Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh tiếp thu chậm giải tốt các bài toán điển hình ở Lớp 3

Cơ sở lý luận của vấn đề.

Giải toán có lời văn là những bài toán liên quan đến thực tế, nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là khi dạy dạng bài thầy cô phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những câu lời giải phép tính phù hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.

Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu của chương trình mới, đó là điều trăn trở cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta người trực tiếp giảng dạy cho các em việc đặt câu lời giải cho bài toán như thế nào cho chính xác.

 Chúng ta thấy: ở lớp 1,2 các em đã làm quen thành thạo với dạng giải bài toán bằng một phép tính các em thường có thói quen dựa vào câu hỏi để viết câu trả lời dễ dàng. nên rất khó khăn khi lên lớp 3 các em làm quen với giải bài toán bằng hai phép tính. Nhưng nếu như nắm bắt được cách giải toán ngay từ lớp 1, 2, 3 thì đến các lớp trên các em dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và gọt giũa, tôi luyện để trang bị thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp tục học tốt ở các lớp sau.

 

doc28 trang | Chia sẻ: Hải Thượng | Ngày: 05/05/2023 | Lượt xem: 865 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh tiếp thu chậm giải tốt các bài toán điển hình ở Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o học sinh nắm rõ thuật ngữ toán học “chiều rộng bằng 1/5 chiều dài” nghĩa là gì?
	Phân tích và tóm tắt bài toán và đi đến tóm tắt bằng lời hoặc bằng sơ đồ. Từ tóm tắt học sinh có thể nêu lại được đề bài toán. Có như vậy các em mới hiểu và lập được kế hoạch bài giải.
	 Trước tiên ta phải tìm chiều rộng lấy 45 : 5 = 9( cm)
	Sau đó dựa vào công thức toán học tính được diện tích miếng bìa.
	Như vậy với một số câu hỏi gợi mở mà giáo viên đưa ra, học sinh có thể sẽ tìm cách giải bài toán về những kiến thức đã học để có thể áp dụng được công thức tính.
	VD 2: “Có 45 học sinh xếp thành 9 hàng đều nhau. Hỏi có 60 học sinh thì xếp được bao nhiều hàng như thế ?”.
	Để giải được bài toán này học sinh cần phải đọc kỹ bài toán phân tích tóm tắt bài toán, xem bài toán cho biết gì ? Bài toán yêu cầu những gì ?
	Tóm tắt:
	24 cúc áo: 4 cái áo
	42 cúc áo: cái áo
	Sau đó lập kế hoạch giải
	+ Bài toán đã cho biết dữ kiện nào ?(4 cái áo thì cần 24 cái cúc).
	+ Bài toán yêu cầu làm gì ? (42 cái cúc áo thì dùng cho mấy cái áo như thế)
	Vậy muốn biết 42 cúc áo thì dùng cho mấy cái áo thì ta phải đi tính gì trước? (Mỗi cái áo cần mấy cái cúc ?) 24 : 4 = 6 (cúc)
	Khi đã tính được một cái áo cần mấy cái cúc thì học sinh sẽ tìm được 42 cúc dùng cho mấy cái áo ? (lấy 42 : 6 = 7 (áo)
	Muốn giải được tốt bài toán này yêu cầu học sinh phải tìm hiểu, phân tích kỹ đầu bài (biết tóm tắt và trình bày bài toán thông qua tóm tắt) lập được kế hoạch bài giải bài toán và kỹ năng vận dụng sáng tạo những kiến thức đã học vào giải các bài toán ở mức độ phức tạp hơn. Do vậy giáo viên nhất thiết phải sử dụng biện pháp này nhằm rèn cho học sinh những kỹ năng trên giúp các em có khả năng giải mọi dạng toán khác nhau. Vận dụng kiến thức tổng hợp để giải toán xác lập mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm đúng phép tính thích hợp.
4.2.4. Viết bài giải: 
	Sau khi đã có những kỹ năng phân tích bài toán và lập được kế hoạch giải 
cho bài toán thì việc thực hiện cách giải và trình bày bài giải cũng là yếu tố quan trọng. Vậy làm như thế nào để câu trả lời của bài toán không bị sai, phép tính chính xác, ghi đáp số với kết quả phép tính có danh số kèm theo. Giáo viên cần hướng dẫn các em tìm ra các câu lời giải khác nhau nhưng biết trả lời ngắn, gọn mà đủ ý. Bài toán hỏi gì thì trả lời nấy nghĩa là biết dựa vào câu hỏi của bài toán để trả lời, yêu cầu học sinh trình bày đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý câu trả lời ở các bước phải đầy đủ, không viết tắt, chữ và số phải đẹp. 
