Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy và bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành ở trường tiểu học

- Việc học sinh học chưa hoàn thành là vấn đề đau đầu từ các cấp lãnh đạo cho đến giáo viên đang giảng dạy, nhiều giáo viên mất ăn, mất ngủ để tìm được những giải pháp có thể giúp học sinh chưa hoàn thành tiến bộ. Và cũng không có gì vui hơn khi nhìn thấy học sinh mình học tập ngày càng tiến bộ.

- Qua nghiên cứu từ thực tiển và kinh nghiệm dạy học của giáo viên thời gian qua. Chúng ta tạm thời định nghĩa học sinh chưa hoàn thành như sau:

* Thế nào là học sinh chưa hoàn thành ? Là những học sinh bằng kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm của bản thân mình, dưới sự hướng dẫn của giáo viên không tự giải quyết được những mâu thuẩn trước mắt để tự chiếm lĩnh tri thức của bài học, hoặc bị hụt hẫng, chậm chạp trong vận dụng các kiến thức kĩ năng cơ bản vốn có ở học sinh để giải quyết một bài tập hay một yêu cầu được đặt ra trong quá trình dạy và học

 

doc26 trang | Chia sẻ: phangia015 | Lượt xem: 1471 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy và bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành ở trường tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h miền núi. Qua quá trình công tác bản thân tôi nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh chưa hoàn thành . Chưa tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học chưa hoàn thành mà bản thân tôi nhận thấy trong quá trình công tác. Qua việc phân tích những nguyên nhân đó, bản thân đưa ra một số biện pháp để giáo dục, bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành. Trong phạm vi của bài viết, bản thân chỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành ở hai môn : Toán và Tiếng Việt. 
CHƯƠNG III :
NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN MANG TÍNH KHẢ THI
1/ Những biện pháp chung :
+ Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện. Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười, giáo viên tạo sự gần gũi để các em mới có cảm giác an toàn bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình. Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không trách mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Hoặc có thể dùng các phiếu thưởng có in các lời khen phù hợp với từng việc làm của các em như: “Biết giúp đỡ người khác”, “ Thái độ nhiệt tình và tích cực” 
+ Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh. Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh chưa hoàn thành đúng với những đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát. Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này. Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh chưa hoàn thành được củng cố và luyện tập phù hợp. Ví dụ khi học bài: Khái niệm số thập phân (Toán – lớp 5), đối với các em học sinh chưa hoàn thành thì các em chỉ cần nắm mục tiêu thứ nhất: “ Nhận biết số thập phân ” là đạt yêu cầu rồi. Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình trong tập thể. Yêu cầu của một tiết luyện tập là 4 bài tập, các em này có thể hoàn thành 1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em. Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức bồi dưỡng cho những học sinh chưa hoàn thành khi các biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức bồi dưỡng từ 1 đến 2 buổi trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức bồi dưỡng phải kết hợp với hình thức vui chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng nề.
+ Giáo dục ý thức học tập cho học sinh: Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức. Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện nay, ở vùng miền núi cũng có một số phụ huynh luôn gò ép việc học của con em mình, sự áp đặt và quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Bản thân giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên. 
+ Kèm cặp học sinh chưa hoàn thành ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh chưa hoàn thành là bao nhiêu để có kế hoạch bồi dưỡng. Như học sinh lớp 5 mà bản thân chủ nhiệm trong năm học 2014 - 2015, sau khi thi khảo sát chất lượng đầu năm thì có 03 học sinh chưa hoàn thành cả về Toán và Tiếng Việt và bản thân đã lên kế hoạch bồi dưỡng cho các em. Lập danh sách học sinh chưa hoàn thành (theo mẫu dưới đây) và chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết dạy thường xuyên gọi các em đó lên trả lời câu hỏi, khen ngợi các em khi các em trả lời đúng, 
TT
Họ và tên HS
Năm sinh
Môn
Biểu hiện CHT
Con ông(bà)
Nơi ở
Ghi chú
TV
Toán
+ GV chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học của học sinh, cùng với phụ huynh tìm biện pháp khắc phục. 
