Một số phương pháp giúp học sinh Lớp 4 học tốt môn Tiếng Anh

 Đất nước ta đang trong thời kỳ phát triển lấy nền kinh tế tri thức làm nền tảng cho sự phát triển và coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu và cải tiến chất lượng dạy và học để hoàn thành tốt việc đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực con người cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Để tồn tại và phát triển xây dựng và bảo vệ tổ quốc theo kịp các nước phát triển đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt được các thành tựu tiên tiến nhất. Nhằm đưa đất nước Việt Nam trở thành một nước văn minh giàu mạnh.

Để đạt được điều này ,đòi hỏi con người phải có sự giao lưu học hỏi bạn bè quốc tế.Muốn vậy chúng ta phải biết ngoại ngữ và sử dụng nó một cách thành thạo .Chính vì vậy mà tôi thấy việc dạy và học ngoại ngữ trong các nhà trường ,đặc biệt là trường tiểu học là nhu cầu thiết yếu và bắt buộc.

Một trong các ngoại ngữ đang dạy và học phổ biến ở các trường phổ thông và tiểu học ở Việt nam là Tiếng Anh .Tiếng Anh là môn học quan trọng và là môn thi bắt buộc trong kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông ,từ nhuwngx lý do đó việc giảng dạy Tiếng Anh làm sao đạt hiệu quả cao là vấn đề quan trọng đặt ra trước đội ngũ giáo viên tiếng Anh

Bất cứ một ngôn ngữ nào khi giao tiếp chúng ta cần phải có một vốn từ nhất định đẻ trình bày diễn đạt .Mặt khác ,với lứa tuổi học sinh tiểu học việc tiếp thu sâu sắc bản chất của ngôn ngữ còn quá khó .chúng ta chỉ cần các em hiểu và biết được “Tiếng Anh ” là gì?từ ngữ trong Tiếng Anh có nghĩa trong Tiếng Việt là gì?để có được câu hay và hoàn chỉnh đúng ngữ pháp trước hết các em phỉ có nguồn từ vựng phong phú và cách dùng từ như thế nào cho hợp lý.Và làm sao để học và nhớ được từ?Theo kinh nghiệm của bản thân tôi ,Tôi thấy một thực trạng là đa số học sinh còn yếu về phương pháp học tiếng Anh như :

 -Không nắm được từ vựng nên không hiểu nội dung bài hội thoại

 -Không nắm từ vựng nên ngại nói bằng Tiếng Anh trong các giờ học

 Để khắc phục những tình trạng bất cập trên của học sinh Tôi xin nêu ra vài phương pháp mà bản thân tôi đã sử dụng trong quá trình giảng dạy giúp học sinh đạt kết quả tiến bộ hơn trong học tập.

 

doc18 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 14618 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Một số phương pháp giúp học sinh Lớp 4 học tốt môn Tiếng Anh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư thời gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động.
- Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là:
+ Form (dạng từ).
+ Meaning (ý nghĩa).
+ Use (cách sử dụng).
Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát âm đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ.
-Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ của học sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 từ.
- Trong khi lựa chọn từ để dạy, bạn nên xem xét đến hai điều kiện sau: 
+ Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ?
+ Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ?
	- Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn phải dạy cho học sinh.
- Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của học sinh, thì nó không thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn nên giải thích rồi cho học sinh hiểu nghĩa từ đó ngay.
- Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm thì bạn nên yêu cầu học sinh đoán.
 b. Các thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới:
- Giáo viên có thể dùng một số thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới như:
1. Visual (nhìn): cho học sinh nhìn tranh ảnh, vẽ phác họa cho các em nhìn, giúp giáo viên ngữ nghĩa hoá từ một cách nhanh chóng.
Ví dụ: a car	 ví dụ: a flower
Tranh ảnh sẽ thu hút sự chú ý của học sinh trong việc rút ra từ mới đối với những từ khó tìm được vậy thật để dạy hoặc khó mô tả cho học sinh hiểu .