	Khi trình bày bài giải giáo viên nên khuyến khích các em tìm ra nhiều cách giải. Sau đó hướng dẫn các em vào cách giải, cách trình bày bài giải ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu nhất, lời giải hợp lý nhất để tránh cho học sinh yếu trả lời bài toán sai thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề bài để biết bài toán cho gì ? Bài toán yêu cầu làm như thế nào dựa vào câu hỏi của bài toán để ghi câu trả lời cho đúng thực hiện phép tính ghi danh số kèm theo chính xác để đáp số bài toán không bị sai theo.
	Với bài toán trong khi giải cần đổi đơn vị đo thì giáo viên cần hướng dẫn và yêu cầu học sinh nhắc lại cách đổi đã học về đại lượng ấy. Qua đó củng cố những kiến thức có liên quan đến giải toán điển hình có ý nghĩa thực tiễn. Từ đó các em sẽ trình bày đúng bài giải. 
VD: Bài toán 1 (trang 87): Tính chu vi hình chữ nhật có:
 a. Chiều dài là 10cm, chiều rộng là 5cm.
 b. Chiều dài là 2dm, chiều rộng là 13cm
Học sinh cần phải nhận xét: ở phần a chiều dài và chiều rộng cùng đơn vị đo là cm nhưng ở phần b không cùng đơn vị đo các em phải đổi ra cùng đơn vị đo rồi mới trình bày bài giải.
2 dm = 20 cm
Chu vi hình chữ nhật là:
(20 + 13) x 2 = 66 (cm)
Đáp số: 66 cm
VD : Bài 2(Trang 154) Một tờ giấy hình vuông có ạnh 80mm. Tính diện tích tờ giấy đó theo xăng-ti-mét vuông ?
Với bài toán này vì diện tích hình vuông tính bằng đơn vị xăng-ti-mét vuông nên các em cần đổi cạnh hình vuông ra xăng-ti-mét rồi tính diện tích.
80mm = 8 cm
Diện tích hình vuông là:
8 x 8 = 64 cm2
Đáp số: 64 cm2
	4.2.5. Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải:
 Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi giáo viên hỏi: “ Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy việc kiểm tra , đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán va phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, chúng ta cần hướng dẫn các em thông qua các bước:
 - Đọc lại lời giải.
 - Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa.
 - Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên.
 - Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa.
 Đối với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh. 
	Song trong khi giảng dạy, ở mỗi một dạng bài cụ thể tôi đưa cho các em suy nghĩ, thảo luận theo bàn, nhóm để tìm ra các câu lời giải đúng và hay nhất phù hợp với câu hỏi của bài toán đó.
Tuy nhiên cần hướng dẫn học sinh lựa chọn cách hay nhất (ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với các em) còn các cách kia giáo viên đều công nhận là đúng và phù hợp nhưng cần lựa chọn để có câu lời giải là hay nhất để ghi vào bài giải.
Song song với việc hướng dẫn các bước thực hiện, tôi thường xuyên trình bày bài mẫu trên bảng và yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét về cách trình bày để từ đó học sinh quen nhiều với cách trình bày. Bên cạnh đó, tôi còn thường xuyên chấm bài và sửa lỗi cho những học sinh trình bày chưa đẹp; tuyên dương trước lớp những học sinh làm đúng, trình bày sạch đẹp, cho các em đó lên bảng trình bày lại bài làm của mình để các bạn cùng học tập
Bên cạnh việc hướng dẫn cách trình bày như trên, tôi cũng luôn luôn nhắc nhở, rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết chữ - viết số đúng mẫu - đẹp. Việc kết hợp giữa chữ viết đẹp và cách trình bày đúng cũng là một yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong vấn đề giải toán có lời văn của các em.
 4.3. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập.
 Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế chê các em trong học tập, rèn luyện . Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý từng học sinh mà cứ quá khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với những em chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, vì vậy tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi các em trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi tuyên dương ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập. Đối với những em học khá, giỏi phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tôi mới khen.Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh trong học tâp.
