Một số kinh nghiệm dạy học sinh viết văn biểu cảm
“Văn học là nhân học” (M. Gorki). Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triến tư duy của con người. Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn.
Hơn bất cứ hoạt động ý thức tinh thần nào, văn học có khả năng đặc biệt trong việc phát hiện và diễn tả sự bí ẩn, huyền diệu và vô tận của đời sống tâm linh tính cách của con người. Chất nhân văn đó là sự hiểu biết tinh tế, hiểu mình, hiểu người, dạy con người rèn luyện những phẩm chất tốt đẹp, đem đến cho họ sự sáng suốt trong tinh thần và sự phong phú trong tâm hồn. Văn học dạy con người biết nhận thức bản thân mình, dạy con người biết yêu cuộc sống, biết tận hưởng cuộc sống và biết sống.
Sống như thế nào? Suy nghĩ ra sao? Phương hướng hành động?. của mỗi học sinh được tập trung thể hiên nhiều nhất trong bài tập làm văn. Phân môn tập làm văn liên kết tự nhiên và chặt chẽ các phân môn khác của môn Ngữ văn nhằm giúp các em có năng lực tự tạo lập văn bản bằng hình thức ngôn ngữ. Phân môn tập làm văn là khâu trau dồi và rèn luyện ngôn ngữ giúp học sinh có khả năng bộc lộ vốn hiểu biết và cảm xúc cá nhân một cách trong sáng, chân thực. Mỗi bài tập làm văn của các em là sản phẩm sáng tạo thể hiện suy nghĩ, tư tưởng, tình cảm của bản thân. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Dạy làm văn là chủ yếu dạy cho học sinh diễn tả cái gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ ,chính xác, làm nổi bật điều mình muốn nói.” ( Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, Nghiên cứu giáo dục, số 28. 11/1973).
m bộc lộ cảm xúc, chứ không phải phương thức biểu đạt chính. Trong quá trình giảng dạy, nhiều giáo viên ngại dạy môn tập làm văn vì nó khô, khó, học sinh không hứng thú trong những giờ học này, nên rất ít người đầu tư thời gian và trí tuệ thích đáng để giúp các em vượt khó khăn của môn học. Mặt khác khi dạy các em phần tập làm văn, giáo viên mới chú ý nhiều đến vấn đề lí thuyết: Trong một tiết học, thời gian dành cho phần học lí thuyết thì nhiều hơn là phần thực hành, chưa chú trọng phần luyện tập nhất là phần luyện tập ở nhà. Giáo viên chưa vận dụng triệt để biện pháp tích hợp (Văn - Tiếng - Tập làm văn) trong giờ làm văn nói chung và trong bài làm văn biểu cảm nói riêng. Qua thực tế dạy chương trình Ngữ văn 7, tôi nhận thấy kĩ năng vận dụng các phương thức biểu đạt trong văn bản, kĩ năng viết, bộc lộ cảm xúc trong bài tập làm văn của nhiều học sinh chưa cao. Trong những năm trước, khi viết bài tập làm văn số 2 với đề bài “ Loài cây em yêu”, học sinh đã học và hình thành kĩ năng tạo lập văn bản biểu cảm nhưng nhiều em không phân biệt được văn miêu tả và văn biểu cảm nên bài viết không phải viết về thái độ, tình cảm của mình đối với một loại cây cụ thể mà tả về loài cây đó. Hoặc viết bài tập làm văn số 3 đề yêu cầu “ Cảm nghĩ về người thân của em”, học sinh sa vào kể lại người thân. Mặc dù biết rằng trong văn biểu cảm có sử dụng yếu tố miêu tả và tự sự. Song miêu tả và tự sự chỉ nhằm bộc lộ cảm xúc, chứ không phảI phương thức biểu đạt chính. III. CÁC GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN. Theo