Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn Đạo đức lớp 2
Mục tiêu giáo dục của nước ta đã chuyển sang hình thành và phát triển những năng lực cần thiết ở người học. Trong đó các kĩ năng là một thành phần quan trọng để đáp ứng yêu cầu đổi mới dất nước. Học sinh không chỉ cần có kiến thức mà còn phải biết làm, biết hành động phù hợp trong những tình huống, hoàn cảnh của cuộc sống. Mục tiêu giáo dục của Việt Nam ở thế kỉ XXI là: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định và học để cùng chung sống.
Để trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp. Trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tính huống và hoạt động hàng ngày. Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá, song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động .Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức những áp lực tiêu cực. Nếu không được giáo dục kĩ năng sống tốt, các em dễ bị lôi kéo vào những hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Một trong các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh phổ thông trong thời gian gần đây như: nghiện hút, bạo lực học đường, đua xe máy, ăn chơi sa đọa . chính là do các em thiếu kĩ năng sống cần thiết như: kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp
giống như ông cha đã dạy: “Lời nói không mất tiền mua Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” Hoặc là câu: “ Chim khôn hót tiếng rảnh rang Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe” Thông qua đây giáo viên ví von, truyền đạt các kĩ năng sống học sinh, vì thế mà học sinh có thói quen giao tiếp cởi mở, vui vẻ và tôn trọng người khác ngay từ khi còn nhỏ. Ví dụ: Khi dạy bài “Lịch sự khi đến nhà người khác” Hoạt động 4. Đóng vai thể hiện cách ứng xử trong tình huống. Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm giao cho mỗi nhóm đóng vai một trong các tình huống. Tình huống 1. Em sang nhà bạn chơi và thấy bạn có một bộ đồ chơi điện tử mà em rất thích. Tình huống 2. Em sang nhà bạn chơi mới biết bà của bạn đang ốm mệt. Tình huống 3. Em sang nhà bạn chơi thấy nhà bạn đang có khách. Tình huống 4. Em đang chơi với bạn thì đến giờ nhà bạn ăn cơm. Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận, đóng vai và nhận xét sau mỗi tình huống đóng vai. Theo gợi ý. - Vì sao em lại ứng xử như vậy trong tình huống đó? - Em có nhận xét gì về cách ứng xử của bạn trong tình huống đó? - Bạn nào có nhận xét thể bổ sung cho bạn không? - Cả lớp cùng tuyên dương bạn? Sau đó giáo viên chốt lại cách ứng xử cần thiết trong mỗi tình huống như sau: Tình huống 1: Em cần hỏi mượn, nếu chủ nhà đồng ý mới được lấy ra chơi và phải giữ gìn cẩn thận, chơi xong phải cất gọn gàng. Tình huống 2: Em cần giữ trật tự để bà nghỉ ngơi hoặc đi về chờ lúc khác sang chơi. Tình huống 3: Nếu bạn có phòng riêng, em có thể vào chơi cùng bạn nhưng không đùa nghịch làm ồn ào. Hoặc em nên về để lúc khác sang chơi. Tình huống 4: Đến giờ nhà bạn ăn cơm, em nên xin phép đi về, lúc khác sang chơi. Qua đây giáo viên rèn cho học sinh kĩ năng giao tiếp, ứng xử lịch sự khi đến nhà người khác; kĩ năng thể hiện sự tự tin, tự trọng khi đến chơi nhà người khác ...... Ngoài ra giáo viên cần dạy cho học sinh nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy các em kĩ năng lao động tự phục vụ, rèn tính rự lập như: biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, không nên ăn quà vặt, chỉ ăn uống tại bàn ăn biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, biết mời mọi người trước khi ăn, biết tự phục vụ trước và sau khi