Sáng kiến kinh nghiệm Các góc chơi qui định trong chương trình giáo dục trẻ của Hàn quốc
Chương trình giáo dục trẻ mầm non có thể được so sánh giống như “mạng nhện”. Trong mạng nhện đó trẻ thể hiện hứng thú của bản thân một cách rất tự nhiên không có sự sắp đặt, các góc chơI sẽ được kết hợp một cách vô thức trong toàn bộ hoạt động của trẻ. Những giáo viên lựa chọn theo hướng luyện tập này đều cho rằng các yếu tố cấu thành nên quá trình giáo dục trẻ được kết hợp đan lại giống như một mạng nhện lành lặn không bị đứt quãng. Nếu một trong những đường nối mạng nhện bị đứt hoặc thiếu thì cũng giống như hình ảnh mạng nhện bị đứt rơI xuống, và trong quá trình giáo dục cũng vậy nếu không có các nhóm kết hợp chặt chẽ thì “tính tổng thể” sẽ bị yếu, không đủ mạnh để thúc đẩy sự phát triển của trẻ một cách toàn diện.
Trong quá trình dạy, nội dung dạy, “dạy cáI gì” rất quan trọng đối với trẻ, và đặc biệt trong hoạt động âm nhạc và khoa học cô dạy sao trẻ sẽ tiếp thu vậy trong phạm vi hiểu biết của trẻ. Trong chương này chúng ta cùng tìm hiểu và phân loại các góc được qui định trong chương trình giáo dục trẻ. Tất nhiên sự phân loại các góc này chỉ mang tính chất”giả”(tức là trong thực tế nội dung dạy không có sự tách rời riêng rẽ rõ ràng mà nó mang tính chất liên kết phụ thuộc, trong cáI này bao hàm cáI kia). Khi truyền đạt tới trẻ , cô phảI truyền đạt theo “nguyên tắc liên quan liên kết” trong các nhóm với chủ đề, mục tiêu, nội dung cần phát triển cho trẻ. Giữ được mức cân bằng về nội dung truyền đạt trong các nhóm sẽ giúp trẻ học được nhiều kinh nghiệm phong phú, chính vì thế sau đây chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tầm quan trọng của các góc chơi. (Krough,1990,78-81)
ính vì vậy giáo dục giai đoạn này chú ý giúp trẻ có được sự phát triển phù hợp, rèn luyện cho trẻ những kĩ năng sử dụng giác quan để cảm nhận thế giới xung quanh một cách rõ ràng, chính xác. Chúng ta có thể tóm tắt nguyên lý vận động của con người dưới 4 nguyên lý sau: nhận biết thân thể; phương pháp vận động thân thể; nhận biết không gian; quan hệ (Lee Young Cha, Lee Ky Suk, Lee Chong Uk, 1999). +Ví dụ: Nhận biết thân thể (body awareness): Không phải chỉ là hiểu bên trong của mối quan hệ giữa các bộ phận trên cơ thể mà phảI hiểu chức năng cũng như những hạn chế được phép làm gì và không được phép làm gì của các bộ phận đó. + Nhận biết không gian (spatial awreness) : không chỉ là sự nhận biết đơn thuần quan hệ khoảng cách giữa các sự vật mà phảI giúp trẻ hiểu được cả mối quan hệ giữa sự vật với các bộ phận của chúng ta trong không gian đó. Để giúp trẻ nhận biết được sự cần thiết trên chúng ta hướng dẫn trẻ nhận biết phương hướng vị trí trước/sau; trên/dưới. Đây gọi là nhận biết phương hướng. Chúng ta cần phảI hiểu giúp trẻ tìm hiểu , phát triển các kĩ năng vận động của bản thân, rèn luyện thân thể khỏe mạnh, vận động trong không gian, và hiểu kĩ năng “quan hệ con người” đúng đắn, không phảI là để chuẩn bị cho trẻ thành công trong lĩnh vực thể thao sau này mà cô phảI giúp trẻ tự nhận thấy tầm quan trọng, sự cần thiết của các kĩ năng vận động trong cuộc