2/ Những biện pháp cụ thể: 
* Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Tiếng Việt và biện pháp khắc phục: 
+ Tập đọc: Dù là học sinh lớp 5, nhưng trong lớp còn một số em đọc rất chậm. Như em Đinh Văn Hà, Đinh Văn Thành, Đinh Văn Soan. Nguyên nhân đọc chậm ở các em là ngắt nghỉ hơi chưa đúng dấu câu, cụm từ, không phân biệt được các dấu câu (em Đinh Văn Soan), chưa đạt được tốc độ đọc của học sinh lớp 5, với những cụm từ khó thì phải đánh vần, tùy tiện lượt bớt hoặc thêm từ vào khi đọc. Bên cạnh đó, khả năng đọc trôi chảy, đọc hiểu và một văn bản còn hạn chế. 
+ Chính tả: Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng. Vì vậy, các em đọc chậm thường cũng viết chậm. Nguyên nhân các em viết chậm là do chưa hiểu và nắm nghĩa của từ, không nắm vững âm, vần, dấu thanh và cách ghép, một số mắc lỗi do phát âm chưa đúng nên dẫn đến viết chậm. 
+ Luyện từ và câu: Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết câu. 
+ Tập làm văn: Khả năng đọc, viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt bằng lời, diễn đạt khi viết. Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm cho hạn chế khả năng hiểu biết của các em. Vì vậy, các em gặp khó khăn khi cần mở rộng vốn hiểu biết về cuộc sống theo các chủ điểm đã học thông qua các kỹ năng như: phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn 
* Biện pháp : 
+ Tập đọc: Đối với những học sinh đọc chậm thì giáo viên cần: Tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc và các môn học khác như: thường xuyên gọi các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và cho các em luyện đọc lại từ sai nhiều lần. Nếu thời gian của tiết học không đủ thì giáo viên có thể tranh thủ cho các em luyện đọc thêm vào giờ giải lao 5 hoặc 10 phút. Dặn các em về nhà đọc lại bài, có thể đọc tham khảo thêm một văn bản, một bài tập đọc khác có nội dung phù hợp và quan trọng là giáo viên phải kiểm tra và nhận xét việc đọc ở nhà của các em để động viên khuyến khích kịp thời. Bên cạnh đó, thỉnh thoảng một hoặc hai tuần giáo viên có thể đến nhà gặp phụ huynh học sinh để xem cách học ở nhà của các em như thế nào, nếu thấy cần thiết thì giáo viên đưa ra biện pháp giúp đỡ. Giáo viên tạo góc thư viện cho học sinh đọc truyện thiếu nhi, truyện cổ tích đọc vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện giọng đọc của mình, đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn nhận xét về sự tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta sẽ tạo được niềm tin nơi các em rất nhiều là động lực thúc đẩy các em say mê luyện đọc. Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện đọc trôi chảy thông qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở rộng vốn từ và hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một số từ trong bài đọc, từ đó giúp các em hiểu nội dung bài đọc. 
+ Chính tả: Đối với những học sinh viết chậm thì giáo viên cần: Tổ chức cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh mỗi ngày viết khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ, câu. Sau đó, giáo viên đọc cho học sinh viết một đoạn văn mà sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng ta có thể cho các em viết vào giờ ra chơi hoặc về nhà viết. Các em sẽ có một vở riêng để luyện viết và giáo viên phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét kịp thời. Nếu có điều kiện thì yêu cầu các em đến nhà của giáo viên để luyện viết thì các em sẽ tiến bộ nhanh hơn. Chỉ cần các em nắm hết các âm, vần thì dần dần các em sẽ viết đúng chính tả và nhanh hơn. Khi các em đã nắm được các âm, vần thì đối với bài chính tả trong sách giáo khoa, giáo viên cần cho học sinh nêu từ khó và luyện viết từ khó nhiều lần, nhiều từ. Có thể cho các em có chọn từ để luyện viết thêm. Đối với chính tả nhớ viết, các em này thường nhớ rất ít so với yêu cầu nên có thể chấp nhận em viết đến hết phần nhớ được nhưng khuyến khích viết đúng chính tả. 
