Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ trong trường mầm non

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục- Đào tạo trong thời kỳ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”: Nâng cao chất lượng giáo dục cho các cấp học. Đổi mới nội dung phương pháp dạy học.Nghị quyết Đảng bộ lần thứ XIII của tỉnh ta đã xác định “Chú trọng phát triển giáo dục mầm non, tăng cường cơ sở vật chất, chấn chỉnh nề nếp, đánh giá đúng thực chất, chất lượng giáo dục”. Năm học này nhiệm vụ của toàn bậc học thực hiện đề án phổ cập trẻ mầm non 5 tuổi đều được đến trường. Cùng với nhiệm vụ phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em, hiện nay vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là mối quan tâm đặc biệt của toàn xã hội. Trong những năm gần đây đã xảy ra nhiều vụ ngộ độc thực phẩm ở các địa phương,.và nhất là nhiểm chất (Milamine.) gây ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ có trong sữa tươi. Nhà trẻ, mẫu giáo là nơi tập trung đông trẻ, bản thân trẻ còn nhỏ bé , trẻ chưa nhận thức được đầy đủ về dinh dưỡng và vệ sinh, an toàn thực phẩm nếu để xảy ra ngộ độc thực phẩm ở lứa tuổi này thì hậu quả sẽ khôn lường. Vì vậy giáo dục dinh dưỡng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, xây dựng quy chế thực phẩm sạch, đề phòng ngộ độc thức ăn là vấn đề có ý nghĩa thực tế, thiết thực và vô cùng quan trọng trong trường mầm non có tổ chức bán trú.

Danh y Việt Nam- Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIV) đã tứng nói: “Thức ăn là thuốc, thuốc là thức ăn”, chính nguồn năng lượng từ thức ăn giúp cơ thể hấp thụ và chuyển hóa các chất trong cơ thể. Ngược lại khi cơ thể không được cung cấp đủ chất dinh dưỡng thì cơ thể sẽ không phát triển bình thường và đó là nguyên nhân gây bệnh tất: suy dinh dưỡng, còi xương, thiếu máu do thiếu sắt

 Nói vế sự ảnh hưởng của việc ăn uống tới sức khỏe của trẻ, S.Freud (1835-1993) – nhà tâm lý học người Áo đã nhận thấy rằng: Sự ăn uống có ảnh hưởng rất lớn đến cân nặng của trẻ. Ông khẳng định : trong trường hợp thiếu ăn các xương cốt vẫn dài ra, trái lại cân nặng đứng nguyên hay sụt đi

 Theo nghiên cứu của Viện dinh dưỡng thì sự ăn uống có sự ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của trẻ. Trẻ được nuôi dưỡng tốt, ăn uống đầu đủ thì da dẻ hồng hào, thịt chắc nịch và cân nặng đảm bảo. Sự ăn uống không điều độ sẽ ảnh hưởng đến tiêu hóa của trẻ, nếu ăn uống không khoa học, không có giờ giấc thì thường gây ra rối loạn tiêu hóa và trẻ có thể mắc một số bệnh như: tiêu chảy, khô mắt do thiếu vitamin A

 Như vậy vấn đề ăn uồng đối với trẻ mầm non đã được quan tâm từ rất sớm. Năm 1967 tác giả M. Đ.Coovryghina mới đưa ra một số vấn đề cần lưu ý khi tổ chức năng cao bữa ăn cho trẻ trong trường mầm non như: cho trẻ ăn tùy thích, không bắt trẻ ăn để da dạy tiết dịch mạnh, giữa các bữa ăn không ăn bánh kẹo ngọt, cho trẻ ăn không đúng lúc sẽ làm giảm khẩu vị ăn. Ngoài ra thức ăn có hình thúc đẹp, mùi vị hấp dẫn thì sẽ gây cảm giác thèm ăn.