Ví dụ :climb 
 Get up
 Go to shool
2. Mine (điệu bộ): Thể hiện qua nét mặt, điệu bộ.
Ví dụ: bored ,Tired ,hungry
Teacher looks at watch, makes bored face, yawns
T. asks: “How do I feel?”
 Ví dụ: (to) jump
T. jumps
T. asks: “What am I doing?”
3. Realia (vật thật): Dùng những dụng cụ trực quan thực tế có được.
Sử dụng vật thật đối với những bài về những đồ vật đơn giản gần gũi với đời sống dễ tìm như đồ dùng học tập ,đồ dùng trong gia đình.
Ví dụ: cakes (count), rice (uncount.)
T. brings real cakes and rice into the class.
T. asks, “What’s this?”
Ví dụ: open (V.), closed (v.)
T. opens and closes the door
T. says, “Tell me about the door: it’s..........what?”
4. Situation / explanation(tình huống/giải thích):
Ví dụ: honest
T. explains, “I don’t tell lies. I don’t cheat in the exams. I tell the truth.”
T. asks, “What am I? Tell me the word in Vietnamese.”
5. Example(ví dụ):
Ví dụ: fumiture
T. lists examples of fumiture: “tables, chairs, beds – these are all ... fumiture ... Give me another example of... fumiture...”
Ví dụ: (to) complain
T. say, “This room is too noisy and too small. It’s no good (etc.)”
T. asks, “What am I doing?”
6. Synonyon \ antonyon (đồng nghĩa \ trái nghĩa): 
Giáo viên dùng những từ đã học rồi để giảng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa.
Ví dụ: intelligent
T. asks, “What’s another eord for clever?”
Ví dụ: stuppid
T. asks, “What’s the opposite of clever?”
7. Translation (dịch): 
Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng Việt để giảng nghĩa từ trong tiếng Anh. Giáo viên chỉ sử dụng thủ thuật này khi không còn cách nào khác, thủ thuật này thường được dùng để dạy từ trừu tượng, hoặc để giải quyết một số lượng từ nhiều nhưng thời gian không cho phép, Giáo viên gợi ý học sinh tự dịch từ đó.
Ví dụ: (to) forget
 T. asks, “How do you say “quên” in English?”
8. T’s eliciting questions (câu hỏi gợi ý) : 
Để giới thiệu từ mới, giáo viên dạy cho học sinh theo bốn kỹ năng nghe – nói – đọc – viết.
+ Nghe: Giáo viên đọc mẫu, học sinh lắng nghe.
+ Nói: Giáo viên đọc từ, học sinh đọc lại.
+ Đọc: Giáo viên viết từ lên bảng, học sinh đọc từ bằng mắt, bằng miệng.
+ Viết: Học sinh viết từ vào tập.
Trong khi dạy từ mới phải ghi nhớ các điểm sau: Nên giới thiệu từ trong mẫu câu, ở những tình huống giao tiếp khác nhau, giáo viên kết hợp việc làm việc đó, bằng cách thiết lập được sự quan hệ giữa từ cũ và từ mới, từ vựng phải được củng cố liên tục.
Giáo viên thường xuyên kiểm tra từ vựng vào đầu giờ bằng cách cho các em viết từ vào bảng con và giơ lên, với cách này giáo viên có thể quan sát được toàn bộ học sinh ở lớp, bắt buộc các em phải học bài và nên nhớ cho học sinh vận dụng từ vào trong mẫu câu, với những tình huống thực tế giúp các em nhớ từ lâu hơn, giao tiếp tốt và mang lại hiệu quả cao.
Để học sinh tiếp thu bài tốt đòi hỏi khi dạy từ mới, giáo viên cần phải lựa chọn các phương pháp cho phù hợp, chúng ta cần chọn cách nào ngắn nhất, nhanh nhất, mang lại hiệu quả cao nhất, là sau khi học xong từ vựng thì các em đọc được, viết được và biết cách đưa vào các tình huống thực tế.