 Bên cạnh đó, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập, mong muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn. Vì chúng ta đều biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp ba nói riêng có trí thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy toán học nhưng các em cũng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn đang trong thời kì phát triển hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong giờ học cũng như làm một việc gì đó trong một thời gian dài. Vì vậy muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học tức là kiểu dạy học :“ Lấy học sinh làm trung tâm.”, hướng tập trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt động của các em. Trong mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 2 – 3 phút để cho các em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách chơi các trò chơi học tập vừa giúp các em thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản ứng nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã học.
	Tóm lại: Trong quá trình dạy học người giáo viên không chỉ chú ý đến rèn luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải quan tâm chú ý đến việc: Khuyến khích học sinh tạo hứng thú trong học tập.
	4.4. Dạy thực nghiệm (Phụ lục Trang 28 )
 	5. Kết quả đạt được
 	Qua khảo sát chất lượng học sinh lớp 3A năm học này, tôi thu được kết quả như sau:
Tổng số HS
Điểm 1 - 4
Điểm 5 - 6
Điểm 7 - 8
Điểm 9 - 10
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
28
0
0
4
14.3
11
39.3
13
46.4
	- Nhờ áp dụng, kết hợp các biện pháp trên trong giảng dạy mà tôi đã thu được những kết quả ban đầu trong việc dạy học “Giải toán có lời văn” nói riêng và trong chất lượng môn Toán nói chung bởi vì “Giải toán có lời văn” là dạng toán khó và mới của chương trình. Học sinh phải đặt lời giải trước phép tính và kết quả của bài toán. Nếu các em nắm chắc được cách giải toán ở lớp ba chắc chắn sau này các em học lên các lớp trên sẽ có điều kiện tốt hơn ở dạng toán khó hơn. Trong năm học trước: Có những em khi giải toán còn đặt câu lời giải như: “Có tất cả bao nhiêu là:” hoặc “Hỏi số cam còn lại là:”
	 Những lỗi đó đến nay không còn nữa, học sinh lớp tôi không những biết cách đặt câu lời giải hay, viết phép tính đúng mà còn biết cách trình bày bài giải đúng, đẹp. 
	Năm học này tôi được phân công trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy lớp 3A. Ngay từ đầu năm học mới, sau khi nhận lớp, tôi đã thử nghiệm ngay những ý tưởng của mình. Những kết quả mà các em đạt được sau những lần thi do nhà trường, ra đề đã cho thấy công sức tôi bỏ ra đã có kết quả nhất định. 	
 	Có được kết quả như vậy một phần nhờ tinh thần học tập tích cực, tự giác của học sinh, sự quan tâm nhắc nhở của phụ huynh học sinh, bên cạnh đó là các biện pháp giáo dục đúng lúc, kịp thời của giáo viên.
	Qua kết quả đã đạt được trên, tôi thấy số học sinh yếu tuy vẫn còn nhưng chỉ còn với tỉ lệ khá nhỏ, số học sinh khá giỏi tăng. So với năm học trước thì kết quả trên thật là một điều đáng mừng. Điều đó cho thấy những cố gắng trong đổi mới phương pháp dạy học của tôi đã có kết quả khả quan. Đó chính là động lực để tôi tiếp tục theo đuổi ý tưởng của mình.
	 Với kết quả này, chắc chắn khi các em học lên các lớp trên, các em sẽ vẫn tiếp tục phát huy hơn nữa với những bài toán có lời văn yêu cầu ở mức độ cao hơn.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
	1. Kết luận: Tóm tắt kết quả sang kiến đạt được
	 Giúp học sinh giải toán có lời văn tốt, tôi luôn luôn chú ý rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho các học sinh trong các giờ học Tiếng Việt, bởi vì học sinh đọc thông, viết thạo là yếu tố “đòn bẩy” giúp học sinh hiểu rõ đề và tìm cách giải bài toán một cách linh hoạt, đồng thời khi đọc bài toán phải đọc đúng từng từ, từng ý, hiểu bài toán thì mới tìm ra hướng đi đúng và hay.