+ Luyện từ và câu: Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng ngày. Hướng dẫn các em tra từ cách đặt câu, tạo cơ hội cho các em được nêu lên những câu văn đúng giúp các em tạo sự ham thích tìm hiểu. 
+ Tập làm văn: Nhận dạng thể loại, xác định nội dung, viết đoạn. Giáo viên chỉ ra lỗi cụ thể trên bài làm của học sinh. Học sinh tự viết lại. Cần tạo điều kiện để các em nhận xét bài của bạn, ghi chép lại ý hay nếu thích. Khuyến khích các em trình bày bài viết trước lớp. Gợi mở, tạo hứng thú cho các em bằng cách thay đổi những đề bài tập làm văn thành những tình huống, nhằm tạo ra cho các em một hoàn cảnh giao tiếp. Nhờ có hoàn cảnh giao tiếp, các em dễ bày tỏ suy nghĩ của mình hơn. Ví dụ: Với đề bài : Tả về người thân trong gia đình em. ( Sách Tiếng Việt lớp 5 – tập 1 ) Giáo viên có thể chuyển thành tình huống: Trong gia đình em ai cũng yêu mến và chăm sóc em, em hãy tả về người mà em quý mến nhất. Giáo viên có thể gợi mở thành nhiều tình huống khác nhau nhằm gây hứng thú, cảm xúc, sự quan tâm ở các em để giúp các em hình dung ra điều mình sẽ tả. 
* Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Toán và biện pháp khắc phục Trong lớp bản thân chủ nhiệm có em Đinh Thị Loan thì hầu như là tính toán rất chậm khi học toán. Nguyên nhân thì có rất nhiều, bản thân chỉ xin nêu một số nguyên nhân tiêu biểu: Em chưa nắm vững được các phép tính nhân, chia ( nhân với số có 2 chữ số, chia cho số có một chữ số ). Các em không nắm được lí thuyết bài ( quy tắt). Chưa nắm vững được cấu tạo số tự nhiên (hàng, lớp, cách tính) Từ chỗ chưa nắm được cấu tạo số tự nhiên nên các em chưa thực hiện nhanh được phép tính nhân, chia. Mà đối với học sinh lớp 5 là các em phải làm rất nhiều bài tập về cộng trừ, nhân, chia các số tự nhiên và phân số, số thập phân, Vậy, đối với những học sinh chưa biết tính hoặc tính chậm thì giáo viên cần hướng dẫn để các em hiểu về cách nhân, chia. Khi thực hiện các phép tính nhân, chia, giáo viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các em cầm, nắm, sờ vào và thực hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ và biết cách tính. Đối với những em không thuộc bảng nhân, chia thì giáo viên gọi lên kiểm tra thường xuyên vào giờ ra chơi hoặc sinh hoạt cuối tuần, giáo viên có thể lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc sống, tạo thành các tình huống liên quan đến các phép tính nhân, chia cho học sinh thực hiện. Ôn lại các hàng, lớp và cách tính số tự nhiên. Giáo viên cho học sinh làm các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ví dụ: 125 21; 230 : 5. Nguyên nhân các em tính chậm có thể là do: Khả năng tính nhẩm lâu do nhân, chia trong bảng chưa thuần thục dẫn đến tính toán chậm, thiếu chính xác. Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết quả theo cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận khi giải toán. Các em rất sợ các bài tập về giải toán vì ảnh hưởng bởi khả năng đọc hiểu và tính toán thiếu chính xác. Vậy đối với những học sinh tính toán chậm thì giáo viên cần: Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia mức độ đơn giản. Khi giải toán, giáo viên có thể yêu cầu các bạn học sinh năng khiếu phân tích đề bài, tóm tắt và trình bày bài giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay đổi một vài con số và yêu cầu các em tính toán chậm làm lại. Các em có thể làm vào giờ ra chơi hoặc vào buổi chiều. Khi các em làm bài, giáo viên theo dõi, sửa sai kịp thời. Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những bài toán cơ bản. Động viên, giúp đỡ các em hoàn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp. Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em. Trên lớp, các em học tập giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó khăn thường gặp, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, thầy giúp đỡ khi cần. Khuyến khích các em tự làm bài vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai, xem trước bài mới. Giáo viên cần có sự kiểm tra việc học, làm bài tập để có hướng khắc phục và động viên kịp thời. 