 

doc29 trang | Chia sẻ: haitina33 | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 3Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ trong trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh đảm bảo an toàn thực phẩm, vệ sinh sạch các phòng kho, vệ sinh trong khu bếp từ việc vệ sinh sàn bếp, khu sơ chế, khu chế biến , đồ dùng dụng cụ nhà bếp hay vệ sinh môi trường đảm bảo khu vực bếp luôn gọn gàng sạch sẽ
+ Thực hiện tốt các nội quy của bếp ăn bán trú, thực hiện nghiêm túc theo dây chuyền đã phân công tại bảng .
+ Vệ sinh sạch sẽ bàn chia ăn của học sinh, xoong nồi có vung đậy tránh nhiễm bẩn.
+ Tham gia các lớp tập huấn bỗi dưỡng kiến thực vệ sinh an tòa thực phẩm do Phòng Giáo dục và nhà trường tổ chức.
+ 100% Nhân viên tổ bếp tham gia thi quy chế chăm sóc giáo dục trẻ hàng năm để nâng cao tay nghề của mình.
+ Tự bản thân cá nhân tham gia học tập tự bồi dưỡng chuyên môn của mình.
+ Nhắc nhở nhau cùng làm tốt công việc vì mục đích chung của nhà trường và vì trách nhiệm của người làm công việc chế biến món ăn cho lứa tuổi mầm non.
 Khu vực bếp có gọn gàng sạch sẽ mới đảm bảo được vệ sinh an toàn thực phẩm và đảm bảo chất lượng món ăn cho trẻ
a. Vệ sinh khu vực bếp
Sắp xếp vị trí khi vực bếp ăn một chiều để thuận tiện, gọn gàng có biển rõ ràng từ nới tiếp phẩm, nơi sơ chế khu nấu chín và nơi chia cơm canh về các lớp. Tại nhà bếp có bàng phân công công việc của từng người: người nấu chính, người nấu phụ.
Bếp ăn phải có thực đơn theo mùa, theo tuần, theo ngày rõ ràng, có bảng định lượng suất ăn hàng ngày, công khai tài chính. Thực hiện nghiêm túc việc tính khẩu phần ăn cho trẻ.
Hình ảnh chia rõ các khu có biển tên rõ ràng tại nhà bếp
Hình ảnh thực đơn của trẻ theo mùa, theo tuần
Hình ảnh định lượng thực phẩm
Hình ảnh định lượng suất ăn hàng ngày của trẻ
Thực hiện nghiêm túc khâu vệ sinh bếp ăn, làm sạch đâu gọn đấy, sắp xếp đồ dùng để đúng nơi quy định
b. Vệ sinh đồ dùng, dụng cụ nhà bếp
Bát ăn và thìa của trẻ phải úp trong tủ bát thoáng, khô ráo hàng ngày được sấy, sử dụng bát thìa inox, các dụng cụ soong nồi phải sạch sẽ khô ráo dùng chất liệu inox, rổ rau và chậu to cũng sử dụng inox để đảm bảo vệ sinh và chất lượng, thớt phải được treo lên cao thoáng sạch sẽ
Hình ảnh bát được sắp xếp gọn gàng sạch sẽ trong tủ
Hình ảnh nồi, xoong được sắp xếp gọn gàng sạch sẽ trong tủ
Hình ảnh thớt dao sạch sẽ, để gọn trong tủ
Vệ sinh môi trường
Rác và thức ăn thừa hàng ngày phải đổ đúng nơi quy định, rác ngày nào phải xử lý ngay ngày đó tránh để ngày hôm sau mới xử lý gây mất vệ sinh, thùng rác để xa nơi chế biến, thức ăn thừa đổ vào xô to có nắp đậy, cống rãnh có nắp đậy.
 Nguồn nước:
Nước là một loại nguyên liệu không thể thiếu được và nó được sử dụng nhiều công đoạn chế biến thực phẩm và vệ sinh trong sinh hoạt hằng ngày đối với trẻ.