	- Thực tế giảng dạy tôi thấy khả năng suy luận của học sinh còn chưa tốt. Học sinh chưa có kỹ năng phân tích - tổng hợp trước một đề toán. Khả năng chuyển bài toán hợp về các bài toán đơn còn yếu. Khi giải toán các em chưa tập hợp được kiến thức, nhiều em lúng túng kể cả một số em có lực học khá. Các em phải biết tổng hợp được kiến thức, nêu miệng được các bước giải. Điều đáng chú ý ở đây là cách đặt lời giải cho phép tính. Một số em chưa biết cách đặt lời giải hoặc lời giải đặt chưa hợp lý. chú ý cả đến danh số, nhiều khi các em có câu trả lời và phép tính đúng nhưng viết danh số lại sai, chứng tỏ em đó chưa hiểu rõ bản chất của bài toán. Do các em không được uốn nắn, luyện tập nhiều trong quá trình học.
	Như vậy nguyên nhân cơ bản dẫn đến các em không làm được bài làm là: Năng lực tư duy của các em phát triển không đồng đều, khả năng suy luận còn rất kém. Mặc dù giáo viên đã hướng dẫn các em nêu đề toán, tìm hiểu đề và gợi ý nêu miệng lời giải nhưng cách trình bày, sự trau chuốt lời giải của các em chưa được thành thạo. Hiểu được những thiếu sót đó của các em , ở những tiết toán có bài toán giải tôi thường dành nhiều thời gian hơn để hướng dẫn kĩ và kết hợp trình bày mẫu nhiều bài giúp các em ghi nhớ và hình thành kĩ năng.
	Từ những vướng mắc trong thực tế giảng dạy, cùng với lòng say mê, nhiệt tình nghiên cứu và áp dụng thực tế vào lớp học do tôi chủ nhiệm đã giúp tôi hoàn thành ý tưởng của mình. Mỗi lần thực hiện, vận dụng vào thực tế lớp học tôi lại rút ra được một vài kinh nghiệm sau:
	 - Mỗi giáo viên phải thực sự nhiệt tình, say mê với nghề nghiệp, với lương tâm trách nhiệm của người thầy, luôn quan tâm động viên giúp đỡ tới từng đối tượng học sinh.
 - Trong quá trình giảng dạy không nên quá phụ thuộc vào sách giáo viên, vì sách giáo viên chỉ là tài liệu hướng dẫn – tham khảo, không thể áp dụng đại trà với mọi đối tượng học sinh trong lớp được.
	- Luôn nắm bắt, đúc rút những vướng mắc, khó khăn thực tế ở lớp mình dạy, để từ đó nghiên cứu tìm ra hướng giải quyết tốt nhất. 
	- Mỗi biện pháp giáo dục của giáo viên phải được thực hiện đúng thời điểm, đúng nội dung ở từng bài học có như vậy thì hiệu quả giảng dạy mới được nâng cao.
 - Cần quan tâm, động viên, khuyến khích, giúp đỡ các em vượt qua mọi khó khăn để học tập tốt hơn.
 - Trong quá trình hướng dẫn giải toán có lời văn ( ở lớp 3 ) giáo viên cần lưu ý hơn nữa tới việc hướng dẫn cho các em cách đặt câu lời giải cho hay, cho súc tích. Vì việc thực hiện phép tính các em đều có thể nêu được ngay sau khi đọc xong đề toán.
 - Để giúp học sinh có kĩ năng giải toán thành thạo, người giáo viên cần chú ý nhiều đến luyện kĩ năng hỏi - đáp giúp các em có vốn từ ngữ lưu thông hơn, giúp các em dễ dàng đặt câu lời giải cho bài toán.
 - Phải cố gắng khắc phục các sai lầm của các em trong mỗi bài, mỗi phần, mỗi dạng toán, khi các em chưa làm được bài phải tìm hiểu xem vì lí do gì, nếu cần giáo viên có thể nhẹ nhàng giải giải, tránh để các sai lầm dồn lại sẽ khó giải quyết.
 - Điều rất quan trọng nữa là sự mềm mỏng, kiên trì uốn nắn học sinh của giáo viên trong mọi lúc của giờ học.
 - Trong mỗi tiết học, người giáo viên cũng cần tìm ra nhiều biện pháp, nhiều hình thức hoạt động học tập như: Làm việc chung với lớp, làm việc cá nhân, làm việc theo nhóm và tập trung chú ý tới cả 3 đối tượng để giúp các em học tốt hơn, đặc biệt chú ý đến đối tượng học sinh trung bình, yếu. Vì các em này thường thiếu tự tin, chưa hiểu bài nhưng không dám hỏi nên dễ dẫn đến sai nối tiếp sai.
 - Người giáo viên cần phải luôn luôn có ý thức học hỏi và trau dồi kiến thức để đáp ứng với yêu cầu ngày một đổi mới của xã hội. Muốn thế, người giáo viên phải giành nhiều thời gian để nghiên cứu, tự tìm tòi trong các tài liệu có liên quan, tham gia tích cực vào các lớp nghiệp vụ do ngành, trường tổ chức. Điều quan trọng nhất trong dạy học là: Lòng yêu nghề và trình độ chuyên môn của mỗi giáo viên.
 - Nếu được thực hiện đồng bộ, đúng lúc, kịp thời các biện pháp trên, tôi tin rằng chất lượng môn toán nói chung và phần giải toán có lời văn dạng toán về nhiều hơn, ít hơn nói riêng của các em lớp 3 sẽ có kết quả nhất định và là nền móng vững chắc để các em học tốt hơn ở các lớp sau.
 - Với một vài kinh nghiệm này, tôi mong muốn được đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học nói chung và với dạng bài “Giải toán có lời văn” trong môn Toán 3 nói riêng. 
Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung của hội đồng khoa học, của các đồng nghiệp để tôi hoàn thiện mình hơn góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
2. Khuyến nghị
 	 Muốn dạy học tốt phần giải toán có lời văn nói riêng, giải toán hợp lớp 3 nói chung thì chúng ta cần phải:
	Tìm hiểu và nắm bắt được các ứng dụng của từng phương pháp để giải những dạng toán nào, từ đó vận dụng tốt phương pháp trong hoạt động giải toán.
	Tìm hiểu thực trạng dạy và học giải toán ở trường Tiểu học hiện nay để có sự điều chỉnh kịp thời.
	Đọc kĩ đề bài để lựa chọn phương pháp giải thích hợp, hiệu quả nhất.
 Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi. Rất mong sự góp ý của ban giám hiệu nhà trường và sự trao đổi của bạn bè đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
PHỤ LỤC
TT
Nội dung
Trang
 Tóm tắt sáng kiến
1
 Mô tả sáng kiến
4
1
 Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
4
2
 Cơ sở lí luận của đề tài
4
3
 Thực trạng của vấn đề
5
3.1
 Với dạng toán có nội dung hình học
6
3.2
 Với dạng toán về nhiều hơn, ít hơn
8
3.3
 Với dạng bài toán liên quan đến rút về đơn vị
10
3.4
 Kết quả kiểm tra ban đầu
11
4
 Các giải pháp, biện pháp thực hiện
12
4.1
 Hình thành công thức, quy tắc toán.
12
4.1.1
Dạng toán có lời văn về nhiều hơn, ít hơn
12
4.1.2
Dạng toán có nội dung hình học
16
4.1.3
Dạng toán lien quan đến rút về đơn vị
17
4.2
Giải pháp chung để hướng dẫn học sinh giải các bài toán
17
4.2.1
Đọc kĩ đề toán
18
4.2.2
Tóm tắt đề toán
18
4.2.3
Phân tích bài toán
18
4.2.4
Viết bài giải
20
4.2.5
Kiểm tra và đánh giá cách giải
21
4.3
Khích lệ học sinh tạo hứng thú học tập
22
4.4
Dạy thực nghiệm
28
5
 Kết quả đạt được
23
 Kết luận và khuyến nghị
25
 Phụ lục 
30
 Toán (Tiết 50)
Bài toán giải bằng hai phép tính
I. Mục tiêu:
	- Bước đầu biết giải và trình bày bài giải bài toán bằng hai phép tính. 
	- Bài tập cần làm bài: 1, 3
II. Chuẩn bị: Bảng nhóm, bộ đồ dùng toán 3
III. Các hoạt động dạy học chủ yếu. 
 1. Hình thành kiến thức:
 Bài toán1: Hàng trên có 3 cái kèn, hàng dưới có nhiều hơn hàng trên 2 cái kèn. Hỏi
 a) Hàng dưới có mấy cái kèn?
 b) Cả 2 hàng có mấy cái kèn?