ăn, không làm ảnh hưởng đến người xung quanh. Giải pháp 5: Hình thành kĩ năng sống cho học sinh thông qua giờ dạy các môn học khác: Giáo viên phải định hướng cho học sinh có những hành vi đúng trong học tập, sinh hoạt cũng như trong cuộc sống hằng ngày. Cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của học sinh, cần phải biết khai thác phát huy năng lực, tiềm năng sáng tạo của mỗi học sinh. Giúp các em phát triển đều các các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm xã hội và thẩm mĩ. Phát huy tính tích cực, giúp các em hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kĩ năng mới.... các nội dung chuyển tải đến cho các em một cách nhẹ nhàng, sinh động thông qua các hoạt động, hình thức học tập rất phong phú và đa dạng như: sắm vai đóng tiểu phẩm, theo nhóm, cá nhân, ứng xử, xử lí tình huống, trinh bày ý kiến, quan điểm..... Ví dụ 1: Sau khi học bài “Có công mài sắt, có ngày nên kim” trong phân môn tập đọc bài lớp 2, Giáo viên phát phiếu học tập yêu cầu học sinh làm việc theo nội dung sau: PHIẾU HỌC TẬP 1. Năm học lớp 1 vừa qua, em đã học tập như thế nào? (Khoanh tròn vào chữ cái trước câu trả lời của em). a. Rất chăm chỉ, rất cố gắng. b. Chăm chỉ nhưng đôi lúc còn mải chơi, thiếu cố gắng. c. Chưa thật chăm chỉ, nhiều lúc còn mải chơi. d. Rất lười, không thích học bài. 2. Câu chuyện “Có công mài sắt, có ngày nên kim” khuyên em cần có đức tính gì trong học tập? ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. Giáo viên phát phiếu học tập cho học sinh, yêu cầu các em làm trong khoảng thời gian là 3 phút sau đó thu bài để chấm điểm. Qua hoạt động này giáo viên kết hợp nhiều phương pháp dạy học tích cực như: Động não, trình bày một phút, trải nghiệm, thảo luận nhóm, chia sẻ thông tin, trình bày ý kiến cá nhân, phản hồi tích cực. Tôi luôn kết hợp hài hòa giữa việc trang bị tri thức với bồi dưỡng tình cảm, nhân cách giáo dục kĩ năng sống cho học sinh như là tự nhận thức về bản thân (hiểu về mình, biết tự đánh giá ưu, khuyết điểm của mình để tự điều chỉnh). Lắng nghe tích cực. Trong tiết Tập làm văn, Tôi sử dụng kết hợp các phương pháp: đóng vai, trải nghiệm, thảo luận nhóm, trình bày ý kiến cá nhân, phản hồi tích cực. Cho nên, khi tổ chức tiết Tập làm văn tôi luôn hết sức chú ý tới hoạt động chung của cả lớp học để có thể tạo ra môi trường kĩ năng sống tích cực. Khi học sinh trả lời câu hỏi, tôi yêu cầu các học sinh khác và bản thân mình luôn nghiêm túc chú ý lắng nghe, giúp các em thấy mình được tôn trọng, được quan tâm. Luôn đưa ra lời động viên chân thành, một lời khuyến khích kịp thời, một ánh mắt trìu mến, một cái gật nhẹ nhàng tỏ ý hài lòng.... đây là động lực rất lớn giúp cho học sinh mạnh dạn và sáng tạo hơn trong lúc thực hành kĩ năng giao tiếp, cởi mở, tự tin trong giao tiếp, biết lắng nghe người khác, hợp tác, trình bày ý tưởng. Ví dụ 2: Trong phân môn Tập làm văn : “Mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị. Kể ngắn theo câu hỏi” . Giáo viên sẽ nêu yêu cầu đề bài, các em sẽ luyện nói một số câu trong giao tiếp với bạn bè; tập trả lời câu hỏi nói về thầy (cô giáo) lớp 1, sau đó viết thành một đoạn văn 4-5 câu về thầy (cô giáo). Giáo viên yêu cầu học sinh xác định được yêu cầu của bài tập, hướng dẫn trả lời mẫu từng câu hỏi trước lớp; nhận xét, rút kinh nghiệm. Sau đó đến phần viết văn yêu cầu học sinh đọc đoạn văn đã viết trước lớp, học sinh nhận xét, giáo viên góp ý và rút ra kinh nghiệm chung để học sinh dùng từ, đặt câu đúng và hay. Muốn cho học sinh phát triển tốt được kĩ năng sống: giao tiếp, ra quyết định, giải