong công tác.
 3 Ý kiến đề xuất: 
 	*Đối với giáo viên: phải thực sự quan tâm yêu thương gần gũi và tạo không khí vui để học giúp các em học yếu yêu thích môn học. Tích cực sưu tầm tài liệu và học hỏi để đúc kết kinh nghiệm từ đồng nghiệp về phương pháp rèn học sinh yếu.
 	*Đối với tổ chuyên môn: Tổ chức khảo sát chất lượng đầu năm chọn ra nhóm học sinh yếu phụ đạo riêng ngay từ đầu năm và có kế hoạch phụ đạo sớm, đồng thời phụ đạo ngay từ đầu năm học.
 	*Đối với nhà trường: Xây dựng trang web có nội dung kiến thức các bài tập chỉ giới hạn trong trương trình phổ thông để các em dễ tra để xem, đồng thời hướng dẫn học sinh truy cập.
 	*Đối với học sinh: Tham gia học phụ đạo đầy đủ các buổi do nhà trường tổ chức.
Trên đây là một số kiến nghị của tôi, rất mong các cấp lãnh đạo quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện học sinh yếu học tốt hơn.
 	 Thanh Lâm, ngày 15 - 03- 2013 
 NGƯỜI THỰC HIỆN
 Đàm Văn Sáng

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem.doc
Sáng Kiến Liên Quan