tôi, cần quán triệt sâu sắc nguyên tắc “Học đi đôi với hành” trong giảng dạy. Do vậy, tôi đã tiến hành các giải pháp như sau: 1. Củng cố những kiến thức, kĩ năng cơ bản cần nắm vững khi làm văn biểu cảm. Đây là khâu quan trọng đầu tiên, không phải chỉ riêng văn biểu cảm mà là ở tất cả các kiểu văn bản được học ở THCS. Việc cung cấp tri thức, kĩ năng về văn biểu cảm được tiến hành ở nhiều tiết, xen kẽ: Từ tiết 20 : “ Tìm hiểu chung về văn biểu cảm”, đến tiết 62 : “ Ôn tập văn biểu cảm” . Do vậy việc củng cố kiến thức, kĩ năng làm văn biểu cảm theo một hệ thống là rất cần thiết . Sau đây là những kiến thức, kĩ năng cơ bản cần cung cấp cho học sinh. 1.1. Giúp học sinh nắm được khái niệm văn biểu cảm Đây là khâu cơ bản, đầu tiên để học sinh có định hướng khi làm bài. Có hiểu được văn biểu cảm là gì, học sinh mới có thể viết văn biểu cảm được. Văn biểu cảm là văn bản viết ra nhằm biểu đạt tình cảm, cảm xúc, sự đánh giá của con người đối với thế giới xung quanh và khêu gợi lòng đồng cảm nơi người đọc. (SGK Ngữ văn 7- Tập I). Thường thì những bài văn biểu cảm tập trung biểu đạt một tình cảm chủ yếu. Tình cảm ấy được bộc lộ trực tiếp thông qua những suy nghĩ, những nỗi niềm, những cảm xúc trong lòng người. Tuy nhiên trong thực tế, khi viết văn biểu cảm (dù ở dạng thơ hay văn xuôi), người ta vẫn thường hay kết hợp sử dụng những phương thức khác như miêu tả, tự sự để bộc lộ thái độ, tình cảm gián tiếp thông qua những đối tượng, những hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ. Tuy nhiên, khi vận dụng phương thức miêu tả và tự sự vào văn biểu cảm thì cũng cần lưu ý: có tả thì cũng không tả một cách cụ thể, hoàn chỉnh; có kể thì cũng không kể một cách chi tiết, đầy đủ, rõ ràng. Người viết văn biểu cảm chỉ chọn những đặc điểm, những sự việc, những thuộc tính nào đó có khả năng gợi cảm để biểu hiện tư tưởng, tình cảm của mình. Về bố cục, bài văn biểu cảm cũng được tổ chức theo mạch cảm xúc của người viết. Do vậy, trình tự các ý, các phần trong văn biểu cảm thường được sắp xếp rất tự nhiên, không gò bó cứng nhắc. Về thái độ, tình cảm, phải đảm bảo tính chân thực, trong sáng, rõ ràng, có nghĩa là không được giả dối, sáo rỗng. Có như vậy, văn biểu cảm mới đi vào lòng người. 1.2. Giúp học sinh nắm được cách làm bài văn biểu cảm Bước 1: Xác định yêu cầu của đề và tìm ý. Phải căn cứ vào các từ ngữ và cấu trúc của đề bài để xác định nội dung, tư tưởng, tình cảm mà văn bản sẽ viết cần phải hướng tới. Từ đó đặt câu hỏi để tìm ý (nội dung văn bản sẽ nói về điều gì? Qua đó cần bộc lộ thái độ, tình cảm gì?) Bước 2: Xây dựng bố cục (dàn bài). Bố cục của văn biểu cảm cũng bao gồm ba phần: Mở bài – Thơ bài – kết bài. Tuy nhiên việc sắp xếp ý để tạo thành một bố cục hoàn chỉnh phụ thuộc vào mạch cảm xúc của người viết, không hề máy móc áp đặt một kiểu nào. Mở bài: Có thể giới thiệu sự vật, cảnh vật trong thời gian và không gian. Cảm xúc ban đầu của mình. Thân bài: Qua miêu tả, tự sự mà biểu lộ cảm xúc, ý nghĩ một cách cụ thể, chi tiết, sâu sắc. Kết bài: kết đọng cảm xúc, ý nghĩ hoặc nâng lên bài học tư tưởng. Bước 3: Viết bài. Đây là bước