quyết vấn đề, phương pháp tốt nhất là tạo ra môi trường kĩ năng sống tốt. Vì thế trong dạy học tôi luôn chú trọng điểm này và trên thực tế giảng dạy, tôi đã thực hiện vấn đề này như sau: Ví dụ 3: Trong tiết kể chuyện bài “Chiếc bút mực”, Giáo viên đưa ra các hình thức kể như: Kể từng đoạn câu chuyện theo tranh; Kể chuyện bằng dựng hoạt cảnh; Kể chuyện theo hiểu ý nghĩa câu chuyện. Khi các em kể chuyện trước lớp, tôi luôn yêu cầu các bạn nhận xét về sự sáng tạo (trong nội dung, trong cách thể hiện của cử chỉ, điệu bộ, giọng kể....). Từ đó giúp các em thấy được sự phê phán hóm hỉnh, hài hước, yếu tố gây cười .... Thể hiện nội dung câu chuyện với giọng kể, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phù hợp, nâng tính kịch tính câu chuyện lên cao. Việc lồng ghép giáo dục các kĩ năng sống trong phân môn Tự nhiên và xã hội, sẽ góp phần không chỉ khắc sâu thêm các kiến thức của môn học mà còn hình thành thái độ và hành vi tích cực, phù hợp, cần thiết giúp học sinh có thể ứng xử có hiệu quả các tình huống thực tế trong cuộc sống. Ví dụ 4: Sau khi học xong chủ đề về “ Con người và sức khỏe” trong phân môn Tự nhiên và xã hội, chủ đề đều xoay quanh mối quan hệ giữa con người và sức khỏe. Tôi cho các em trao đổi và chia sẻ các vấn đề như sau: Vì sao chúng ta vận động được? Chúng ta phải làm gì để xương và cơ phát triển tốt? Thức ăn được tiêu hóa như thế nào? Ăn, uống thế nào để cơ thể khỏe mạnh? Vì sao chúng ta phải ăn uống sạch sẽ? Bằng việc đưa ra các câu hỏi, yêu cầu học sinh suy nghĩ đưa ra kĩ năng ra quyết định: nên hay không nên; Kĩ năng nhận thức ra vấn đề, trách nhiệm, suy nghĩ, ý tưởng, tự phục vụ, tự bảo vệ bản thân, quản lí thời gian một cách khoa học, ... Tôi luôn sử dụng kết hợp các đồ dùng trực quan : tranh ảnh, mô hình, video..... để thu hút, tạo sự hấp dẫn và hứng thú học tập cho các em. Giải pháp 6: Làm tốt công tác chủ nhiệm và công tác phối hợp với phụ huynh học sinh: Sau khi nhận lớp, giáo viên phải tiến hành xếp chỗ ngồi cho học sinh, phải xem trước hồ sơ của từng học sinh và trong năm học trước để nắm được học lực, hạnh kiểm của từng học sinh. Khi sắp chỗ ngồi nên chia đều những học sinh có học lực khá, giỏi ngồi xen lẫn với những học sinh có học lực trung bình, yếu. Sau khi xếp chỗ ngồi xong giáo viên lập sơ đồ lớp và dán tại bàn giáo viên để giáo viên bộ môn tiện theo dõi. Cách sắp xếp chỗ ngồi như vậy các em học khá giỏi sẽ giúp giáo viên kèm cặp được những học sinh yếu. Giáo viên cần phát động các phong trào như: “Đôi bạn cùng tiến”, “ Vòng tay bè bạn”, ... Tuyên dương và khen thưởng những em giúp bạn vượt yếu trong học tập. Sau khi sắp xếp chỗ ngồi, giáo viên tiến hành cho học sinh học nội quy lớp học để các em thực hiện đúng các quy định của lớp và thực hiện một cách nghiêm túc. Giáo viên phát cho mỗi em một thời gian biểu rõ ràng, giờ nào việc ấy (Nhắc các em dán vào góc học tập của mình). Giúp các em hình thành thói quen làm việc khoa học, cũng là cách giúp cha mẹ các em quản lí tốt các em ở nhà. Việc xây dựng một ban tự quản của lớp vững vàng có uy tín với các bạn, mạnh dạn nhiệt tình, có trách nhiệm với công việc được giao. Trong buổi sinh hoạt lớp đầu tiên, với tinh thần dân chủ các em tự giới thiệu đề cử, biểu quyết để bầu ban tự quản của lớp, các trưởng ban. Sau đó giáo viên giao nhiệm vụ phù hợp với năng lực và sở trường của từng em. Là học sinh lớp 2 các em mới bắt đầu làm quen với phương pháp học mới VNEN, nên đa số các em còn bỡ ngỡ lúng túng, giáo viên phải chỉ từng bước làm việc của từng ban. Giáo viên giữ vai trò là người đóng