sống đối với con người, Cần phảI cảI tiến chương trình giáo dục mang tính lâu dàI, sâu rộng giúp trẻ cảm nhận được cáI hay, tầm quan trọng của sự vận động của các bộ phận trên cơ thể chúng. (2) Kĩ năng vận động cơ bản Đối với trẻ trên 6 tuổi thì kĩ năng vận động chủ yếu không mang tính chuyển động mà thường đạt tới mức đảm bảo tính an toàn, tính chuyển động, tính hấp dẫn. Đối với trẻ dưới 6 tuổi thì chủ yếu trẻ học các cách vận động đa dạng của các bộ phận trên cơ thể mình , để từ đó trẻ phát triển cơ, gân tay chân, duy trì sự cân bằng khi vận động, sự kết hợp giữa các bộ phận của cơ thể, và rèn luyện khả năng điều chỉnh các động tác vận động trong không gian. Dựa vào những đặc điểm này các cô giáo mầm non khi soạn giáo án phảI hiểu được những đặc điểm cụ thể để soạn cho phù hợp với từng lứa tuổi, đặc điểm phát triển, làm sao giúp trẻ có được kinh nghiệm vận động phù hợp với lứa tuổi trẻ, trẻ hiểu được tính chất khác nhau của mỗi vận động và mối quan hệ của các vận động với môI trường xung quanh mình. Nhưng để phân tích cụ thể các động tác của con người trong quá trình phát triển thì chúng ta phảI hiểu được 3 hình tháI vận động của con người. Tức là hình tháI vận động an toàn, hình tháI vận động mang tính vận động và hình tháI vận động mang tính hấp dẫn lôI cuốn. Kĩ năng vận động an toàn có nghĩa là các bộ phận của cơ thể được vận động một cách cân bằng trong không gian, đã được rèn luyện các kĩ năng cơ bản về vận động thông qua các hoạt động luyện tập cơ bắp mang tính an toàn. Vận động này chủ yếu là các vận động tự làm một mình như : quay, bắt, vặn, uốn. Những thao tác vận động an toàn này sẽ giúp ích cho việc hình thành tư thế phù hợp và giúp cho các hoạt động có hiệu quả hơn, tăng cường khả năng vận động cơ bản. Kĩ năng vận động cơ bản thứ hai là di động và vận động. Đây là kĩ năng giúp trẻ có thể tự điều khiển cơ thể một cách tự nhiên khi thay đổi chiều cao của không gian. Ví dụ như: đI, chạy, đI bằng bàn chân trên dây, chạy vượt rào, trượt, nhảy dây , leo chèo, chạy giống ngựa, vân vân. Thông qua các hoạt động vận động này trẻ sẽ học được cách vận động làm sao cho có hiệu quả trong cuộc sống hàng ngày, giúp trẻ thấy được niềm vui trong các vận động chứ không phảI là bắt buộc. Kĩ năng vận động cơ bản thứ 3 là vận động cơ bắp chân ví dụ như đá, ném, bắt vân vân. (Gallahue,1995). Những vận động này giúp trẻ tiếp cận gần các sự vật xung quanh, biết điều chỉnh trong các vận động thân thể mang tính chất hoạt động của trẻ. Chính vì vậy, giai đoạn mẫu giáo nhà trường và gia đình trẻ cần phảI cung cấp tạo điều kiện cho trẻ được tham gia các vận động cơ bản, và chú ý cô phảI biết kết hợp cả 3 kiểu vận động trên . Sau đây sẽ là sự phát triển vận động theo đặc điểm phát triển lứa tuổi(Gallahue,1995) + Giai đoạn thứ nhất: Giai đoạn vận động theo phản xạ(reflexive movement) Đây là đặc trưng phát triển vận động của trẻ sơ sinh và trẻ trong bào thai mẹ. Vận động theo phản xạ này sẽ dần dần được khống chế và chuyển sang giai đoạn 2 + Giai đoạn thứ hai : Giai đoạn tiền phát triển(rudimentary movement) (gân cơ chưa phát triển hoàn thiện) Các