* Biện pháp tổ chức thực hiện:
 a/. Các bước tiến hành giới thiệu từ mới:
* Bước giới thiệu bài, giới thiệu chủ đề: đây là bước khá quan trọng trong việc dạy từ vựng. Bước này sẽ quyết định sự thành công của tiết học, nó sẽ gợi mở cho học sinh liên tưởng đến những từ sắp học qua chủ điểm vừa mới được giới thiệu.
Điều quan trọng nhất trong giới thiệu từ mới là phải thực hiện theo trình tự: nghe, nói, đọc, viết. Đừng bao giờ bắt đầu từ hoạt động nào khác “nghe”. Hãy nhớ lại quá trình học tiếng mẹ đẻ của chúng ta, bao giờ cũng bắt đầu bằng nghe, bắt chước phát âm rồi mới tới những hoạt động khác. Hãy giúp cho học sinh của bạn có một thói quen học từ mới một cách tốt nhất:
- Bước 1: “nghe”, bạn cho học sinh nghe từ mới bằng cách đọc mẫu hoặc mở băng đĩa cho học sinh nghe.
- Bước 2: “nói”, sau khi học sinh đã nghe được ba lần bạn mới yêu cầu học sinh nhắc lại. Khi cho học sinh nhắc lại, bạn cần chú ý cho cả lớp nhắc lại trước, sau đó mới gọi cá nhân.
- Bước 3: “đọc”, bạn viết từ đó lên bảng và cho học sinh nhìn vào đó để đọc. Cho học sinh đọc cả lớp, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho học sinh tới một chừng mực mà bạn cho là đạt yêu cầu.
- Bước 4: “viết”, sau khi học sinh đã đọc từ đó một cách chính xác rồi bạn mới yêu cầu học sinh viết từ đó vào vở.
- Bước 5: bạn hỏi xem có học sinh nào biết nghĩa của từ đó không và yêu cầu một học sinh lên bảng viết nghĩa của từ đó bằng tiếng Việt.
- Bước 6: đánh trọng âm từ: phát âm lại từ và yêu cầu học sinh nhận diện âm tiết có trọng âm và đánh dấu.
- Bước 7: cho câu mẫu và yêu cầu học sinh xác định từ loại của từ mới học.
B Dạy từ:
Khi dạy từ người dạy không nên dịch nghĩa suông ,mà cần cho ví dụ minh họa cho nghĩa và cách dùng từ đẻ người học hiểu và nhớ lâu .Chỉ dùng tiếng Việt dịch nghĩa khi từ là một dnh từ trìu tượng.
 -Sau khi giới thiệu nghĩa từ ,để kiểm tra mức tiếp thu của người học ,người dạy yêu cầu người học nói lại nghĩa của từ bằng tiếng Anh /Việt tùy trình độ Bước này giúp cho người học hiểu và khuyến khích họ lắng nghe cách dùng từ trong văn cảnh Tiếng Anh.Ví dụ muốn kiểm tra lại người học nghĩa của từ House,giáo viên có thể dùng một số hình vẽ trong đó có hình ngôi nhà thì học sinh sẽ chỉ ra nghĩa của từ house.
 -Với học sinh tiểu học thì việc học và nhớ nghĩa từ là điều vô cùng quan trọng trong việc học tiếng .Vì thế giáo viên cho học sinh học lặp lại từ quá nhiều lần,điều này dễ làm học sinh chán và không mang lại hiệu quả cho việc nhớ từ .