HS nắm được cách giải
Bài giải
a) Số kèn ở hàng dưới là:
 3 + 2 = 5 (cái)
b) Số cái kèn ở cả hai hàng là:
 3 + 5 = 8 (cái)
 Đáp số: a) 5 cái kèn
 b) 8 cái kèn
 Bài toán 2: Bể thứ nhất có 4 con cá, bể thứ hai có nhiều hơn bể thứ nhất 3 con cá.Hỏi cả 2 bể có bao nhiêu con cá?
 Bài giải:
Số cá trong bể thứ hai là: 
 4 + 3 = 7 (con)
 Số cá ở cả 2 bể là: 
 4 + 7 = 119 con)
 Đáp số: 11 con 
+ GV giới thiệu: Đây là bài toán giải bằng 2 phép tính.
- GV yêu cầu học sinh kiểm tra lại kết quả xem đã đúng với yêu cầu của bài chưa?
 2. Hướng dẫn HS luyện tập:
 Bài 1:
Muốn biết cả hai anh em có bao nhiêu tấm ảnh ta phải đi tìm gì?
 Bài giải:
 Số bưu ảnh của em là:
 15 – 7 = 8 ( bưu ảnh)
 Số bưu ảnh của cả hai anh em là:
 15 + 8 = 23 (bưu ảnh)
 Đáp số: 23 bưu ảnh
 Bài 3: 
Bao gạo	
Bao ngô	
 Sau đó cho các em luyện cách trả lời miệng:
 Rồi tự trình bày bài giải: 
Bài giải
Số ki – lô - gam ngô cân nặng là: 
27 + 5 = 32 (kg)
Số ki – lô - gam gạo và ngô cân nặng là: 
 32 + 27 = 59 (kg)
Đáp số: 59 kg.
 3. Củng cố:
- GV nêu bài toán, dùng bộ đồ dùng toán để minh hoạ.
- GV hướng dẫn HS tóm tắt bài toán bằng sơ đồ.
- HS thảo luận tìm các bước giải.
- HS tự giải bài, nêu lời giải.
- GV nhân xét lời giải đúng.
- Yêu cầu học sinh thử lại kết quả theo yêu cầu bài ra để khẳng định kết quả đúng.
- GV nêu bài toán. HS đọc thầm bài toán xem bài toán cho biết gì? ( cho biết bể thứ nhất có 4 con cá, bể thứ hai có nhiều hơn bể thứ nhất 3 con cá) Bài toán hỏi gì? (Hỏi cả 2 bể có bao nhiêu con cá?)
Muốn tìm số cá ở cả hai bể ta cần biết gì?
( Biết số cá ở bể thứ nhất và số cá ở bể thứ hai) Vậy số cá ở bể thứ nhất đã biết ta phải đi tìm số cá ở bể thứ hai.
Muốn tìm số cá ở bể thứ hai ta làm phép tính gì? ( Lấy 3 + 4) Tìm được số cá ở bể thứ hai, muốn tìm số cá ở cả hai bể ta làm thế nào? ( lấy số cá ở bể thứ hai + số cá ở bể thứ nhất)
- Học sinh tự hoàn thành bài.
* Vậy với bài toán 1 em hãy chuyển thành bài toán giải bằng hai phép tính được không? Em chuyển thế nào?
Hàng trên có 3 cái kèn, hàng dưới có nhiều hơn hàng trên 2 cái kèn. Hỏi cả 2 hàng có mấy cái kèn?
- HS nêu yêu cầu của bài.
- Tìm số bưu ảnh của em.
- GV hướng dẫn HS tóm tắt và giải bài.
HS làm bài cá nhân, trình bày bài trên bảng nhóm.
Cả lớp nhận xét, bổ sung.
GV chốt bài giải đúng.
- GV nêu yêu cầu, hướng dẫn HS quan sát sơ đồ.
HS nêu lời cho bài toán: 
Bao gạo nặng 27 kg. Bao ngô nặng hơn bao gạo 5kg. Hỏi cả hai bao gạo và ngô nặng tất cả bao nhiêu ki - lô - gam?
GV chữa bài.
* GV nhấn mạnh nội dung giờ học, nhận xét giờ học.
- Lưu ý cách giải bài toán bằng hai phép tính.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_giup_hoc_sinh_tiep_thu_cham.doc
Sáng Kiến Liên Quan