Nước nhiễm bẩn sẽ tạo nguy cơ không tốt đến sức khoẻ của trẻ. nếu dùng nước an toàn trong chế biến thực phẩm phải là nước máy và nước phải được kiểm định về vệ sinh mỗi năm một lần. Nhà trường đã sử dụng nguồn nước sạch nếu có biểu hiện khác thường thì nhân viên nhà bếp báo ngay cho nhà trường và nhà trường báo với cơ quan y tế để điều tra và xử lý kịp thời, nếu nước nhiễm bẩn sẽ gây ra ngộ độc thức ăn, và các chứng bệnh ngoài da của trẻ. Nước uống luôn được đun sôi để nguội và đựng vào bình có nắp đậy bằng inooc, tất cả các lớp đều có bình đựng nước và bình đựng nước được cọ rửa hằng ngày.
Xử lý chất thải	
Đối với trường tôi là trường bán trú có rất nhiều loại chất thải khác nhau như: Nước thải, rác thải, khí thải...Nước thải từ nhà bếp, khu vệ sinh tự hoại, rác thải từ rau củ, rác từ thiên nhiên lá cây, các loại bao nilông, giấy lộn, đồ sinh hoạt thừa, võ hộp sữa, nếu không có biện pháp xử lý tốt sẽ làm ô nhiễm môi trường. Các loại rác thải là nơi tập trung và phát triển của các loại côn trùng và chúng bay đến đậu vào thức ăn cũng sẽ gây nên các mầm bệnh, ngộ độc thức ăn ở trường. Chính vì mối nguy hiểm ấy chúng tôi thực hiện: Các chất thải ra phải cho vào thùng rác và có nắp đậy, rác thải đã được nhà trường ký hợp đồng với phòng vệ sinh môi trường thu gom và xử lý hằng ngày, vì vậy khuôn viên trường lớp không có rác thải tồn đọng và mùi hôi thối, ngoài ra nếu xe thu gom rác bị sự cố nhà trường sẽ tiêu huỷ rác tại chỗ bằng phương pháp: Đồ hố sâu, lấp rác thải kỹ từ 5-10 phân đất lên mặt tránh gây ra mùi hôi thối, đảm bảo sức khỏe cho các cháu. Trong trường có cống thoát nước ngầm để không có mùi hôi. Khu vệ sinh đại tiểu tiện luôn được nhân viên cọ rửa sạch sẽ. Xây dựng môi trường xanh sạch đẹp là một trong các tiêu chí hưởng ứng phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Năm học 2016-2017 nhà trường tiếp tục phát động sâu rộng đến toàn thể cán bộ giáo viên công nhân viên và các ban ngành đoàn thể hội cha mẹ học sinh cùng nhau xây dưng môi trường xanh sạch đẹp. đây là phong trào đã được cán bộ viên chức và toàn thể cha mẹ học sinh, đồng tình hưởng ứng nên môi trường luôn sạch đẹp, lớp học thông thoáng. 
Qua một thời gian thực hiện học sinh đã có kỹ năng bảo vệ, chăm sóc cảnh quan môi trường, giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh công cộng, trẻ biết bỏ rác đúng nơi qui đinh, đồ dùng, đồ chơi luôn được giữ gìn sạch đẹp, an toàn, thực hiện đúng phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”
3.1.4. Biện pháp 4: Biện pháp phòng nhiễm bẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh nơi chế biến:
	Phòng nhiễm bẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và nới chế biến là quan trọng vì có đảm bảo được nơi chế biến sạch sẽ thì mới đảm bảo chất lượng bữa ăn cho trẻ. Vậy làm thế nào để để phòng nhiễm bẩn vệ sinh an toàn thực phẩm ? Với trách nhiệm của người trực tiếp đứng nấu ăn được Ban Giám Hiệu giao cho nhiệm vụ bếp trưởng tôi phối kết hợp với Phó Hiệu Trưởng phụ trách nuôi dưỡng cùng phân công công việc của chị em trong tổ.
Hình ảnh nơi sơ chế thực phẩm sống
Bếp nấu ăn đảm bảo đủ ánh sáng và thoáng khí.