CHƯƠNG IV: 
HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
- Sự đổi mới công tác dạy và học những năm gần đây ở bậc tiểu học đã tạo điều kiện cho chúng tôi phát huy sở trường trong dạy học, mạnh dạn trong việc đề ra những giải pháp trong giảng dạy, giáo dục học sinh phù hợp với từng đối tượng. Từ đó giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc phát huy ưu điểm và khắc phục, sửa chữa những hạn chế của bản thân. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quan điểm đổi mới để vận dụng vào thực tiễn. Những biện pháp trên có thể áp dụng vào việc đổi mới dạy và bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành các khối 4, 5 đạt hiệu quả. Theo dõi bảng số liệu cuối học kì I, năm học 2014 - 2015 của học sinh lớp 5B, ta sẽ thấy sự tiến bộ vượt bậc của các em.
1/ Chất lượng học tập cuối học kì I môn Toán và tiếng Việt :
Kết quả học tập của học sinh cuối học kì I 2014 – 2015 như sau :
TSHS
19
MÔN
HOÀN THÀNH
CHƯA HOÀN THÀNH
SL
TL
SL
TL
TV
19
100%
0
0%
TOÁN
18
94,7%
1
5,3%
- Dưới đây là biểu đồ biểu thị kết quả học tập cuối học kì I môn tiếng Việt và môn Toán của học sinh trong năm học 2014 – 2015.
2/ Chất lượng học tập cuối năm môn Toán và tiếng Việt :
Kết quả học tập của học sinh cuối năm học 2014 – 2015 như sau :
TSHS
19
MÔN
HOÀN THÀNH
CHƯA HOÀN THÀNH
SL
TL
SL
TL
TV
19
100%
0
0%
TOÁN
19
100%
0
0%
- Dưới đây là biểu đồ biểu thị kết quả học tập cuối năm học môn tiếng Việt và môn Toán của học sinh trong năm học 2014 – 2015.
* Tóm lại: 
- Ngoài những giải pháp nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh chưa hoàn thành, biện pháp lâu dài là tạo ra sự hứng thú trong quá trình học tập. Thông qua những phương pháp dạy học tích cực, người thầy phải chuyển yêu cầu học tập thành nhu cầu vì nguồn gốc của tính tích cực, sự hứng thú là nhu cầu. Khi học sinh có nhu cầu thì tự các em sẽ tìm kiếm tri thức. Đó chính là khả năng tự học. Hơn nữa, các em học sinh tiểu học là thế hệ Măng non của đất nước. Nên bản thân luôn luôn hướng các em theo khẩu hiệu “Học vì ngày mai lập nghiệp”. Học để hiểu biết, học để trau dồi tri thức và học để trở thành những người công dân có ích cho xã hội. Bản thân cũng tin tưởng rằng, mình đã đưa ra những biện pháp thích hợp trong công tác bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành. Đây là yếu tố cần thiết, giúp cho chất lượng học tập của các em ngày một được nâng cao.
PHẦN III: 
KẾT LUẬN 
1/ Ý nghĩa của đề tài :
Đề tài là cơ sở để giáo viên nghiên cứu và thực hiện trong giảng dạy học sinh chưa hoàn thành. Giúp giáo viên từng lúc cân bằng trình độ học sinh trong lớp học; giúp học sinh tự tin hơn trong học tập, trong giao tiếp để các em hoàn thành nhiệm vụ học tập và tiếp tục học tập ở các lớp cao hơn.
2/ Khả năng ứng dụng triển khai :
Đề tài đang trong bước đầu thực hiện có hiệu quả, khả quan. Vì vậy đề tài có khả năng ứng dụng và triển khai cho tất cả giáo viên trong đơn vị cùng thực hiện và bổ sung để việc dạy học sinh chưa hoàn thành đạt hiệu quả cao hơn. 