quan trọng. Trên cơ sở là dàn bài đã xây dựng, người viết triển khai thành bài văn hoàn chỉnh. Cần lưu ý là trong quá trình diễn đạt phải biết kết hợp với các phương thức biểu đạt khác (miêu tả, tự sự, nghị luận); đồng thời phải biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc (so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, điệp ngữ, nói quá). Câu văn có sự biến hoá linh hoạt (có câu trần thuật, câu cảm, câu nghi vấn, câu cầu khiến; câu dài, câu ngắn; có câu tỉnh lược, câu câu tồn tại). Lời văn phải có cảm xúc với vốn từ ngữ giàu hình ảnh, giàu sức gợi cảm. Bước 4: Kiểm tra lại bài. Ngoài việc kiểm tra cách diễn đạt, sửa lỗi cần phải kiểm tra lại xem văn bản đã toát lên tư tưởng, tình cảm chính chưa, hoặc đã tạo được sự xúc động cho người đọc chưa. 1.3. Giúp học sinh nắm được cách lập ý trong văn biểu cảm a. Liên hệ hiện tại với tương lai. Là hình thức dùng trí tưởng tượng để liên tưởng tới tương lai, mượn hình ảnh tương lai để khơi gợi cảm xúc về đối tượng biểu cảm trong hiện tại. Cách biểu cảm này tạo nên mối liên hệ và tương lai. b. Hồi tưởng quá khứ và suy nghĩ hiện tại: là hình thức liên tưởng tới những kí ức trong quá khứ, gợi sống dậy những kỉ niệm để từ đó suy nghĩ về hiện tại . Đây cũng là hình thức lấy quá khứ soi cho hiện tại khiến cho cảm xúc của con người trở nên sâu lắng hơn. Cách biểu cảm này sẽ tạo nên mối liên hệ gắn kết rất tự nhiên và nhuần nhuyễn giữa hiện tại và quá khứ. c. Tưởng tượng tình huống, hứa hẹn, mong ước: Là hình thức liên tưởng phong phú, từ những hình ảnh thực đang hiện hữu để đặt ra các tình huống và gửi gắm vào đó những suy nghĩ và cảm xúc về đối tượng biểu cảm cũng như những ước mơ hi vọng. Cách biểu cảm này đòi hỏi người viết văn biểu cảm phải có trí tưởng tượng phong phú. d. Quan sát, suy ngẫm: Là hình thức liên tưởng dựa trên sự quan sát những hình ảnh đang hiện hữu trước mắt để có những suy ngẫm về đối tượng biểu cảm. Cách lập ý thường tạo nên những cảm xúc chân thực, sâu sắc. Ví dụ : Lập ý cho đề bài : Cây bàng già ở góc sân trường trong kí ức tuổi thơ của em. Một số cách lập ý cho đề bài : - Hồi tưởng qúa khứ, nhắc lại những kỉ niệm về cây bàng trong kí ức tuổi thơ em. - Quan sát để suy ngẫm. - Liên hệ hiện tại và tương lai. Từ các cách lập ý này để triển khai thành những nội dung cụ thể cho bài văn biểu cảm. 1.4. Giúp học sinh đưa yếu tố miêu tả và tự sự trong văn biểu cảm Đối tượng biểu cảm trong một bài văn biểu cảm là cảnh vật, con người sự việc Không có sự biểu cảm chung chung. Cái gì, vật gì, việc gì làm ta xúc động? Vì thế muốn bày tỏ tình cảm, muốn bộc lộ cảm xúc người viết phải thông qua miêu tả và tự sự. Ví dụ: Bài tập trang 89- SGK Ngữ văn 7- tập I: “ Tuổi thơ tôi đã hằn sâu trong kí ức những ngọn núi trông xa lấp lánh như kim cương, lúc xanh mờ, khi xanh thẫm, lúc tím lơ, khi rực rỡ như núi ngọc màu xanh. Những năm tháng xa quê, dông tố cuộc đời tưởng chừng cuốn bay tất cả, nhưng trong tâm tư tôi những dòng sông quê mênh mông vẫn cuồn cuộn chảy, những dòng kinh biêng biếc vẫn lặng lờ trôi. Tôi yêu những cánh đồng bao la vàng rực ngày mùa, mù mù khói rạ, thơm vị mía