Bếp ăn thực hiện quy trình 1 chiều để đảm bảo vệ sinh.
Hình ảnh bếp ăn sẽ hợp vệ sinh
Tổ chức bồi dưỡng kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm cho toàn thể cán bộ viên chức trong nhà trường vào đầu năm học.
Nhà bếp luôn luôn đảm bảo vệ sinh, đảm bảo bếp ăn không bụi, có đủ dụng cụ cho nhà bếp và đồ dùng ăn uống cho trẻ, có để nguồn nước sạch phục vụ cho chế biến và cho trẻ sử dụng hằng ngày. Ngoài ra nhà bếp luôn luôn có bảng tuyên truyền 10 nguyên tắc vàng về vệ sinh an toàn thực phẩm cho mọi người cùng đọc và thực hiện. Có sơ đồ cụ thể cho một qui trình tiếp nhận thực phẩm, làm sạch, sơ chế, chế biến phân chia khẩu phần. Phân công cụ thể ở các khâu: Chế biến theo thực đơn, theo số lượng, định lượng đã cân đối của nhà trường, đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng và hợp vệ sinh.
Đối với nhân viên nấu ăn phải thường xuyên kiểm tra sức khoẻ trước khi vào năm học và khám định kỳ sau 6 tháng làm việc tiếp theo. Trong quá trình chế biến thức ăn cho trẻ đầu tóc phải gọn gàng, móng tay luôn cắt ngắn và sạch sẽ, tuyệt đối không được dùng tay bốc thức ăn khi đã nấu cho trẻ. Nhà trường kết hợp với công đoàn, đoàn thanh niên thực hiện kế hoạch trồng rau sạch cho bé tại sân trường để góp phần cung cấp dinh dưỡng và cải thiện bữa ăn cho trẻ luôn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Bếp được trang bị sử dụng bếp ga không gây độc hại cho nhân viên và khói bụi cho trẻ.
Thường xuyên cọ rửa các dụng cụ chế biến thực phẩm hằng ngày sau khi sử dụng.
Thùng chứa rác thải, nước gạo... luôn được thoát và để đúng nơi quy định, các loại rác thải được chuyển ra ngoài hàng ngày và tiêu hủy kịp thời (Đối với các loại rác thải dễ cháy)
Nhân viên phải mặc trang phục khi nấu ăn: Mang tạp dề, đội mũ khi chế biến, không mang trang sức trên tay, mang khẩu trang, găng tay khi phân chia thức ăn cho trẻ và rửa tay bằng xà phòng tiệt trùng. Hằng ngày trước khi bếp hoạt động, nhà trường có kế hoạch phân công cụ thể nhân viên cấp dưỡng thay phiên nhau đến sớm làm công tác thông thoáng phòng cho không khí lưu thông và lau dọn sàn nhà, kệ bếp, kiểm tra hệ thông điện, ga trước khi hoạt động. Nếu có điều gì biểu hiện không an toàn thì nhân viên cấp dưỡng báo ngay với ban giám hiệu nhà trường biết và có kế hoạch xử lý. Ngoài công tác vệ sinh hằng ngày, hằng tuần phải tổng vệ sinh xung quanh nhà bếp, vệ sinh nhà bếp, dụng cụ nhà bếp, dụng cụ ăn uống, nhà ăn của trẻ , khu chế biến, khu nấu ăn, khu chia cơm cho trẻ.
Hình ảnh nhân viên nhà bếp luôn mang tạp dề, đội mũ khi làm việc
Khu chế biến thực phẩm được đảm bảo vệ sinh và tránh xa nhà vệ sinh, bãi rác khu chăn nuôi... không có mùi hôi thối xảy ra và được sử dụng đúng qui trình từ sống đến chín. Dao thớt chế biến xong luôn được rửa sạch để ráo hàng ngày và được sử dụng đúng giữa thực phẩm sống và chín. Cuối tuần phải cho qua nước sôi để khử trùng.