vai các trưởng ban để làm vệc, cho các em tập theo, phải mất một thời gian khá dài thì tôi mới đào tạo được các em cách làm nhiệm vụ của mình. Để lớp học có phong trào học tập tốt thì ban tự quản phải thực hiện và điều hành tốt công việc của mình. Giáo viên luôn theo dõi kiểm tra và điều chỉnh các hoạt động để các hoạt động hoàn thành như kế hoạch. Cho nên, sau một giai đoạn cần có tổng kết, đánh giá, phát huy ưu điểm, rút kinh nghiệm. Cần tuyên dương, khen thưởng tập thể hay cá nhân tốt, phê bình các cá nhân thiếu tích cực, thiếu cố gắng. Do lớp học có ít học sinh cho nên ngay từ đầu năm tôi đã đến thăm từng gia đình học sinh, để năm bắt đầy đủ thông tin về học sinh. Trao đổi với phụ phụ huynh về hướng phối hợp giáo dục kiến thức cũng như kĩ năng sống cho các em nhằm tạo sự hiểu biết, cảm thông giữa giáo viên và phụ huynh học sinh.Thống nhất với phụ huynh một số biện pháp giúp các em học tập cũng như vui chơi giải trí. Vì học sinh lớp 2 còn nhỏ nên các em còn ham chơi ít tập trung vào học, cho nên nhờ phụ huynh thường xuyên quan tâm nhắc nhở các em thực hiện nhiệm vụ học tập, tránh trường hợp chê bai, cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả năng của các em là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân của học sinh. Không nên tạo cho các em thói quen kiêu ngạo cũng không nên nói nững lời không hay đối với các em. Không dọa nạt vì đó là sự việc hoàn toàn có hại không giúp cho các hành vi của các em được tốt hơn. Không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận của bộ não. Nhờ phụ huynh thường xuyên quan tâm, nhắc nhở các em thực hiện nghiêm túc thời gian biểu; kiểm tra sách vở, vở bài tập, đồ dùng học tập trước khi đến lớp góp phần giúp các em học tốt hơn. Thông qua sổ liên lạc hàng tháng hoặc điện thoại trực tiếp cho phụ huynh để họ nắm bắt được tình hình học tập, các kĩ năng sống trên lớp đồng thời giáo viên cũng nắm bắt được những biểu hiện hành vi tích cực hoặc tiêu cực của các em từ phía phụ huynh để từ đó uốn nắn các em kịp thời. Qua mỗi kì họp phụ huynh học sinh, giáo viên cần báo cáo cho phụ huynh đầy đủ quá trình rèn luyện, phấn đấu của từng em cũng như điểm số kiểm tra cuối học kì, nhận xét xếp loại từng môn và so sanh với thời điểm trước đó. Cùng với việc sắp xếp chỗ ngồi hợp lí; tổ chức học tập, giáo viên đọc, quán triệt nội quy lớp, lớp tôi đã đi vào nề nếp, kỉ luật tốt. Đến bây giờ, chất lượng và kĩ năng sống lớp tôi đã tiến bộ nhiều so với đầu năm, hứa hẹn năm học này sẽ đạt được nhiều thành tích cao. Giải pháp 7: Tạo bầu không khí học tập tích cực: Trong giờ học cũng như các tiết sinh hoạt tập thể , tôi luôn tạo ra không khí phấn khởi, dân chủ nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của các em trong bài học cũng như tính cách của các em nhất là những em yếu kém, nhút nhát hay mặc cảm thông qua các trò chơi. Ví dụ: Dạy bài “ Bảo vệ loài vật có ích”. Tôi chuyển yêu cầu ở HĐ 1 thành trò chơi xếp tranh với việc làm có ích của con vật. Trò chơi có tên là tìm lợi ích của con vật đối với con người. Dán chữ đúng với tranh con vật. Chuẩn bị tranh và chữ, Tranh con vật gồm: con bò, con ngựa, con voi, con chó, con cá heo, con mèo, con ong. Chữ ghi ích lợi: kéo gỗ, kéo xe, cho sữa, bắt chuột, cho mật ong, cứu người chết đuối, giữ nhà. Lớp chia thành hai đội. Thời gian chơi là 5 phút. Đội nào dán đúng dán nhanh sẽ thắng. Sau đó giáo viên đưa bảng phụ, tranh con vật, chữ ghi ích lợi con vật cho hai nhóm. Khi học sinh đã sẵn sàng giáo viên hô bắt đầu, học sinh sẽ nhanh chóng tập trung vào để hoàn thành trò chơi. Các