3/ Bài học kinh nghiệm: 
- Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân thiết nghĩ, muốn giúp đỡ đối tượng học sinh chưa hoàn thành, giáo viên chủ nhiệm cần phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực. Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đoàn thể trong nhà trường, với chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em. Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các phong trào, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo viên chủ nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với các em, hòa hợp với các em, xem học sinh là con em của mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp. Học sinh lớp 5 rất thích được động viên khen thưởng, giáo viên không nên dùng hình phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em có niềm tin để các em an tâm học tập. 
* Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa học sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì chắc chắn rằng các em học sinh chưa hoàn thành sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để phát huy khả năng tự học của mình. Cùng với lòng nhiệt thành của người thầy và sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân của các em thì chúng ta tin tưởng vào kết quả học tập tốt nhất sẽ đến với các em. Và có lẽ rằng, vai trò của chúng ta: “ Người Thầy của mọi Thầy” đã hoàn thành. Một số kinh nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng rằng: Đây sẽ là một tài liệu nhỏ để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình huống sư phạm thích hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành là nghĩa vụ, trách nhiệm của người thầy. Hãy làm hết trách nhiệm bằng cái tâm của người thầy và hãy nhận lấy trách nhiệm về mình. Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu nghề, mến trẻ. Thực hiện phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Kết hợp với kinh nghiệm của bản thân và sự chia sẽ của bạn bè đồng nghiệp, bản thân luôn hoàn thành tốt việc giúp đỡ đối tượng học sinh chưa hoàn thành. Đây là một trong những tác động lớn đưa bản thân đến việc nghiên cứu đề tài thiết thực hơn và thực hiện viết sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả cao nhất. 
4/ Những kiến nghị, đề xuất :
- Phòng giáo dục và đào tạo huyện Sơn Hà, cụm chuyên môn Cao, Linh, Giang, Ban Giám hiệu trường tiểu học Sơn Cao thường xuyên tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành để cho giáo viên học hỏi, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
- Để hoàn thành sáng kiếm kinh nghiệm này, tôi xin chân thành cảm ơn : Phòng giáo dục và Đào tạo huyện Sơn Hà, Ban giám hiệu Trường tiểu học Sơn Cao, đã phát động thi đua viết sáng kiến kinh nghiệm, nhằm khuyến khích chúng tôi những người thầy giáo, cô giáo, nghiên cứu chuyên môn tích lũy kinh nghiệm, làm giàu vốn kinh nghiệm cho bản thân.
Trong quá trình nghiên cứu chắc chắn sẽ không tránh khỏi sự thiếu sót, rất mong sự góp ý của đồng nghiệp, của các cấp lãnh đạo để đề tài được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn !
 Sơn Cao, ngày 12 tháng 11 năm 2015
 Người viết
 Nguyễn Dũng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Công văn 245/GD& ĐT Sơn Hà, ngày 18 tháng 11 năm 2011 về việc hướng dẫn thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học, sáng kiến kinh nghiệm.
2/ Số liệu, chất lượng học tập của học sinh lớp 5 ở đầu năm học 2014 – 2015; cuối học kì I và cuối năm học 2015 – 2016; 
3/ Sách giáo khoa tiếng Việt lớp 5 của Bộ giáo dục và đào tạo ( Nguyễn Minh Thuyết chủ biên )
3/ Sách giáo khoa Toán lớp 5 của Bộ giáo dục và đào tạo ( Đỗ Đình Hoan chủ biên )
4/ Kế hoạch bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành của chuyên môn trường. 
5/ Kế hoạch bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành của tổ 5.
6/ Thông tư 30/2014/ TT-BGDĐT, ngày 28 tháng 8 năm 2014.
7/ Sổ giáo viên chủ nhiệm tiểu học.
Duyệt của các cấp lãnh đạo

File đính kèm:

  • docSKKN(Dung).doc
  • docBia SKKN- ( bia 1 ).doc
  • docMuc luc.doc
Sáng Kiến Liên Quan