3.1.5.Biện pháp 5: Tăng cường công tác bồi dưỡng giáo dục vệ sinh: 
	Hiện nay nguồn thực phẩm đã phần nào được đảm bảo thì cũng cần phải tăng cường bôi dưỡng giáo dục vệ sinh để chất lượng món ăn cho trẻ luôn sạch sẽ hợp vệ sinh 
+ Bám sát công việc của tổ bếp tham mưu với Ban Giám Hiệu nhà trường các đồ dùng dụng cụ cần thiết để mua sắm kịp thời phục vụ công tác chăm sóc giáo dục trẻ
+ Tham mưu trong các cuộc họp nhà trường các vấn đề vướng mắc để Ban Giám Hiệu nhà trường cho ý kiến chỉ đạo kịp thời
+ Tổng hợp các mong muốn của chị em trong tổ nuôi đưa ý kiến đó lên cấp trên để xem xét
+ Tổ chức họp tổ nuôi mời Ban Giám Hiệu nhà trường để cùng nhau thảo luận ra các biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm 
+ Nhân viên tổ bếp cùng nhau có ý thức trong việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm từ bản thân mình cùng như môi trường làm việc.
Nơi chế biến thực phẩm luôn thường xuyên giữ vệ sinh sạch sẽ có dụng cụ riêng cho thực phẩm sống và chín.
a. Vệ sinh đối với nhân viên nuôi dưỡng:
Nhân viên nuôi dưỡng phải được khám sức khỏe định kỳ 6 tháng một lần, có phòng riêng dành cho nhân viên nuôi dưỡng có nơi thay quần áo và vệ sinh riêng, không dùng chung với khu chế biến thức ăn cho trẻ tạo điều kiện tốt nhất cho cấp dưỡng được tham gia các lớp tập huấn hoặc các lớp bồi dưỡng những kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm giúp cho nhân viên nuôi dưỡng hiểu được trách nhiệm của mình là phải đảm bảo nuôi dưỡng trẻ luôn khỏe mạnh và an toàn. Nhân viên nuôi dưỡng phải thực hiện nghiêm túc khâu vệ sinh cá nhân trong quá trình chế biến cho trẻ, luôn sử dụng tạp dề, khẩu trang, găng tay trong suốt quá trình chế biến. Đầu tóc gọn gàng, móng tay, móng chân cắt ngắn, sạch sẽ, rửa tay bằng xà phòng trước và sau khi chế biến thức ăn cho trẻ, khi tay bẩn, sau khi đi vệ sinh và rửa tay sau mỗi công đoạn chế biến. Dùng khăn lau tay riêng, được giặt và phơi khô hàng ngày. Phải tuân thủ theo quy trình sử dụng dụng cụ chế biến thức ăn theo nguyên tắc một chiều, không tùy tiện sử dụng đồ dùng, dụng cụ đựng, chế biến thực phẩm sống, chín lẫn lộn. Không được khạc nhổ trong lúc chế biến thức ăn cho trẻ, khi nêm ném thức ăn còn thừa phải đổ đi. Khi chia thức ăn cho trẻ phải mamg khẩu trang, găng tay và chia thức ăn bằng dụng cụ. Tuyết đối không dùng tay để bốc và chia thức ăn, thực hiện nghiêm túc việc phân chia thức ăn cho trẻ phải đảm bảo số lượng và định lượng..
b. Vệ sinh cá nhân đối với giáo viên phụ trách tại lớp:
Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp chăm sóc trẻ trong trường mầm non nhất là tại lớp bán trú. Nên công tác vệ sinh cá nhân của cô giáo cùng là một yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Vì vậy cô giáo phải rửa tay bằng xà phòng trước khi chia thức ăn và mang khẩu trang, găng tay, dùng dụng cụ chia thức ăn riêng. 
Chuẩn bị đầy đủ bàn ghế, khăn lau tay, đĩa đựng thức ăn thừa cho trẻ, cô luôn động viên trẻ ăn hết suất.