vận động cơ bản này xuất hiện từ sau khi đứa trẻ trào đời đến khi được 2 tuổi. Trẻ dần dần biết ngẩng cổ, lật người, lẫy, bò, đi. Dần dần sẽ xuất hiện các động tác bắt, dơ tay bắt đỡ sự vật. Dần trẻ biết khống chế cổ, đầu, thân, sau đó tự mình đứng, chuyển ngồi và ngược lại một cách an toàn. + Giai đoạn 3: Đặc trưng của sự phát triển vận động chính giai đoạn này là sự vận động cơ bản (fundamental movement) , kĩ năng vận động cơ bản sẽ là bước tiền đề để trẻ bước sang giai đoạn cao hơn, giai đoạn trưởng thành tức là có thể thực hiện các động tác cơ bản một cách thành thạo. Giai đoạn này kéo dàI từ năm trẻ 4 tuổi tới năm 7 tuổi. (theo tuổi VN là từ 3 tới 6 tuổi) Hầu hết trẻ lên lớp mẫu giáo đều có thể thực hiện được các vận động cơ bản. Có một số người hỏi rằng trẻ trong giai đoạn này liệu đã nhảy dây được chưa? có những trẻ lên lớp 1 mà vẫn cảm thấy khó. Có những trẻ gặp khó khăn khi đang chạy vượt dào chuyển sang động tác đứng. Và ngay cả động tác ném bóng cũng rất đa dạng. có những trẻ ném từ dưới lên, có những trẻ ném từ bên cạnh, có trường hợp ném lên đầu. Mặc dù vậy nhưng hình dạng của chân vẫn giữ nguyên. Tức là chân tráI đặt lên trước, tay phảI đưa ra sau rồi ném bóng, đó là đặc trưng ném bóng của trẻ lên lớp 1 hoặc lớp 2. Kĩ năng bắt bóng của trẻ cũng chưa được hoàn thiện thường thì do cảm giác sợ hãI bóng vào mặt. Chính vì vậy khả năng vận động của trẻ giai đoạn mầm non cần phảI mang tính dò xét. Đặc biệt vào đầu năm lớp 1, dần dần nếu giáo viên tích cực giúp trẻ luyện tập theo kế hoạch chương trình thì trẻ có thể phát triển được các vận động cơ bản. Sau đây là nội dung Nhận biết các bộ phận trên cơ thể và nuôI dưỡng kĩ năng cảm nhận sự vật xung quanh được qui định trong chương trình giáo dục mầm non lần thứ 6(bộ giáo dục, 1998) Nội dung Loại I Loại II Giác quan và nhận biết cơ thể 1. Vận động các cơ quan cảm giác 2. Nhận biết và sự vận động của cơ thể - Vận động các cơ quan cảm giác giai đoạn đầu - Trẻ quan tâm tới các bộ phận của cơ thể, vận động thử - Kết hợp các cơ quan cảm giác trong hoạt động - Vận động nhưng biết ứng dụng những đặc điểm đặc trưng của các bộ phận cơ thể Khả năng vận động cơ bản 3. Vận động chuyển động 4. Vận động không chuyển động 5. Thực hiện vận động kèm dụng cụ 6. Tham gia hoạt động vận động - Trẻ vừa di chuyển trong không gian vừa điều khiển thân thể theo các hướng. - Thực hiện các động tác trong 1 địa điểm - Vận động cùng các dụng cụ đơn giản - Biết sử dụng các dụng cụ chơi(cầu trượt, đu,)ngoài trời - Tham gia vận động một cách hứng thú, vui vẻ. - Di chuyển trong không gian, có thể điều khiển thân thể theo điều kiện đưa ra của người khác. - Thực hiện các động tác trong một địa điểm nhưng theo điều kiện đưa ra của người khác. - Vận động với dụng cụ đa dạng, phức tạp - Sử dụng thành thạo các dụng cụ chơI ngoài trời. - Tham gia vận động một cách hứng thú, đúng theo luật chơi. 3) Lập giáo án hoạt động về nội dung an toàn và sức khoẻ trong trường mầm non. Nội dung hoạt động an toàn, sức khoẻ được bao hàm một cách rất tự nhiên, không ép buộc hoặc theo một qui định nào, nó có mặt trong toàn bộ chương trình hàng năm ở trường mầm non. Tất cả các hoạt động như đánh răng, rửa tay, mặc quần áo, xỏ dày dép được luyện tập thường xuyên hàng ngày trong trường mầm non. Giáo viên phải cố gắng bám sát, và nắm lấy cơ hội để rèn rũa thói quen này cho trẻ một cách thường xuyên, liên tục. Ví dụ, khi ở lớp có trẻ nghỉ vì bị ốm, ngay hôm đó cô có thể bổ sung vào tiết trò chuyện nội dung liên quan tới phương pháp chăm sóc bản thân để từ đó trẻ rút ra kinh nghiệm cho mình. Hay là lớp có bạn do bị cảm mới đi viện về, khi trẻ đó tới lớp cô có thể gợi ý để trẻ chơi trò chơi bệnh viện, ôn lại ngay những nội dung, hoạt động mà trẻ đã gặp khi đi viện và chia sẻ kinh nghiệm đó với các bạn chưa biết. Cô và trẻ có thể thảo luận về các loại thức ăn, món ăn của mùa xuân hoặc mùa thu, trò chuyện về các món có nhiều hương vị ngon, song song với nội dung này cô có thể trò chuyện với trẻ về tầm quan trọng của việc đánh răng hàng ngày. Chương trình giáo dục sức khoẻ trong các cơ quan giáo dục trẻ không chỉ giáo dục về an toàn, sức khoẻ thân thể mà cần phải chú ý cả nội dung , chủ đề liên quan tới môi trường, sức khoẻ tinh thần, vân vân. (L ee Ky Suk, 1977; Kendrich et al, 1991) Sau đây là khái niệm phù hợp với việc giáo dục sức khoẻ và an toàn trong chương trình giáo dục trẻ (M aortz et al, 1997) Nội dung giáo dục Tiêu chuẩn dành cho lọai I Tiêu chuẩn dành cho lọai II 7. Vệ sinh thân thể 8. Vệ sinh môi trường xung quanh trẻ 9. Luyện tập cách mặc quần áo. 10. Luyện tập thói quen ăn uống 11. Nghỉ ngơi phù hợp 12. Phòng trống bệnh 13. Vui chơi lành mạnh 14. Chơi an toàn 15. Nội qui giao thông 16. T ìm hiểu và ứng phó với tình huống nguy hiểm 17. Mối liên quan giữa ô nhiễm môi trường và thảm hoạ. - Vệ sinh tay và răng miệng - Vệ sinh thân thể - Rèn thói quen vệ sinh môi trường xq trẻ - Luyện t ập - Tìm hiểu tầm quan trọng của thức ăn - Ăn uống điều độ, đầy đủ chất - Biết quý trọng - Thói quen nghỉ - Chú ý không để mắc bệnh, Giải toả căng thẳng giúp trẻ chơi - Tìm hiểu phương pháp sử dụng thiết bi, dụng cụ, đồ dùng đồ chơi một cách an toàn - Vui chơi ở - Giúp trẻ biết cách - Tuân thủ đúng luật - Tìm hiểu các tình huống - Yêu cầu giúp đỡ trong tình huống nguy hiểm - Không cho người khỏe - Tìm hiểu phương pháp sinh hoạt - Tìm hiểu và rèn luyện cách - Rèn thói quen vệ sinh tay và răng miệng - Rèn thói quen vệ sinh thân thể mặc theo mùa, theo từng hoàn cảnh - Tìm hiểu mối quan hệ giữa các thành phần thức ăn và cơ thể - Ăn đầy đủ các món với số lượng thích hợp - Nghỉ ngơi sau khi tham gia hoạt động - Tìm hiểu phương pháp phòng bệnh hứng thú, vui thông qua các động tác vận động đa dạng - Sử dụng thiết bị, dụng cụ, đồ dùng đồ chơi một cách an toàn - Các nơi an toàn - Sử dụng các cơ quan, phương tiện giao thông an toàn khi qua đường. - Phương pháp phòng tránh các tình huống đó và đồ vật nguy hiểm - Bảo vệ bản thân trong tình huống nguy hiểm tùy tiện động chạm vào cơ thể mình.An toàn và ứng phó trong cuộc sống đối phó với thảm họa, tai họa 3) Lập giờ hoạt động về nội dung an toàn và sức khoẻ trong trường mầm non. Nội dung hoạt động an toàn, sức khoẻ được bao hàm một