lùi và trắng xóa sương mù sau tết. Yêu cả tiếng chuông chùa ngân thăm thẳm canh khuya. Tôi yêu ánh nắng chiều tà trải màu vàng tái trên rẫy khoai mì, nghiêng nghiêng bên triền núi.” ( Theo Tản văn Mai Văn Tạo) Đọc đoạn văn trên ta thấy, Mai Văn Tạo nhớ An Giang, nhớ quê mẹ là nhớ ngọn núi, nhớ dòng sông, những cánh đồng, tiếng chuông chùa, ánh nắng chiều tà. Tác giả vừa miêu tả, vừa bộc lộ cảm xúc. Có thể nói, cảnh sắc An giang được nhắc tới là xương thịt của bài văn; tình yêu, nỗi nhớ niềm tự hào quê mẹ là linh hồn bài văn. Như vậy, để biểu cảm về quê hương An Giang, nhà văn đã sử dụng phương thức tự sự và miêu tả. Trong bài văn biểu cảm, tự sự và miêu tả chỉ là phương tiện, là yếu tố để qua đó, người viết gửi gắm cảm xúc và ý nghĩ. Cảm xúc, ý nghĩ là chất trữ tình của bài văn. Ví dụ: Biểu cảm về loài cây em yêu. Đưa yếu tố tự sự và miêu tả như thế nào khi làm đề văn trên? - Miêu tả vẻ đẹp của cây để gợi cảm xúc của con người. - Khi bộc lộ cảm xúc về vai trò, ý nghĩa của loài cây cần xen miêu tả và kể kỉ niệm gắn bó với loài cây. 1.5. Giúp học sinh nắm được cách biểu cảm về tác phẩm văn học Thế nào gọi là biểu cảm về tác phẩm văn học? Phát biểu cảm nghĩ về một tác phẩm văn học (bài văn, bài thơ) là trình bày những cảm xúc, tưởng tượng, liên tưởng, suy ngẫm của mình về nội dung và hình thức của tác phẩm đó. Tác phẩm văn học có thể là một bài ca dao, một bài thơ, một bài văn. Các bước làm một bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học: Phần chuẩn bị: - Đọc bài văn, bài thơ một vài lần, rút ra ấn tượng ban đầu. Đọc lần nữa để để phát hiện ra giọng điệu, chủ đề, những tư tưởng, tình cảm cao đẹp, ngôn ngữ nghệ thuật mà tác giả đã diễn tả rất hay, gây cho mình nhiều ấn tượng. - Gạch chân, đánh dấu các chi tiết nghệ thuật, các hình ảnh, các câu thơ, câu văn hay nhất mà mình yêu thích nhất. - Làm dàn bài, dựng đoạn. - Viết bài và chỉnh sửa. Bố cục bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học: * Phần mở đầu: Có thể giới thiệu một vài nét về tác phẩm; nêu lên ấn tượng sâu sắc nhất, khái quát nhất của mình khi đọc, khi xem tác phẩm ấy. Mở bài hay nhất được hai yêu cầu: Tính khái quát và tính định hướng. * Phần thân bài: lần lượt nêu lên những cảm nghĩ của riêng mình về những khía cạnh của tác phẩm. Không lan man dàn đều mà nên xoáy sâu vào các trọng tâm, trọng điểm. Phải đi từ “a” qua “b,c”. nhớ liên kết đoạn. * Phần kết bài: Nêu lên cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ. Tránh dài dòng, trùng lặp và đơn điệu. Thao tác cơ bản: Phát biểu cảm nghĩ không thể nói chung chung mà phải rất cụ thể, phải chỉ ra được yêu thích, thú vị ở chỗ nào. Nghĩa là phải phân tích và trích dẫn. Vì vậy, phân tích và trích dẫn là thao tác cơ bản nhất lúc phát biểu cảm nghĩ. Có lúc phải khen, chê. Khen, chê chính là phải viết lời bình. Khen, chê trên cơ sở yếu tố nghệ thuật chứ không phải tùy tiện. Giáo viên qua các bài giảng cụ thể, qua việc hướng dẫn đọc sách sẽ giúp các em dần bình văn, biến thành kĩ năng, kĩ xảo. Lúc nào viết được lời bình hay, sâu sắc thì bài phát biểu cảm nghĩ mới thực sự mang vẻ đẹp trí tuệ. Có lúc phải