Tổ chức cho giáo viên được khám sức khỏe định kỳ 6 tháng 1 lần như cấp dưỡng.
Giáo viên luôn ứng xử nhẹ nhàng đối với trẻ ở mọi lúc mọi nơi để tạo cho trẻ một tâm thế ổn định về thể chất lẫn tinh thần. Và không ngừng thu thập nhưng thông tin quan trọng về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với trẻ nói riêng và người tiêu dùng nói chung. Để đúc kết và rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc đảm bảo VSATTP trong trường mầm non.
c. Vệ sinh cá nhân trẻ:
Như các bạn đã biết vệ sinh an toàn thực phẩm là phần quan trọng có ảnh hưởng nhất định đến khả năng phát triển cơ thể trẻ.
Bồi dưỡng cho giáo viên kiến thức hướng dẫn trẻ thực hành vệ sinh cá nhân qua các lần sinh hoạt, hội họp bán trú tại trường. Tổ chức kiểm tra công tác vệ sinh đối cá nhân trẻ từ đó rút kinh nghiệm và hướng dẫn trẻ thực hành vệ sinh cá nhân được tốt hơn. Trẻ phải được rửa tay trước khi ăn bằng xà phòng dưới vòi nước chảy, rửa xong dùng khăn lau khô. Dạy trẻ rửa tay sau khi đi vệ sinh và khi tay bẩn, luôn cắt ngắn móng tay, móng chân cho trẻ, vì đây là những nơi vi khuẩn có thể xâm nhập vào cơ thể trẻ thông qua nhiều hình thức như vô tình tre bốc thức ăn bằng tay...Dạy trẻ có thói quen biết giữ gìn vệ sinh trong ăn uống: Ăn chín, uống sôi, thói quen ăn uống văn minh: Ăn chậm, nhai kỹ, ăn uống từ tốn tránh rơi vãi, khi thức ăn rơi vãi nhặt bỏ vào nơi quy định (đĩa bỏ thức ăn thừa). Khi ăn xong trẻ phải biết đánh răng, súc miệng sạch sẽ và uống nước.
3.1.6. Biện pháp 6. Kiểm tra quá trình chế biến thực phẩm:
	Việc kiểm tra quá trình chế biến thực phẩm rất quan trọng trong việc đảm bảo an toàn thực phẩm vì quá trình chế biến có sạch sẽ an toàn thì mới đảm bảo chất lượng món ăn cho trẻ và đảm bảo tỉ lệ các chất bữa chính ,bữa phụ chiều của trẻ. Trẻ có phát triển khỏe mạnh cân đối hay không đều phụ thuộc vào những món ăn ngon đảm bảo các chất dinh dưỡng
	Với trách nhiệm của mình tôi thấy cần bao quát khâu chế biến thực phẩm để bữa ăn của trẻ luôn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm:
+ Trước khi chế biến thực phẩm sống, nhân viên cấp dưỡng rửa dụng cụ: Dao, thớt sạch sẽ để tránh nhiễm khuẩn, rêu mốc trên dao thớt.
+ Thức ăn chín phải đảm bảo đủ thời gian và nhiệt độ, không để thực phẩm sống tiếp xúc với thực phẩm chín.
+ Dụng cụ cho trẻ ăn uống như: Bát, thìa, ly, thau, xô... phải được rửa sạch để ráo trước khi sử dụng.
+ Kiểm tra kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm cho nhân viên, giáo viên, về cách xử lý thực phẩm từ khâu chọn nguyên liệu thực phẩm đến chế biến và bảo quản thực phẩm. 
*Đối với cấp dưỡng, nhân viên nhà bếp: 
Lên lịch kiểm tra theo dõi cấp dưỡng, nhân viên nhà bếp thực hiện kế hoạch đề ra về công tác thu mua thực phẩm hằng ngày, về công tác đảm bảo VSATTP , đảm bảo số lượng theo yêu cầu hay không để kịp thời bổ sung điều chỉnh cho hợp lý.