các rất tự nhiên, không ép buộc hoặc theo một qui định nào, nó có mặt trong toàn bộ chương trình hàng năm ở trường mầm non. Tất cả các hoạt động như đánh răng, rửa tay, mặc quần áo, xỏ dày dép được luyện tập thường xuyên hàng ngày trong trường mầm non. Giáo viên phải cố gắng bám sátt, và nắm lấy cơ hội để rèn rũa thúi quen này cho trẻ một cách thường xuyên, liên tục. Ví dụ, khi ở lớp có trẻ nghỉ vì bị ốm, ngay hôm đó cô có thể bổ sung vào tiết trò chuyện nội dung liên quan tới phương pháp chăm sóc bản thân để từ đó trẻ rút ra kinh nghiệm cho mình. Hay là lớp có bạn do bị cảm mới đi viện về, khi trẻ đó tới lớp cô có thể gợi ý để trẻ chơi trò chơi bệnh viện, tóm lại ngay nh ững nội dung, hoạt động mà trẻ đó gặp khi đi viện và chia sẻ kinh nghiệm đó với các bạn chưa biết. Cô và trẻ có thể thảo luận về các loại thức ăn, món ăn của mùa xuân hoặc mùa thu, trò chuyện về các món có nhiều hương vị ngon, song song với nội dung này cô có thể trò chuyện với trẻ về tầm quan trọng của việc đánh răng hàng ngày. Chương trình giáo dục sức khoẻ trong các cơ quan giáo dục trẻ không chỉ giáo dục về an toàn, sức khoẻ thân thể mà cần phải chú ý cả nội dung, chủ đề liên quan tới môi trường, sức khoẻ tinh thần, vân vân. (L ee Ky Suk, 1977; Kendrich et al, 1991) Sau đây là khái niệm phù hợp với việc giáo dục sức khoẻ và an toàn trong chương trình giáo dục trẻ (M aortz et al, 1997) Thời kì nhà trẻ (0-3 tuổi) Thời kì học mẫu giáo(t ừ 3-6 tu ổi) . Các bộ phận của cơ thể . Sự trưởng thành và phát triển . Thức ăn có nhiều chất dinh dưỡng . Kĩ năng mang tính xã hội/ sự tác động qua lại một cách tích cực tức giúp trẻ biết cách giao tiếp, hoà thuận với bạn bè ) . 5 giác quan . Tự mình thao tác các kĩ năng đơn giản(như đánh răng, rửa tay, tắm, đi vệ sinh, tự mặc quần áo vân vân) . Quan hệ bè bạn cùng trang lứa. . Phát triển khái niệm "cái tôi" theo hướng tích cực và tôn trọng "cái tôi" . Hợp tác . Vận động thân thể, tập thể dục... . Hành động có liên quan tới an toàn. . Sự phát triển và trưởng thành . Răng lợi phát triển tốt, khoẻ không bị bệnh . phòng tránh tai nạn và về an toàn . Người làm công tác giúp đỡ môi trường xã hội xung quanh. . Phòng tránh thuốc, chất gây độc hại . Sức khoẻ về tinh thần(như phát triển cái tôi theo hướng tích cực, phát triển tình cảm, tính trách nhiệm, tôn trọng mình và tôn trọng người khác, cách ứng phó khi bị stress vân vân) . Quản lý vệ sinh . Tư thế đúng. . Chất dinh dưỡng có lợi cho sức khoẻ trong thức ăn . Phương pháp nghỉ ngơi và giá trị của nghỉ ng ơi . Gia đình . V ận động, tập thể dục . Phòng tránh bệnh tật và điều chỉnh bệnh tật . Lễ phép, lịch sự . Y tế môi trường và an toàn Nội dung trên có thể phát triển mở rộng trong toàn bộ các hoạt động giáo dục. Sau đây là một vài phương pháp áp dụng trong trường mầm non (M arotz et al., 1989,154) . Trong nhóm chơi kịch: cho trẻ chơi các trò chơi như mặc quần áo, trò chơi bệnh viện, nha khoa, quán ăn, an toàn giao thông, trò chơi đi chợ. . Cho trẻ đi thăm quan thực tế nông trường, câu lạc bộ thể hình, thăm khoa răng (nha khoa), bệnh viện. . Hoạt động mỹ thuật có sử dụng đến các tài