 -Đối với học sinh tiểu học giáo viên không phiên âm các từ mới.Chỉ nên khuyến khích các em nghe và phát âm các từ theo mức độ nghe của mình và ghi chú cách đọc theo sự hiểu biết của mình
 -Có những trường hợp từ vựng được dạy gồm nhiều từ đi với nhau thì có nghĩa khác còn khi tách riêng từng từ một thì lại có nghĩa khác ,ví dụ từ “Good morning”buổi sáng ,đây là một đơn vị từ gồm 2 từ “Good”(tốt)và “morning”(buổi sáng)nếu ghép đúng nghĩa các từ lại với nhau thì câu sẽ không có nghĩa như nguyên bản Tiếng Anh và sẽ làm cho các em nhầm lẫn. Vì thế giáo viên không nên tách ra từng từ để dạy trong trường hợp như thế ,do đó giáo viên phải khuyến khích các em có những mẩu giấy để ghi chép các từ 
 - Lứa tuổi tiểu học là lúa tuổi dễ học theo cái gì có sẵn. Vì vậy giáo viên không nên giải thích nhiều về cấu trúc trong đơn vị từ .Đôi lúc giáo viên cần phải giải thích sự khác biệt về nghĩa chứ không phải chỉ cho nghĩa của từ.Ngôn ngữ là một hệ thống ,vì vậy việc giải thích nghĩa nên thông qua hình ảnh và so sánh đối chiếu .Ví dụ để dạy nghĩa của hai từ “big”và từ “small”giáo viên chỉ cần vẽ lên bảng 2 các thước kẻ một cái lớn và một cái bé như vậy học sinh sẽ hình dung ra ngay nghĩa của từng từ.
 - Trong Tiếng Anh cũng như tiếng Việt ,một từ thường có những liên hệ với các từ khác .Vì vậy dạy theo mối quan hệ đồng nghĩa và phản nghĩa cũng rất hiệu quả .Đồng nghĩa không có nghĩa là giống hệt nhau mà chúng có nghĩa tương tự :Ví dụ như từ “see”(nhìn, thấy, xem) và từ “Look”(nhìn)hoặc từ “Table”và từ “desk”
 - Việc dạy từ vựng là một vấn đề quan trọng nhưng việc học như thế nào để nhớ được từ lâu cũng quan trọng không kém .Người dạy không nên ép buộc học sinh phải học theo một cách gò bó nhất định mà khuyến khích động viên học sinh chủ động nghĩ ra cách học theo kiểu của riêng mình.
 -Để quá trình dạy và học từ vựng có hiệu quả và không nhàm chán ,giáo viên phải luôn thay đổi cách dạy sao cho lôi cuốn và làm cho người học dễ nhớ .
 -Ngoài những phương pháp cụ thể ,giáo viên có thể kết hợp một lúc nhiều kỹ thuật để dạy từ nhưng yêu cầu phải thao tác nhanh tránh mất thời gian.Ví dụ dạy từ “walking”,sau khi đọc và viết lên bảng giáo viên nói:
T:look at the picture.he’s walking .now look at me .l’m walking,too(bắt chước hành động đang đi)walking ,walking.it’s an action.repeat.Walking.
 Sts:walking
 T:Good Sts A,what does “walking”mean in Vieettnamese?
 Sts: đang đi bộ.
 c/. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố từ mới:
Chúng ta biết rằng chỉ giới thiệu từ mới thôi không đủ, mà chúng ta còn phải thực hiện các bước kiểm tra và củng cố. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố sẽ khuyến khích học sinh học tập tích cực và hiệu quả hơn. Trong hoạt động này, chúng ta có thể sử dụng để kiểm tra từ mới. Sau đây là các thủ thuật kiểm tra từ mới:
1.Matching:Nối các từu ở cột A với từ ở cột B,nối từ /cụm từ với tranh /đồ vật v..v
 Ex:nối từ/ cụm từ với tranh 
 1-orange juice
 2-minerral water
 3-ride a bike.
 4-house.
 5- rice 
 6-bread.
2. Rub out and Remember 
3. Slap the board 
4. What and where 
5. Bingo 
6. Lisle order vocabulary 
7. Picture drill
8.Hang man 
9. Kim’ s Game
10.Simon says.
*Hướng dẫn học sinh học từ vựng ở nhà:
Để phát huy tốt tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, thì chúng ta cần tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học, trong quá trình dạy và học, giáo viên chỉ là người truyền tải kiến thức đến học sinh, học sinh muốn lĩnh hội tốt những kiến thức đó, thì các em phải tự học bằng chính các hoạt động của mình.
Hơn nữa thời gian học ở trường rất ít, cho nên đa phần thời gian còn lại ở gia đình các em phải tổ chức cho được hoạt động học tập của mình. Làm được điều đó, thì chắc chắn hoạt động dạy và học sẽ ngày càng hoàn thiện hơn.