em rất hăng say, thích thú để dán tranh. Kết quả đúng giáo viên tuyên dương và yêu cầu học sinh đọc lại lợi ích của từng con vật. Qua đây chúng ta thấy con vật mang lại những lợi ích gì cho con người? các em sẽ làm gì để bảo vệ chúng?. Ví dụ 2. Khi dạy bài “ Chăm làm việc nhà” ở HĐ3 tôi biến hoạt động này thành trò chơi bông hoa bí ẩn. Đố bạn nêu cách làm các công việc này? Hình thức là dùng những bông hoa phía sau bông hoa ghi tên các công việc ở nhà như là phơi đồ, tưới hoa, cho gà ăn, nhặt rau, rửa ly, lau bàn ghế. Ai bốc được câu nào trả lời đúng sẽ được cả lớp thưởng một tràng pháo tay. Phơi đồ phải dùng móc để phơi hoặc phơi lên dây...... Sau khi được chơi học sinh rất tự tin chia sẻ trước lớp học. Học sinh rèn được kĩ năng diễn đạt, chia sẻ, nói lên suy nghĩ của mình. Lớp học trở lên sôi nổi, tạo bầu không khí thân thiện giũa thầy cô và học sinh, giữa học sinh với học sinh. 5.4.1. Tính mới của giải pháp: Dạy đạo đức theo hướng giáo dục kĩ năng sống là khó đối với lớp 2, vì học sinh còn nhỏ. Song tôi mạnh dạn đưa ra giải pháp để học sinh có kĩ năng sống tốt hơn ngày từ nhỏ. Để làm được điều nay yêu cầu giáo viên phải tập huấn đổi mới phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với lứa tuổi. Đó là các phương pháp giảng giải, nêu gương, tác động, thuyết phục, khích lệ, ... Trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết với thực hành, học đi đôi với hành lới nói đi đôi với việc làm của giáo viên và học sinh. Để giáo dục học sinh được tốt các kiến thức lẫn kĩ năng sống thì việc phối hợp chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường – xã hội rất quan trọng. Bên cạnh đó người giáo viên cần phải năng động, sáng tạo. Biết lắng nghe, quan sát các nhóm làm việc. Khi các nhóm gặp khó khăn thì giáo viên phải kịp thời hỗ trợ để các em hoàn thành bài tập đúng tiến độ. 5.4.2. Khả năng áp dụng: Giải pháp này được áp dụng rộng rãi trong các môn học. Đặc biệt nhà trường dạy học theo mô hình VNEN , tạo cho học sinh tính mạnh dạn – tự tin chia sẻ những điều mình biết với bạn với cô giáo. Dễ vận dung, không chỉ trong lớp của tôi mà trong toàn trường, áp dụng được cho tất cả các đối tượng học sinh, ngay từ đầu năm học và xuyên suốt quá trình học tập. 5.4.3. Kết quả thực hiện: Các biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn đạo đức lớp 2 đã góp phần giúp giáo viên có những định hướng cơ bản, những việc cần chuẩn bị để tích hợp dạy giáo dục kĩ năng sống diễn ra một cách nhẹ nhàng không tính áp đặt hay hình thức. Học sinh có ý thức hơn trong việc tự trang bị cho mình những kĩ năng sống cơ bản, gần gũi để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi. Đa số các em có tiến bộ nhiều, có ý thức học tập, thực hiện tốt các nội quy của nhà trường như đi học chuyên cần, đúng giờ, nghỉ học có xin phép, Tập trung nhanh chóng, nghiêm túc việc xếp hàng ra vào lớp. Các em biết lễ phép với thầy cô giáo, ông bà, cha mẹ, người lớn tuổi. Học sinh làm rất tốt khi có khách đến lớp, biết nói lời cảm ơn, lời xin lỗi đúng lúc, biết tự quản trong những phút truy bài đầu giờ. Các em bước đầu thực hiện được quy tắc an toàn giao thông khi đi bộ từ nhà đến trường. Qua các tiết sinh hoạt lớp, sinh hoạt ngoại khóa tôi thấy các em đã mạnh dạn, tự tin hơn nhất là ban tự quản của lớp, các em biết giúp đỡ, tương trợ những bạn gặp khó khăn trong lớp. Sau một thời gian thử nghiệm và áp dụng các phương pháp trên, học sinh trong lớp tôi đã có nhiều chuyển biến như: Tình trạng nói tục, chửi thề không còn, các em biết quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trong