biết liên tưởng, so sánh. Từ hiện tượng này mà nghĩ, mà nhớ đến hiện tượng văn học khác. Có thể liên tưởng, so sánh về hình ảnh, chi tiết nghệ thuật, sử dụng từ, biện pháp tu từ, hình tượng nhân vật trong cùng một tác giả hoặc giữa các tác giả có mối liên hệ với nhau. Chẳng hạn: Khi học sinh phát biểu cảm nghĩ về cụm từ “ta với ta” trong bài thơ “ Qua Đèo Ngang” (Bà huyện Thanh Quan) thì có thể so sánh tới cụm từ “ ta với ta” trong tác phẩm “ Bạn đến chơi nhà” ( Nguyễn Khuyến ). Hoặc phát biểu cảm nghĩ về âm thanh tiếng suối trong bài thơ “ Cảnh khuya” ( Hồ Chí Minh) thì nên so sánh với âm thanh tiếng suối của bài thơ “ Bài ca Côn Sơn” ( Nguyễn Trãi). Từ việc so sánh này để người đọc thấy được cái hay của mỗi tác phẩm. Viết lời bình, liên tưởng, so sánh là thao tác nên có. Với bài văn thi học sinh giỏi phải được coi trọng thao tác bình, liên tưởng, so sánh. 2. Luyện tập về văn biểu cảm: Để nắm vững và củng cố tri thức, kĩ năng về văn biểu cảm, không phải chỉ biết, hiểu, học thuộc lòng mà quan trọng hơn là phải biết làm – biết thực hành – biết sáng tạo. Chân Hy (Trung Quốc) đã từng khuyên: “Học rộng điều gì không bằng hiểu rành điều ấy. Hiểu rành điều ấy không bằng thực hành điều ấy”. Mặt khác chúng ta đều biết Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp – thực sự là thực hành. Việc thực hành cũng cần theo qui trình từ dễ đến khó, từ đơn giản đến tổng hợp; từ việc làm dàn bài, viết ngắn đến viết dài – thành văn hoàn chỉnh. Đối tượng biểu cảm cũng mở rộng. Việc thực hành- luyện tập phải được thường xuyên, liên tục; phải được kiểm tra đánh giá, rút kinh nghiệm; phải có yêu cầu, nghiêm túc song cũng cần phải động viên, khích lệ. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã giao cho học sinh một số bài tập thực hành như sau: Bài tập 1: Phát biểu cảm nghĩ về loài cây em yêu. Dàn ý - Mở bài: Giới thiệu về loài hoa hoặc loài cây em yêu và giới thiệu cảm xúc ban đầu của người viết. - Thân bài: Phát biểu cảm nghĩ của em về loài cây, hoặc loài hoa đó. + Những đặc điểm gợi cảm ở cây hoặc hoa mà em thích thú. + Những kỉ niệm gắn bó của em với loài hoa, loài cây đó. +Nêu ý nghĩa của loài hoa, loài cây đó trong cuộc sống của em và của mọi người. (ngoài ra có thể nêu ý nghĩa biểu tượng của nó ). - Kết bài : Nêu tình cảm của em về loài hoa, cây đó. Bài tập 2: Phát biểu cảm nghĩ của em về món quà tuổi thơ. Dàn ý Mở bài : - Giới thiệu về món quà tuổi thơ. Thân bài : Phát biểu cảm nghĩ của em về món quà tuổi thơ đó. + Những đặc điểm gợi cảm ở món quà khiến em thích thú. + Những kỉ niệm gắn bó của em với món quà đó. + Nêu ý nghĩa của món quà đó trong cuộc sống của em và của mọi người. (ngoài ra có thể nêu ý nghĩa biểu tượng của nó ). Kết bài : Nêu tình cảm của em về món quà đó. Bài tập 3: Phát biểu cảm nghĩ của em về người em thương yêu nhất. Dàn ý Mở bài : Giới thiệu người mà em yêu mến. Thân bài : Phát biểu cảm nghĩ của em về người mà em yêu mến đó. + Những đặc điểm ( về hình thức và tính tình ) của người đó làm em yêu mến. + Những kỉ niệm yêu thương, gắn bó của em với người đó. + Tưởng tượng ra tình huống để bộc lộ tình cảm với người đó. Kết bài : Nêu tình cảm của em với người đó. Bài tập 4: Phát biểu cảm nghĩ của em về bài ca dao sau : Râu tôm nấu với ruột bầu. Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon. a. Tìm hiểu: - Râu tôm, ruột bầu là 2 thứ bỏ đi. - Bát canh ngon:Từ “ngon” có giá trị gợi cảm. - Cảm nghĩ của em về cuộc sống nghèo về vật chất nhưng đầm ấm về tinh thần. b. Tập viết: * Gợi ý: Râu tôm- ruột bầu là hai thứ bỏ đi.Thế mà ở đây hai thứ ấy được nấu thành một bát canh “ngon” mới tuyệt và đáng nói chứ. Đó là cái ngon và cái hạnh phúc có thực của đôi vợ chồng nghèo thương yêu nhau. Câu ca dao vừa nói được sự khó khăn thiếu thốn cùng cực, đáng thương vừa nói được niềm vui, niềm hạnh phúc gia đình đầm ấm, tuy bé nhỏ đơn sơ, nhưng có thực và rất đáng tự hào của đôi vợ chồng nghèo khổ khi xa. Cái cảnh chồng chan, vợ húp thật sinh động và hấp dẫn. Cái cảnh ấy còn được nói ở những bài ca dao khác cũng rất hay : Lấy anh thì sướng hơn vua. Anh ra ngoài ruộng bắt cua kềnh càng. Đem về nấu nấu, rang rang. Chồng chan, vợ húp lại càng hơn vua. Hai câu ở bài ca dao trên chỉ nói được cái vui khi ăn, còn bốn câu này nói được cả một quá trình vui khá dài (từ khi bắt cua ngoài đồng đến lúc ăn canh cua ở nhà, nhất là cái cảnh nấu nấu, rang rang). Bài tập 5: Hãy trình bày cảm nghĩ của em về tình yêu quê hương đất nước và nhân dân qua bài ca dao sau: Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát. Đứng bên tê đồng , ngó bên ni đồng cũng bát ngát mênh mông. Thân em như chẽn lúa đòng đòng. Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. a.Tìm hiểu: - Hình ảnh cánh đồng đẹp mênh mông, bát ngát. - Hình ảnh cô gái. Biện pháp so sánh: Em như chẽn lúa đòng đòng. Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. b. Luyện viết: * Gợi ý: Cái hay của bài ca dao là miêu tả được 2 cái đẹp: cái đẹp của cánh đồng lúa và cái đẹp của cô gái thăm đồng mà không thấy ở bất kì một bài ca dao nào khác. Dù đứng ở vị trí nào, “đứng bên ni” hay “đứng bên tê”để ngó cánh đồng quê nhà, vẫn cảm thấy “mênh mông bát ngát . .. bát ngát mênh mông”. Hình ảnh cô gái thăm đồng xuất hiện giữa khung cảnh mênh mông bát ngát của cánh đồng lúa và hình ảnh ấy hiện lên với tất cả dáng điệu trẻ trung, xinh tươi, rạo rực, tràn đầy sức sống. Một con người năng nổ, tích cực muốn thâu tóm, nắm bắt cảm nhận cho thật rõ tất cả cái mênh mông bát ngát của cánh đồng lúa quê hương . Hai câu đầu cô gái phóng tầm mắt nhìn bao quát toàn bộ cánh đồng để chiêm ngưỡng cái mênh mông bát ngát của nó thì hai câu cuối cô gái lại tập trung ngắm nhìn quan sát và đặc tả riêng một chẽn lúa đòng đòng và liên hệ với bản thân một cách hồn nhiên. Hình ảnh chẽn lúa đòng đòng đang phất phơ trong gió nhẹ dưới nắng hồng buổi mai mới đẹp làm sao! Hình ảnh ấy tượng trưng cho cô gái đang tuổi dậy thì căng đầy sức sống. Hình ảnh ngọn nắng thật độc đáo. Có người cho rằng đã có ngọn nắng thì cũng phải có gốc nắng và gốc nắng là mặt trời vậy. Bài ca dao quả là một bức tranh tuyệt đẹp và giàu ý nghĩa. IV. KẾT QUẢ Qua việc vận dụng các giải pháp dạy học trên, tôi nhận thấy chất lượng dạy và học văn biểu cảm lớp 7 đã được nâng