Cho nên ngay từ đầu từ năm học, giáo viên cần hướng dẫn học sinh xây dựng hoạt động học tập ở nhà.
a/. Chuẩn bị từ vựng.
b/. Học thuộc lòng từ vựng.
5.4.1. Tính mới của đề tài:
*Tính mới của đề tài:
- Trước khi đi vào những vấn đề cụ thể, chúng ta thống nhất với nhau rằng, phương pháp chủ đạo trong dạy học ngoại ngữ của chúng ta là lồng ghép, nghĩa là từ mới cần được dạy trong ngữ cảnh, ngữ cảnh có thể là một vật thật, tranh ảnh hay một bài hội thoại. Tuy nhiên, nói đến cùng thì việc dạy và học ngoại ngữ vẫn là việc dạy từ mới như thế nào, dạy cấu trúc câu mới như thế nào để học sinh biết cách sử dụng từ mới và cấu trúc mới trong giao tiếp bằng tiếng nước ngoài.
Ngay từ đầu, giáo viên cần xem xét các thủ thuật khác nhau cho từng bước xử lý từ vựng trong các ngữ cảnh mới : gợi mở, dạy từ, kiểm tra và củng cố từ vựng.
- Có nên dạy tất cả những từ mới không ? dạy bao nhiêu từ trong một tiết thì thừa ?
- Dùng sẵn mẫu câu đã học hoặc sắp học để giới thiệu từ mới.
- Dùng tranh ảnh , dụng cụ trực quan để giới thiệu từ mới .
- Đảm bảo cho học sinh nắm được cấu trúc , vận dụng từ vựng vào cấu trúc để hoàn thiện chức năng giao tiếp. Thiết lập mối quan hệ giữa cấu trúc mới và vốn từ đã có.
- Khắc sâu vốn từ trong trí nhớ của học sinh thông qua các mẫu câu và qua những bài tập thực hành.
	- Bên cạnh đó, phương pháp này có thể áp dụng với mọi đối tượng trên địa bàn huyện.
 * Định hướng chung của đề tài:
Sau khi phân tích những nguyên nhân làm cho học sinh sợ học tiếng Anh, thường xuyên không thuộc bài và việc dạy từ vựng ở trường phổ thông chưa đạt hiệu quả cao. Cụ thể vào đầu năm học khi nhận giảng dạy tiếng Anh tiểu học, sau vài tiết học đầu tiên, tôi cho học sinh của lớp 4a làm bài kiểm tra từ vựng, tôi yêu cầu các em nối từ tiếng Anh với nghĩa từ tiếng Việt phù hợp (Matching). Dịch từ sang tiếng Việt, dịch từ sang tiếng Anh. Cuối cùng tôi thu được kết quả như sau :
TSHS
Nối từ
Dịch sang tiếng Việt
Dịch sang tiếng Anh
30
20
15
10
Với kết quả như thế, tôi quyết định thử áp dụng một số kinh nghiệm dạy từ vựng của mình qua những năm đứng lớp và suốt những tiết học sau tôi áp dụng những kinh nghiệm của mình được trình bày sau đây, để cuối năm so sánh với kết quả ban đầu.
	5.4.2. Khả năng áp dụng:
- Có thể áp dụng cho các học sinh tiểu học ở trường và các trường tiểu học trong Huyện.
- Sau một thời gian vận dụng các thủ thuật giúp học sinh học từ vựng trên lớp và một số thủ thuật giúp học sinh học từ vựng khi ở nhà. Nguồn từ vựng của học sinh đã được tăng lên rõ rệt. Có được nguồn từ vựng này sẽ giúp các em tích cực tham gia học tập, nghiên cứu, tự tin hơn trong thực hành và giao tiếp, góp phần nâng cao chất lượng học tập trong bộ môn tiếng Anh của học sinh và hiệu quả trong việc giảng dạy tiếng Anh của giáo viên. Như vậy, việc vận dụng các thủ thuật giúp học sinh học từ vựng ở trên lớp, không chỉ tạo không khí vui vẻ, phấn khởi học tập của học sinh, mà là một thủ thuật khoa học, sáng tạo của người thầy. Tôi tin rằng nếu tiếp tục thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này một cách nghiêm túc, xuyên suốt quá trình giảng dạy thì chất lượng học tập bộ môn Tiếng Anh trong trường Tiểu học Thanh Văn nói riêng mà còn trong cả huyện sẽ có được những kết quả khả quan hơn.
