Sáng kiến kinh nghiệm Giúp giáo viên khối Một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt
- Đối với Giáo viên:
Giáo viên còn nhiều bỡ ngỡ trong việc thiết kế một kế hoạch dạy học phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh để nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt.
Vận dụng phương pháp dạy học chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh nên chất lượng chưa cao, một số giáo viên chưa nhiệt tình giúp đỡ học sinh.
- Đối với Học sinh
Có nhiều em chưa biết chữ cái, chưa biết cầm viết và chưa quen với nền nếp học tập.
Vốn hiểu biết, vốn từ ngữ và kĩ năng giao tiếp của học sinh lớp 1 còn rất nhiều hạn chế.
Từ trường mầm non chuyển sang lớp 1 là một bước ngoặt lớn, chuyển từ môi trường quen được chăm sóc sang môi trường với hoạt động học là chính, trẻ có thể bị “sốc” hoặc mất tập trung, thậm chí sợ hãi nếu bị ép buộc phải ngồi học quá lâu. Một số em còn nhút nhát, chưa tự tin khi nói, khi trao đổi với cô giáo hay tương tác với bạn, một số em còn ham chơi, thiếu tập trung và chưa chủ động trong học tập.
Có một số em bị bệnh lý bẩm sinh, học hay quên; lười học; do hoàn cảnh gia đình.
Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ Giáo dục trẻ em là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà cả xã hội đều quan tâm, bởi vì “ Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai”, để ngày mai thế giới có những chủ nhân tốt, xã hội có những công dân tốt thì ngay từ ngày hôm nay chúng ta phải đào tạo thế hệ trẻ có kiến thức để các em được học lên các cấp học trên dễ dàng. Nhiệm vụ giáo dục học sinh luôn luôn được xã hội quan tâm nhưng quan trọng hơn cả vẫn là nhà trường, đặc biệt là trường Tiểu học. Bởi vì nhà trường nói chung và trường Tiểu học nói riêng là nơi kết tinh trình độ văn minh của xã hội trong công tác giáo dục trẻ em. Đứa trẻ ngày hôm nay và mai sau trở thành những người như thế nào là tuỳ thuộc rất nhiều vào cấp tiểu học các em được học những gì. Trong thời gian này xã hội đang nói rất nhiều về giáo dục, về chất lượng học sinh lên lớp, về những học sinh ngồi nhầm lớp từ khi có cuộc vận động “ hai không” của Bộ trưởng Bộ giáo dục. Những người làm công tác giáo dục như tôi không khỏi suy nghĩ phải làm gì, làm như thế nào để “sản phẩm” của mình phải có chất lượng, những lí do trên đã thôi thúc tôi cần phải có kế hoạch và biện pháp cụ thể góp phần đưa chất lượng học sinh trong nhà trường đạt hiệu quả tốt. Là giáo viên dạy lớp 1 tôi đặc biệt chú trọng đến khối lớp Một vì lớp Một là lớp rất quan trọng ở tiểu học, nếu các em không đọc thông viết thạo thì các em làm toán cũng rất khó khăn và học các môn học khác cũng rất chậm. Qua thực tế giảng dạy và tôi đã chọn : “Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt.” 1.Thực trạng của vấn đề a. Ưu điểm. - Học sinh lớp một phần lớn các em chăm ngoan và rất chịu khó,có hứng thú học . 1 Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt dục và đào tạo thẩm định hay việc lựa chọn nội dung thay thế để giảng dạy và học tập ở lớp 1 gặp nhiều khó khăn. - Đối với Giáo viên: Giáo viên còn nhiều bỡ ngỡ trong việc thiết kế một kế hoạch dạy học phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh để nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt. Vận dụng phương pháp dạy học chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh nên chất lượng chưa cao, một số giáo viên chưa nhiệt tình giúp đỡ học sinh. - Đối với Học sinh Có nhiều em chưa biết chữ cái, chưa biết cầm viết và chưa quen với nền nếp học tập. Vốn hiểu biết, vốn từ ngữ và kĩ năng giao tiếp của học sinh lớp 1 còn rất nhiều hạn chế. Từ trường mầm non chuyển sang lớp 1 là một bước ngoặt lớn, chuyển từ môi trường quen được chăm sóc sang môi trường với hoạt động học là chính, trẻ có thể bị “sốc” hoặc mất tập trung, thậm chí sợ hãi nếu bị ép buộc phải ngồi học quá lâu. Một