liệu, tranh ảnh hoặc bảng nhung (là loại bảng làm bằng nhung khi dạy cô dùng để làm dụng cụ cho trẻ dán và bóc tranh trên bảng này) . Cho trẻ tham gia vào các hoạt động thực tế như rửa tay, đánh răng, đi chợ, nấu ăn, reo hạt, nuôi con vật nhỏ. . Cho trẻ tham gia đóng kịch liên quan tới một số nội dung như: chăm sóc người bệnh, chuẩn đoán bệnh, giữ hình thức bên ngoài được gọn gàng . Cho trẻ chơi game hoặc hát . Mời các chuyên gia như bác sĩ khoa nha, thợ phòng cháy chữa cháy, giáo viên dạy thể dục thẩm mỹ, nhà dinh dưỡng học, bác sĩ về thần kinh vân vân. Đ ể giúp trẻ có được khái niệm thực tế về an toàn và bảo vệ sức khỏe. 4) Phương pháp và vai trò dạy học của cô giáo mầm non: Cô đóng vai trò rất quan trọng đối với sức khoẻ của trẻ. Sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu kĩ hơn về vai trò của cô trong các hoạt động như: quản lý sức khoẻ trẻ, cung cấp kiến thức về dinh dưỡng, sức khoẻ, và về an toàn, cách xử lý khi gặp tình huống phải cấp cứu (1) Quản lý sức khoẻ: Công việc ghi chép theo dõi và bảo quản thông tin về sức khoẻ của trẻ rất quan trọng. Sau đây là một số nội dung yêu cầu cho công việc quản lý sức khoẻ của trẻ - Thứ nhất: Tập hợp và bảo quản thông tin về sức khoẻ của trẻ trước khi trẻ vào trường mầm non . Công việc tìm hiểu, theo dõi và ghi chép những thông tin như tình trạng sức khoẻ của trẻ, tình trạng phát triển cơ gân bắp, trẻ đã tiêm chủng chưa, có bị mắc bệnh viêm nhiễm không, tất cả những thông tin này rất quan trọng đối với người giáo viên mầm non. Chính vì vậy cô phải tìm hiểu ghi chép những thông tin này thông qua bảng điều tra môi trường gia đình trẻ hoặc sổ ghi chép điều tra cá nhân. - Thứ hai: Giáo viên cần phải theo dõi và kiểm tra tình trạng sức khoẻ của trẻ hàng ngày. Ngay từ khi đón trẻ cô đã phải chú ý quan sát những biểu hiện trên khuôn mặt trẻ, tư thế, hình dáng bên ngoài, đặc biệt chú ý xem trẻ có bị ho hoặc cảm sốt gì không. sau đó cô ghi chép lại vào sổ theo dõi sức khoẻ cho trẻ, rồi tìm cách liên lạc với gia đình để cùng giải quyết. - Thứ ba: yêu cầu khám chuẩn đo án bệnh theo đúng nguyên tắc. Cô giáo đưa trẻ tới cơ quan y tế hoặc trạm xá gần nhất nơi trẻ xảy ra tai nạn để chuẩn đo án bệnh cho trẻ . (2) Hướng dẫn trẻ những kiến thức về sức khoẻ Sau đây là một số nội dung giáo dục trẻ(L ee Ky Suk, 1997) . Vệ sinh xung quanh: thân thể, quần áo, dụng cụ cá nhân của trẻ. . Không được cho các vật nguy hiểm, chất độc hại vào miệng, khăn của ai người nấy dùng . Khi hoạt động phải mặc trang phục sao cho phù hợp dễ hoạt động . Cho trẻ khám định kì , tiêm chủng đầy đủ, chuẩn đoán bệnh . Giúp trẻ học phương pháp nghỉ ngơi, sau khi ăn hoặc vận động là phải nghỉ ngơi yên tĩnh. . Theo dõi các bệnh vi êm nhiễm của trẻ . Rèn tư thế ngay ngắn cho trẻ . Rèn thói quen ăn uống, tư thế ngồi ăn, phương pháp ăn và đặc biệt phải chú ý cho trẻ phải ăn đều các món. . Hướng dẫn cách sử dụng nhà vệ sinh đúng qui định. Đặc biệt, giáo viên mầm non phải bồi dưỡng thêm cho mình những kiến thức cơ bản trong quá trình điều trị bệnh và phòng tránh bệnh viêm nhiễm. Và chú ý nếu thấy trong trường có xuất hiện một