5.4.3. Kết quả thực hiện:
a/. Kết quả cụ thể:
Sau một thời gian áp dụng " Phương pháp dạy từ vựng”
 Ngoài việc hướng dẫn cách đọc, phát âm đúng từ vựng, mẫu câu, luôn tạo cho học sinh tính chuyên cần, siêng năng khi đọc tiếng Anh, việc học của các em đã tăng đáng kể. Phần lớn các em đều thích học và đọc tiếng Anh với kết quả như sau: 
TSHS
Nối từ
Dịch sang tiếng Việt
Dịch sang tiếng Anh
30
30
25
21
Ngoài ra :
- Các tiết học trở nên sôi nổi và sinh động hơn.
- Học sinh đã thuộc các từ mới ngay tại lớp học.
- Vốn từ vựng của các em tăng lên rõ rệt.
- Các em học sinh yếu kém có thể sử dụng được từ vựng vào những câu đơn giản. Những học sinh khá có thể sử dụng từ vựng trong những câu phức tạp hơn.
b/. Ưu điểm và hạn chế của sáng kiến kinh nghiệm.
* Ưu điểm:
-Có thể áp dụng rộng rãi, có tính khả thi cao.
-Áp dụng phương pháp này giúp học sinh năng động, sáng tạo, và có hứng thú hơn vào bài học và môn học.
* Hạn chế: 
- Là giáo viên mới giảng dạy tiếng Anh tiểu học do đó kinh nghiệm, phương pháp dạy học sinh còn hạn chế.
 6. Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình giảng dạy, tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm nhỏ cho mình trong việc giảng dạy như sau:
Trong quá trình dạy sẽ có rất nhiều khó khăn cho cả giáo viên và học sinh vì lẽ : học sinh khó tập trung nghiêm túc bởi các tác nhân xung quanh hoặc là do không thích học. Tuy nhiên giáo viên cần phải bình tĩnh xử lí từng tình huống một theo cách hợp lý và tốt nhất để tránh gây căng thẳng cho tiết học. Muốn vậy, tôi đã rút ra được một số nguyên tắc sau để đảm bảo cho tiết học có hiệu qủa, trong đó giáo viên và học sinh cần phải thực hiện một cách tích cực :
Chuẩn bị bài dạy chu đáo trước khi đến lớp.
Phân bố thời gian tiết dạy sao cho phù hợp và cân đối.
Giáo viên và học sinh cần chủ động trong từng nhiệm vụ cũng như trong từng phần của bài học.
Giáo viên cần có tầm quan sát tốt học sinh trong lớp.
- Khuyến khích học sinh học tập tích cực trong quá trình học. Ngay cả khi các em có đọc hay trả lời sai, gióa viên cần động viên tích cực để các em không mất tự tin.
Kiểm tra sự hiểu bài của học sinh qua mỗi tiết dạy trong phần thực hành.
Hướng dẫn học sinh cách học ở nhà.
Học sinh cần chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp và học từ vựng ở nhà
 7. Kết luận:
 Tôi thực hiện đề tài này chỉ là một phần trong tiết học, tuy nhiên nó đóng vai trò rất quan trọng cho việc thực hành mẫu câu, việc đối thoại có trôi chảy, lưu loát hay không đều phải phụ thuộc vào việc học thuộc lòng từ vựng và phát âm có chuẩn hay không. Nhưng để có được những bài dạy từ vựng tốt cuốn hút học sinh và có hiệu quả , ngoài việc sử dụng sách giáo viên ,sách tham khảo thì trong quá trình dạy và sau mỗi giờ dạy tôi tự luận lại các tiến trình trong phương pháp truyền đạt của mình có những điểm nào tốt và tâm đắc , những điểm nào chưa thực như ý để từ đó rút ra kinh nghiệm cho mình .đồng thời thường xuyên dự giờ học hỏi những điều hay ở đồng nghiệp , nhờ đồng nghiệp dự giờ và góp ý cho mình .Tích cực nghiên cứu tài liệu có liên quan đến lĩnh vực ngôn ngữ đặc biệt là Tiếng Anh .