mọi hoạt động, không còn hiện tượng ăn quà vặt, vệ sinh cá nhân sạch sẽ, gọn gàng,.... kết quả tôi thu được như sau: TSHS Thực hiện tốt hành vi KNS Chưa thực hiện tốt hành vi KNS TS % TS % 10 10 100 0 0 6. Bài học kinh nghiệm: Công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học là một công việc và trách nhiệm của mỗi giáo viên, của nhà trường, gia đình và của xã hội. Giáo viên phải thường xuyên phối hợp, trao đổi với phụ huynh để tìm ra biện pháp và nắm bắt kịp thời những điểm còn yếu của học sinh giúp các em học và rèn kĩ năng sống tốt hơn. Phối hợp với các đoàn thể trong và ngoài nhà trường, mới mong giáo dục các em một cách toàn diện. Để tạo cho các em có một cảm giác thoải mái trong học tập và rèn các kĩ năng thì không thể thiếu được tác động của môi trường xung quanh như trường, lớp, bầu không khí học tập thân thiện gần gũi với học sinh. Quy cách bàn ghế, trang trí lớp học,... Đây cũng là nhân tố giúp các em hợp tác trong nhóm, theo cặp, cá nhân, hoạt động cả lớp tốt hơn tạo thêm cơ hội cho các em được mở rộng các kĩ năng sống. Luôn động viên khuyến khích các em tiến bộ dù là rất nhỏ nhất là học sinh chưa hoàn thành, giáo viên luôn động viên, khen kịp thời đó chính là động lực lớn giúp các em phấn chấn tinh thần học tập. Giáo viên cần nắm được phương pháp đặc trưng trong việc giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh, biết lựa chọn phương pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp nhằm phát huy tính chủ động của học sinh, sẽ giúp các em phát huy cao độ trí tuệ, cảm xúc, năng động, sáng tạo trong học tập và giao tiếp. 7. Kết luận: Qua nghiên cứu đề tài tôi nhận thấy rằng, giáo dục kĩ năng sống là nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp. Trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực, loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ quan hệ, các tình huống và hoạt động hằng ngày. Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình; phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức. Với khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” được treo ở tất cả các bậc học trong các nhà trường, vì thế việc giáo dục kĩ năng sống không thể hình thành trong “ngày một, ngày hai” mà đòi hỏi cả quá trình: nhận thức – hình thành thái độ - thay đổi hành vi. Chúng ta có thể tác động lên bất kì một mắt xích nào trong chu trình trên để thay đổi thái độ dẫn đến mong muốn thay đổi nhận thức và hành vi hoặc hành vi thay đổi tạo nên sự thay đổi nhận thức và thái độ. Để làm tốt được việc giáo dục các em đòi hỏi mỗi giáo viên luôn luôn tự học trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giáo dục để cho phù hợp với thời đại. Trong các tiết học giáo viên cần phải đi sâu, đi sát từng đối tượng học sinh, biết vận dụng nhiều hình thức dạy học, có kế hoạch giảng dạy ngay từ đầu năm học, tiến hành các giờ dạy có hiệu quả. Đặc biệt trong cách đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh, giáo viên phải đảm bảo tính khách quan, vô tư công bằng, tạo niềm tin tuyệt đối của các em với thầy, cô giáo. Trên đây là một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn đạo đức lớp 2 lớp tôi. Trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những sai sót. Vậy tôi mong các đồng nghiệp, Ban lãnh đạo góp ý thêm để giải pháp của tôi được hoàn chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. Tân Hà, ngày 9 tháng 03 năm 2018 Ý kiến lãnh đạo đơn vị Người thực hiện Nguyễn Thị Kim Ngân
File đính kèm:
- SKKN REN KI NANG SONG CHO HS LOP 2 THONG QUA MON DAO DUC_12430916.doc