Theo dõi giám sát việc chế biến thực phẩm cho trẻ có đúng theo quy trình đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm hay không. Trong khi chế biến cấp dưỡng có trang bị đầy đủ đồ dùng, dụng cụ bảo hộ để đảm bảo vệ sinh trong khi chế biến thức ăn cho trẻ như: Tạp dề, khẩu trang....Từ đó rút ra những ưu điểm, tồn tại và nêu rõ hướng khắc phục sữa chữa.
*Đối với giáo viên phụ trách trẻ tham gia bán trú:
Lên lịch kiểm tra nề nếp vệ sinh khu vực lớp, sàn lớp có lau chùi thường xuyên hay không, công trình phụ phải được khử trùng duyệt khuẩn hằng ngày để đảm bảo vệ sinh an toàn cho trẻ.
Khi phân chia thức ăn giáo viên cũng phải trang bị đồ bảo hộ để đảm bảo vệ sinh, và luôn cảnh giác với những nguy cơ gây mất an toàn đối với vệ sinh thực phẩm cho trẻ sử dụng. Qua đó nhận xét góp ý những ưu khuyết điểm tồn tại, những mặt ưu điểm cần phát huy hơn nữa, khắc phục những khuyết điểm để thực hiện công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tốt hơn trong thời gian đến 
3.1.7. Biện pháp 7. Tuyên truyền giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm trong cán bộ giáo viên, phụ huynh và học sinh:
Tuyên truyền phổ biến cách giữ vệ sinh môi trường và có biện pháp phối hợp chặt chẽ với các bậc cha mẹ học sinh. 
Phối hợp với hội cha mẹ giám sát quy trình chế biến và chất lượng bữa ăn cho trẻ. Làm cho phụ huynh nhận thức và có trách nhiệm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ngay những lúc trẻ không đến trường.
Tuyên truyền với phụ huynh về vệ sinh an toàn thực phẩm thông qua các cuộc họp. Kết hợp với các ban ngành đoàn thể triển khai các công văn chỉ thị phòng chống bệnh theo mùa, tuyên truyền tháng vệ sinh an toàn thực phẩm trong cộng đồng.
3.2. Các biện pháp nâng cao bữa ăn cho trẻ
3.2.1.Biện pháp 1. Bổ sung thực phẩm
	Để bổ sung thêm chất lượng bữa ăn cho trẻ tôi đã lựa chọn:
Tăng chất béo bằng cách: Cho dầu hoặc mỡ vào canh của trẻ
Giảm lượng bột đường bằng cách: nấu cơm bằng gạo dẻo
Tăng cường canxi trong bữa ăn: đậu phụ, cá, đỗ, sữa đậu nành, trứng, tôm, cua trong khẩu phần ăn 
Tăng lượng vitamin bằng cách: cho thêm dầu rau xanh, hoa quả tráng miệng vào bữa ăn của trẻ
Kiểm tra lại chất lượng thực phẩm sạch khi bên giao tại cơ sở ký kết mang đến bếp ăn
3.2.2. Biện pháp 2: Cải tiến phương pháp chế biến
	Thay đổi cách chế biến bằng cách tăng thêm mùi vị gây hấp dẫn cho trẻ 
Hình ảnh món ăn ngon trong hội thi nhân viên nuôi dưỡng giỏi
Lưu ý khi rửa rau tránh vò nát rau làm mất đi lượng B1, nấu thức ăn phải đậy vung kín, không đảo khuấy nhiều, khi ninh xương ninh kỹ hớt bỏ bọt để tận dụng vị ngọt trong xương
3.2.3. Biện pháp 3: Thay đổi thực đơn theo tuần
Thực đơn lên phù hợp với mùa, có đầy đủ các nhóm chất và các loại rau củ phù hợp với từng mùa 
4. Kết quả
 Qua quá trình áp dụng và thực hiện một số biện pháp trên đã cho tôi kết quả sau: ( đánh giá trên 800 trẻ)
STT
TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ
ĐẦU NĂM
TỶ LỆ %
CUỐI NĂM
TỶ LỆ %
1
Số trẻ ăn ngon miệng, hết suất
600 
75 %
750
94 %
2
Số trẻ lười ăn thịt
200
25 %
80
10 %
3
Số trẻ không ăn rau và hành
150
19 %
30
4 %
4