 Ngoài ra một trong các yếu tố góp phần làm lên sự thành công ấy là giáo cụ trực quan .tôi luôn tìm tòi sưu tầm thêm những vật dụng có thể làm đồ dùng cho học tập và giảng dạy như tranh ảnh ,lịch cũ ,bìa cứng ,các con vật ,đồ vật bằng nhựa như đồ chơi trẻ em Bởi vì lứa tuổi học sinh tiểu học luôn thích khám phá trực quan sinh động. Thực hiện giảng dạy tốt một tiết từ vựng, không chỉ cần có sự đầu tư vào bài giảng, vào các bước lên lớp của giáo viên, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sự hợp tác của học sinh. Do vậy tôi đã đưa ra một số yêu cầu đối với học sinh như: Chuẩn bị bài ở nhà, trong giờ học phải nghiêm túc. 
 Qua quá trình giảng dạy, tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm nhỏ và kết quả thu được rất đáng mừng. Số học sinh đọc kém, ít nhớ từ vựng, viết chậm trong lớp giờ đã giảm xuống rất nhiều chứng tỏ ý thức học tập của các em rất tốt. Những giờ học tiếng Anh rất hăng say đọc, không những đọc to, rõ ràng mà nhiều em còn có thể nhớ từ rất giỏi khi chỉ vừa mới học xong bài. Và bước đầu tiên vào học môn tiếng Anh đã khởi sắc. Cũng là yếu tố quan trọng để các em học ở phần các chương trình khác nhau.
 Trên đây là một số phương pháp cũng như suy nghĩ của tôi trong quá trình dạy từ vựng Tiếng Anh ở tiểu học .Tôi xin mạnh dạn nêu ra đây để góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học Tiếng Anh ở bậc tiểu học.Rất mong quý đồng nghiệp bổ sung thêm đẻ cho đề tài này ngày càng phong phú và hiệu quả hơn .
Tôi xin chân thành cảm ơn với những sự góp ý nhiệt tình và sẽ không ngừng học hỏi tìm tòi thêm các phương pháp khác mới đẻ có nhiều kết quả dạy tốt hơn nữa.
8.Ý kiến đề xuất
Để đáp ứng tốt việc dạy và học Tiếng Anh ở trường tiểu học đạt hiệu quả ,cũng như áp dụng triệt để những phương pháp và thủ thuật dạy từ vựng trong sáng kiến kinh nghiệm trên tôi xin mạnh dạn đề xuất với sở giáo dục đào tạo thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng để nâng cao hiệu quả dạy và học Tiếng Anh ở tiểu học .Đối với nhà trường cần đầu tư thêm trang thiết bị dạy như đồ dùng dạy học , đài băng,phòng chức năng 
 Thanh Văn, ngày 20 tháng 4 năm 2015
 Người thực hiện
 Nguyễn Thị Hồng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. The Grammar in use.
2. Teaching Grammar and Vocabulary.
3. Teaching English.
4. Tạp chí thế giới trong ta
5. Sách Let’s learn Engish book
6. Method of Teaching English Grammar
7. Sổ tay người dạy Tiếng Anh.
Ý KIẾN NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
1. TỔ CHUYÊN MÔN
* Nhận xét : 	
* Xếp Loại : 	
Ý KIẾN NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG THI ĐUA CẤP TRƯỜNG
2. HỘI ĐỒNG NHÀ TRƯỜNG
* Nhận xét : 	
* Xếp Loại : 	

File đính kèm:

  • dochong_SKKN.doc
Sáng Kiến Liên Quan