cao. Bản thân tôi cảm thấy tự tin, yêu nghề hơn. Còn đối với học sinh, các em đã không còn bỡ ngỡ với kiểu văn bản này. Kết quả môn Ngữ văn 7 học kì I năm học 2012-2013 đã có nhiều bài viết tốt. Cụ thể : Lớp Sĩ số Trung bình Khá Giỏi Số lượng % Số lượng % Số lượng % 7B (không vận dụng) 42 11 26.2 28 66.7 3 7.1 7C (vận dụng) 43 2 4.6 28 67.5 12 27.9 Tôi tiếp tục áp dụng những giải pháp trên trong năm học 2014 – 2015. Kết quả môn Ngữ văn 7của lớp 7B học kì I như sau: Lớp Sĩ số Trung bình Khá Giỏi Số lượng % Số lượng % Số lượng % 7B 31 07 22.6 21 67.7 3 9.7 PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN CHUNG Thật vậy, trong nhà trường không có môn nào có thể thay thế được môn Ngữ văn. Đó là môn học vừa hình thành nhân cách, vừa bồi dưỡng, nuôi dưỡng tâm hồn con người. Trong thời đại hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển rất nhanh, môn Ngữ văn càng trở nên cần thiết. Nó sẽ giữ lại sự trong sáng trong tâm hồn con người, giữ lại cảm giác nhân văn để con người tìm đến con người, để trái tim hoà cùng nhịp đập trái tim Sau khi nghiên cứu đề tài này, bản thân tôi thấy tâm đắc hơn trong nghề dạy học, thấy học sinh có cái nhìn mới mẻ, tích cực hơn về việc học văn, đặc biệt học văn biểu cảm. II. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ Đối với phụ huynh Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều về thời gian cho con cái học tập. Hướng dẫn và tạo cho con thói quen đọc sách; chia sẻ tư vấn, định hướng, bồi dưỡng tâm hồn cho con để các em có nhiều thuận lợi trong việc bộc lộ và phát triển cảm xúc, tình cảm trong cuộc sống nói chung và trong việc làm văn biểu cảm nói riêng. Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên bộ môn văn để tìm hiểu, nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình. Đối với phòng giáo dục Tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn văn trong từng năm để giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện pháp tối ưu ,tích cực nâng cao chất lượng dạy học môn văn. Có kế hoạch tham mưu với cấp trên có chế độ đãi ngộ hợp lí đối với giáo viên giảng dạy phụ đạo thêm cho học sinh yếu kém môn văn. Đầu tư trang thiết bị, dụng cụ trực quan, đặc biệt là đầu tư công nghệ thông tin để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy văn. Đối với địa phương Quản lí chặt chẽ các điểm kinh doanh internet và các điểm dịch vụ không lành mạnh, làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Quan tâm sát sao, hiệu quả đến chất lượng giáo dục ở địa phương, đầu tư cơ sở vật chất kịp thời phục vụ cho việc dạy và học. Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Thanh Thùy, ngày 18 tháng 4 năm 2015 Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết Đỗ Thị Phương Lan TÀI LIỆU THAM KHẢO : Sách giáo khoa và sách giáo viên Ngữ văn 7- tập I. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III (2004-2007) môn Ngữ văn 7- quyển 1 và 2- NXB Giáo dục. Dạy học tập làm văn ở THCS – Nguyễn Trí – NXB Giáo dục. Văn biểu cảm trong chương trình Ngữ văn THCS – Nguyễn Trí, Nguyễn Hoàn – NXB Giáo dục.
File đính kèm:
- SKKN_Day_hoc_sinh_lam_van_bieu_cam.doc