số em còn nhút nhát, chưa tự tin khi nói, khi trao đổi với cô giáo hay tương tác với bạn, một số em còn ham chơi, thiếu tập trung và chưa chủ động trong học tập. Có một số em bị bệnh lý bẩm sinh, học hay quên; lười học; do hoàn cảnh gia đình. - Đối với Phụ huynh học sinh Một số gia đình không quan tâm đến con em mình, phó mặc khoán trắng cho nhà trường. Cha mẹ học sinh chưa nhận thức đầy đủ và đúng đắn về chủ trương, mục tiêu của Chương trình GDPT 2018. Phần lớn không biết cách hướng dẫn con học; 3 Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt Nhóm 2: Gồm những học sinh bình thường Nhóm 3: Gồm những học sinh năng khiếu - Giáo viên có thể thay tên nhóm 1,2,3 thành tên khác như nhóm A,B,CTrong quá trình dạy giáo viên vẫn phải lấy chuẩn để làm thước đo nhưng ở các tiết ôn tập, các giờ ôn của buổi chiều giáo viên yêu cầu các em thực hiện nhiệm vụ với 3 mức khác nhau trong cùng một giờ học. Ví dụ: Nhóm 1 các em đọc nhiều lần hơn, viết ít hơn so với nhóm 2 và 3. Các dạng bài đọc và viết về vần đều có thể vận dụng phương pháp này. Chẳng hạn bài 26 vần an,at sách Tiếng việt vì sự bình đẳng các em chỉ cần viết an, at, bàn là, bát chè, mỗi vần, mỗi từ chỉ một dòng, trong khi đó các em ở nhóm 2,3 viết nhiều hơn mỗi loại như trên từ 2 đến 3 dòng. Các em ở nhóm 1 chỉ cần viết theo yêu cầu chuẩn. - Trong các giờ ra chơi cho những em học sinh chậm, học sinh khó khăn ở lại phòng học, giáo viên tiếp tục kèm cho các em đọc, viết nội dung nào các em còn gặp khó khăn. b. Phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học như tranh, ảnh, vật thật.cho học sinh học chậm. - Ở lứa tuổi học sinh tiểu học nhất là học sinh lớp Một khả năng tư duy trừu tượng kém, phần lớn các em phải dựa trên những mô hình vật thật, tranh ảnh, do vậy trong các giờ học việc yêu cầu giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học là không thể thiếu kể cả đồ dùng do giáo viên tự làm, đồ dùng dạy học là phương tiện truyển tải thông tin và là nội dung truyền thụ kiến thức giáo dục tư cách, rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh, nó có tác dụng điều khiển hoạt động của học sinh từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, kích thích hứng thú cho học sinh học tập. Có nhà giáo dục trẻ cho rằng trẻ không sợ học mà chỉ sợ những tiết học 5 Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt c. Người giáo viên cần có lòng nhiệt tình, luôn quan tâm giúp đỡ học sinh. Tôi và giáo viên dạy khối Một hiểu rằng các em học sinh lớp Một mới từ mẫu giáo chuyển lên nên việc tiếp thu kiến thức thông qua hình thức: Học mà chơi, chơi mà học, giáo viên phải nhẹ nhàng ân cần dạy bảo các em luôn tạo không khí thoải mái, vui vẻ trong giờ học, một lời nhận xét động viên các em giúp các em thấy tự tin và phấn khởi, sự chỉ bảo ân cần là điều rất cần thiết, tránh quát mắng các em khi các em làm sai hay chưa làm được. Đặc biệt không được ngồi một chỗ bảo các em đọc đi, viết đi mà giáo viên phải đi xuống bên học sinh xem em nào đã làm được còn em nào làm chưa được nhắc nhở các em, chỉ cụ thể cho các em nhất là với các em học chậm cần nhắc lại hay cầm tay các em để các em viết cho đúng. Làm sao để mỗi ngày các em đến trường là một ngày vui. Giáo viên phải gần gũi với học sinh thì mới hiểu được về học sinh của mình, để hình ảnh ân cần của cô luôn là hình ảnh đẹp trong ánh mắt của các em, bản thân các em cũng thấy cô giáo như người thân trong gia đình sẵn sàng kể cho cô nghe những niềm vui hoặc những khó khăn của mình trong học tập hay trong sinh hoạt hàng ngày mà cần cô giúp đỡ. - Ví dụ: Em Nguyễn Trung Trường lớp 1 em viết rất hay sai, không đúng cỡ chữ, một số chữ hay lẫn lộn trong 3 tháng đầu năm học. Giáo viên luôn đến tận nơi khi cầm tay, khi chỉ hàng cho em cùng với lời khen dù chỉ là tiến bộ nhỏ nhất, tôi theo dõi hàng tháng để xem em đó tiến bộ như thế nào, quả thật đến nay em Trường đã tiến bộ rõ rệt, chữ viết đã đúng, rõ ràng, thẳng hàng. * Tóm lại: Qua việc theo dõi quá trình dạy học, tôi nhận thấy nếu người giáo viên biết lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp với từng trình độ học sinh của một lớp cùng với lòng nhiệt tình, quan tâm giúp đỡ học sinh học chậm thì chất lượng học sinh ngày một nâng lên. 7 Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt b. Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình như mồ côi, cha mẹ bất hoà, cuộc sống khó khăn. - Nguyên nhân này cũng là yếu tố làm giảm chất lượng học sinh, trong quá trình tìm hiểu thực tế cho thấy nhiều em đến lớp không viết bài, ngồi ngơ ngác có khi còn ngủ gật, không chú ý cô giảng bàiĐối tượng học sinh này cần được quan tâm nhiều cả về vật chất lẫn tinh thần. Vì vậy muốn các học sinh này học tốt giáo viên phải nắm được hoàn cảnh thực tế của các em từ đó mới có biện pháp cụ thể để dạy các em. - Giáo viên phải có biện pháp dạy và tạo điều kiện tốt cho các em học tập, Ban giám hiệu trường chủ động tham mưu với hội phụ huynh học sinh, các cơ quan đóng trên địa bàn giúp đỡ về vật chất như tập, đồ dùng, quần áo. Ví dụ: Lớp 1 có em Nguyễn Văn Đạt cha mẹ em ly hôn nhau, sống với bà nội, em hay nghỉ học, đến lớp ngồi một mình không tham gia hoạt động cùng với các bạn, em học kém, hay quên tập vở. Tôi luôn gần gũi, động viên em, khi thấy em nghỉ học không lí do cần đến nhà gặp gia đình của em, giúp em cùng chơi và hoà nhập với các bạn. Đồng thời tôi cho em để một số sách vở ở lớp để em khỏi quên như tập hát, tự nhiên xã hội, vở bài tập các loại. Một vài lần kiểm tra, tôi thấy em Đạt cũng đã tiến bộ nhiều, em vui hơn khi tham gia chơi cùng bạn bè và không còn ngồi buồn nữa. *Tóm lại: Đối với học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, giáo viên cần quan tâm, giúp đỡ, động viên các em giúp các em tự tin trong học tập và hoà nhập với cộng đồng, cần giúp đỡ các em cả vật chất và tinh thần * Biện pháp thứ ba: Làm thế nào để phụ huynh quan tâm tới con em mình không khoán trắng cho nhà trường và thấy được sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình là rất cần thiết. 9 Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt Mục tiêu: Giáo viên cần có kĩ năng xây dựng kế hoạch dạy học Tiếng việt nhằm phát triển phẩm chất, năng lực học sinh một cách phù hợp, mang lại hiệu quả giáo dục cao Cách thực hiện: Giáo viên cần nắm vững yêu cầu của chương trình, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện thực tế của lớp học để xây dựng kế hoạch bài học cho phù hợp (về thời lượng, tiến độ thực hiện, xác định phẩm chất, năng lực cần đạt, phân hóa đối tượng, dạy học phát triển). Giáo viên xác định cụ thể những phẩm chất, năng lực chung và năng lực đặc thù nào cần phát triển trong mỗi bài học thực tế. Ví dụ: Trong bài tuần 31 trang 121 sgk Tiếng việtbộ vì sự bình đẳng, giáo viên chỉ rõ trong mục tiêu của bài như sau: - Rèn đức tính trung thực qua hoạt động biết nhận lỗi của bạn Tộ , (phẩm chất) - Biết tôn trọng người lớn, cách ứng xử phù hợp với mọi người xung quanh qua hoạt động mở rộng (phẩm chất) - Tự tin, trách nhiệm, biết giúp đỡ bạn khi làm việc nhóm (phẩm chất) - Phát triển năng lực ngôn ngữ qua hoạt động luyện nói, nói câu chứa âm, vần vừa học (năng lực) - Năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề thông qua việc giải quyết các nhiệm vụ học tập trong nhóm (năng lực) Tùy theo đặc điểm đối tượng học sinh của từng lớp, giáo viên cần có kế hoạch dạy học phân hóa, thực hiện theo chuyên đề Phòng GD&ĐT đã triển khai: Đánh giá, phân loại về năng lực học tập của học sinh Xây dựng kế hoạch, nội dung và lựa chọn hình thức, phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng 11
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_giup_giao_vien_khoi_mot_nang_cao_chat.docx
BIA.docx
LOAN_TT.pptx