Số trẻ khồng thích ăn những món ăn có mùi thơm như: nấm hương
50
7 %
0
0
5
Số trẻ không ăn hết suất của mình
200
25 %
50
6 %
6
Số trẻ không thích chất tanh như: Tôm cá
250
32 %
130
16 %
7
Số trẻ không thích ăn cháo
( nhà trẻ = 120 trẻ)
40
34 %
110
92 %
III. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ
a. Kết luận
Công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là mối quan tâm của toàn xã hội hiện nay. Vai trò của người cán bộ quản lý một trường có tổ chức cho trẻ ăn bán trú thì đây là một trách nhiệm nặng nề đòi hỏi người cán bộ quản lý luôn năng động, sáng tạo và đầu tư có hiệu quả trong công tác xây dựng và tiếp cận với tất cả các hoạt động trong trường mầm non.
Mục đích đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non là giúp trẻ khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, khơi dậy ở trẻ tính tò mò ham hiểu biết.. Chính vì vậy mà mỗi chúng ta cần phải quan tâm và đầu tư có hiệu quả vào trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ để giúp trẻ có một sức khoẻ tốt. Đó là những kinh nghiệm quý báu theo chúng ta đi suốt những năm tháng trong công tác làm công tác chăm sóc giáo dục trẻ. 
Qua hai năm thực hiện tổ chức chương trình chăm sóc giáo dục trẻ có tổ chức ăn bán trú, bản thân tôi nhận thấy đây là bài học giúp cho toàn thể cán bộ giáo viên có kiến thức cơ bản về mọi mặt trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ ở trường lớp mầm non, đặc biệt là cách giữ vệ sinh an toàn thực phẩm trong công tác bán trú ở trường mầm non. Vì vậy bản thân không ngừng phát huy những mặt đã đạt được, trên cơ sở đó tiếp tục nâng cao vai trò quản lý của mình để cùng nhau đưa chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ đáp ứng với xu thế xã hội ngày càng phát triển trong đó có giáo dục mầm non.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng đến tất cả các bậc cha mẹ học sinh và cộng đồng giúp họ thấy được tầm quan trọng của việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non và gia đình. 
b. Kiến nghị
 - Hàng năm Phòng giáo dục- Đào tạo liên hệ với trung tâm y tế Quận tổ chức cho toàn thể cán bộ cốt cán bậc học mầm non tham gia tập huấn về vệ sinh an toàn thực phẩm và cách phòng ngừa các dịch bệnh thường xuyên xảy ra trong trường mầm non. Đồng thời phòng tránh các dịch bệnh như: Phun thuốc diệt muỗi, các loại côn trùng có hại....
- Tôi mong phòng giáo dục đào tạo và ban giám hiệu nhà trường bồi dưỡng thêm về chuyên môn cho các tổ nuôi chúng tôi được thường xuyên để các cô có thêm nhiều kinh nghiệm hơn để vận dụng vào công việc của mình.
- Tôi rất mong được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường, các cô giáo cùng các chị em trong tổ bếp ủng hộ và giúp đỡ tôi để tôi có thể hoàn thành công việc ở nhà cũng như ở trường.
Trên đây là những kinh nghiệm của tôi, tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cô, các chị trong trường cũng như các cô, các chị ở trường bạn để tôi được hoàn thiện hơn trong nhiệm vụ của mình. 
Tôi xin chân thành cảm ơn!

File đính kèm:

  • doccsndbui_minh_huynh_mn_hoa_thuy_tien_196201710.doc
Sáng Kiến Liên Quan