số triệu chứng như viêm nhiễm lây lan, cảm cúm dễ lây, thì hiệu trưởng có thể đề xuất trẻ đó tạm nghỉ để điều trị khỏi bệnh. + Đặc biệt là trường hợp bị cảm cúm: nghỉ quá 3 ngày từ khi thấy hết triệu trứng bệnh. + Đối với bệnh ho gà : nghỉ ít nhất là 7 ngày tư khi thấy hết triệu trứng bệnh + Đối với bệnh viêm tai cấp tính : nghỉ tới khi hết sưng tấy + Bệnh thu ỷ đậu : nghỉ đến khi bong hết vảy trên người. Còn một số bệnh viêm nhiễm nhẹ có thể cho trẻ tiếp tục tới trường khi thấy hết các triệu trứng ( l ee Yong Il, Hyon chung Sun, 1986) ngoài ra cô cần phải quan sát, và chú ý tới sự lây nhiễm kí sinh trùng, dị ứng. (3) Cung cấp cho trẻ những kiến thức về an toàn : Giáo viên mầmnon cần phải nắm rõ các loại hình tai nạn hay xảy ra theo lứa tuổi. Chú ý những trường hợp dễ gây tai nạn đối với trẻ như: tai nạn giao thông, đồ chơi, các vật dụng nguy hiểm (như các loại công tắc, dây điện, đồ điện, thuốc có chất độc tố, bình cứu hoả vân vân ), chú ý khi trẻ chơi với bạn, bị bạn tấn công, làm bị thương vân vân. Đặc biệt gần đây, an toàn về động th ực vật, an toàn về môi trường, an toàn trong thể thao và an toàn đối với những trẻ bị hành hung đánh đập đang ngày càng được trú trọng và tăng. Vì thế cô giáo cần phải giúp trẻ hiểu rõ được các biện pháp phòng ngừa nguy hiểm, cách xử lý và đặc trưng phát triển theo lứa tuổi để trẻ có kiến thức về an toàn tốt hơn. (4) Xử lý cấp cứu: Giáo viên cần nắm vững kiến thức cần thiết để xử lý cấp cứu. Nhưng cấp cứu ở đây chỉ là cấp cứu sơ bộ ban đầu, cô không được đi quá phạm vi cho phép. Vì thế những biện pháp chưa được học hoặc không được học cô không được tự ý xử lý nếu thấy tình trạng nguy kịch phải khẩn trương liên lạc với bác sĩ . Khi phát hiện thấy triệu trứng phát ra ngoài như nôn mửa, rối loạn hô hấp, mặt tái nguyên nhân có thể do bị thương, huyết áp tăng, chảy máu mũi, ăn phải thức ăn, vật lạ, trúng độc, hoặc thậm chí bị bỏng. Hoặc bị muỗi đốt, hoặc bị gân cơ, bị gãy chân tay vân vân. Cô giáo phải nắm vững chách thức ứng phó , và cô nên biết cách hồi phục tim phổi khi cần thiết cấp bách. (Ch erry et al., 1987; Deck er&deck er, 1997; Kendrich, Kaufmann&M essenger, 1991; M arotz et al, 1989) Tổ chức NAEYC đã và đang dự thảo luật giáo dục phù hợp phải thực hiện ở các cơ sở giáo dục mầm non có nội dung liên quan tới an toàn và dinh dưỡng.(NAEYC, 1997). Tức là, làm mẫu và nhấn mạnh nội dung phải làm nh ư : ghi chép sổ theo dõi sức khỏe, ti êm phòng bệnh, tự quản lý sức khoẻ của người lớn, rửa tay. Trong dự án này họ qui định phải ngăn chặn sự lây nan của bệnh bằng việc quản lý vệ sinh trong nhóm "vệ sinh tã lót" cho trẻ sơ sinh. Cô phải hướng dẫn trẻ những kiến thức về ngăn chặn tình huống nguy hiểm từ yếu tố vật lý, quản lý an toàn phù hợp, xử lý cấp cứu, mặc áo sao cho đúng cách phù hợp. Về dinh dưỡng, trong dự án này cũng qui định việc quản lý môi trường ăn uống của trẻ. Thông qua những biện pháp trên các cơ quan giáo dục mầm non cần phải nhấn mạnh và đưa vào giáo án các hoạt động hàng ngày của trẻ.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_cac_goc_choi_qui_dinh_trong_chuong_tri.doc