Một cách hiểu về sáng kiến kinh nghiệm và nghiên cứu khoa học
Viết sáng kiến kinh nghiệm (SKKN) là viết lại một cách rõ ràng, hệ thống những kinh nghiệm của bản thân đối với công việc mình đảm trách đã mang lại hiệu quả thiết thực, mà nếu người khác không có kinh nghiệm thì không thể đạt được kết quả, hiệu quả công việc như mong muốn.
Cho nên, khi viết SKKN, người viết cần nêu, giải quyết từng vấn đề bằng phương pháp, biện pháp thực hiện cụ thể, biết cách đối chiếu so sánh thông qua các số liệu để nêu bật tác dụng của cách làm do kinh nghiệm của bản thân người thực hiện đem lại. Sau khi đã đặt vấn đề, giải quyết vấn đề một cách rõ ràng, người viết phải biết kết luận vấn đề để từ đó nêu khuyến nghị, đề xuất ý kiến nhằm thỏa mãn những ý tưởng, cách tiếp cận, phát triển và kết luận của SKKN. Tuy nhiên, đối với SKKN, không nhất thiết phải có một số mục như: Lịch sử vấn đề, cơ sở khoa học (cơ sở lí luận và cơ sở thực tế), tài liệu tham khảo, phụ lục vì đó là những nội dung, mục không thể thiếu được của nghiên cứu khoa học (NCKH) mà chúng tôi sẽ trình bày dưới đây.
MỘT CÁCH HIỂU VỀ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Viết sáng kiến kinh nghiệm (SKKN) là viết lại một cách rõ ràng, hệ thống những kinh nghiệm của bản thân đối với công việc mình đảm trách đã mang lại hiệu quả thiết thực, mà nếu người khác không có kinh nghiệm thì không thể đạt được kết quả, hiệu quả công việc như mong muốn. Cho nên, khi viết SKKN, người viết cần nêu, giải quyết từng vấn đề bằng phương pháp, biện pháp thực hiện cụ thể, biết cách đối chiếu so sánh thông qua các số liệu để nêu bật tác dụng của cách làm do kinh nghiệm của bản thân người thực hiện đem lại. Sau khi đã đặt vấn đề, giải quyết vấn đề một cách rõ ràng, người viết phải biết kết luận vấn đề để từ đó nêu khuyến nghị, đề xuất ý kiến nhằm thỏa mãn những ý tưởng, cách tiếp cận, phát triển và kết luận của SKKN. Tuy nhiên, đối với SKKN, không nhất thiết phải có một số mục như: Lịch sử vấn đề, cơ sở khoa học (cơ sở lí luận và cơ sở thực tế), tài liệu tham khảo, phụ lục vì đó là những nội dung, mục không thể thiếu được của nghiên cứu khoa học (NCKH) mà chúng tôi sẽ trình bày dưới đây. Khác với viết SKKN, làm NCKH là thực hiện một đề tài không còn đơn thuần mang tính chủ quan, cá nhân nữa, mặc dù có thể chỉ một người chủ trì. Vì vậy, đã gọi là đề tài NCKH, ngoài những tiêu chí mang tính nội dung và hình thức, bao giờ cũng phải có cơ sở khoa học - một trong những nội dung cần thiết để tạo nên sự phân biệt cơ bản giữa công trình NCKH và SKKN. Theo Vũ Cao Đàm thì “NCKH là một hoạt động xã hội, hướng vào việc tìm kiếm những điều mà khoa học chưa biết, hoặc là phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới, hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kĩ thuật mới để cải tạo thế giới”. Theo đó, nếu nhìn nhận một cách tổng quát thì NCKH có thể được chia thành 3 loại hình sau: -Phát hiện hoặc phát minh cái mới. -Ứng dụng cái mới vào thực tiễn. -Nhận thức lại, tổng hợp, phân tích những nội dung đã nêu nhưng có bổ sung những điểm mới. Thực tế NCKH của chúng ta hiện nay có lẽ chỉ dừng lại ở mảng ứng dụng và nhận thức lại, sắp xếp thành từng nội dung theo mục đích nghiên cứu trong quá trình làm NCKH. Điều cần thiết và quan trọng là người làm NCKH phải tuân thủ những nội dung, quy định, yêu cầu và quy trình một cách nghiêm túc. Chẳng hạn, cần phải có nhận thức đúng đắn rằng sau mỗi công trình, đề tài NCKH là đóng góp của tác giả, đóng góp thiết thực, cụ thể, dù là rất nhỏ. Để thực hiện được điều đó, mỗi đề tài NCKH cần hội đủ các yếu tố cơ bản sau: Lí do, mục tiêu nghiên cứu, nội dung nghiên cứu (là cái gì?), Lịch sử vấn đề (vấn đề này đã có tác giả nào nghiên cứu và nghiên cứu đến đâu), Cơ sở khoa học (cả lí thuyết và thực tiễn), Phương pháp nghiên cứu, Phạm vi nghiên cứu, ý nghĩa (lí luận và thực tiễn), Dự kiến những đóng góp của đề tài, Kết luận khoa học, Tài liệu tham khảo (được sắp xếp theo trình tự hoặc hệ thống nhất định, không sắp xếp tùy tiện, phi hệ thống - điều này cũng thể hiện tính khoa học trong NCKH), Phụ lục. Điều quan trọng nữa là người làm nghiên cứu khoa học phải phân biệt rõ ràng phần phụ văn và phần chính văn; kiểu kết luận của văn bản khoa học và kiểu kết luận của văn bản nghệ thuật hoặc hành chính sự nghiệp. Đây là điều không hề đơn giản nhưng không phải không làm được. Quan điểm của chúng tôi là không cần quá chuẩn mực (thực sự rất khó xác định chuẩn lí tưởng trong NCKH mang tính đại cương), quá bác học đến mức đọc xong không ai có thể hiểu nổi, quá dông dài dễ sa đà vào giải thích thuật ngữ, khái niệm mà sáo rỗng, không có đóng góp gì. Như vậy, SKKN và NCKH có những điểm tương đồng vì đều mang tính cấu trúc và nội dung được thể hiện bằng văn phong nên lập luận phải chặt chẽ, lô gíc, mạch lạc, hệ thống cho dù mức độ cao, thấp có thể khác nhau. Tuy nhiên, theo quan niệm của chúng tôi, giữa SKKN và NCKH có một số điểm khác nhau cơ bản như sau: SKKN NCKH - Thiên về miêu tả nội dung công việc dựa theo kinh nghiệm cá nhân, theo cách nhìn chủ quan của người thể hiện nhiều hơn. - Nghiên cứu vấn đề không những chỉ dựa vào kinh nghiệm của bản thân mà còn phải dựa vào thực tế khách quan để điều chỉnh cho phù hợp. Vì vậy, NCKH phải mang tính khách quan, không phụ thuộc vào bản thân người nghiên cứu. - Không nhất thiết phải có những mục như lịch sử vấn đề, cơ sở khoa học, tài liệu tham khảo, phụ lục. - NCKH nhất thiết phải có những mục như lịch sử vấn đề, cơ sở khoa học, tài liệu tham khảo, phụ lục. - Qua thực tiễn, bằng trải nghiệm bản thân, người viết đúc kết kinh nghiệm nhằm giúp mọi người áp dụng dễ dàng để mang lại hiệu quả tốt hơn. - Bằng nhận thức của bản thân, tác giả có thể làm mới một vấn đề dựa trên những cơ sở khoa học (lí luận và thực tiễn) và được thực hiện bằng (những) phương pháp khoa học. TS. Nguyễn Huy Kỷ Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội
File đính kèm:
- Mot_cach_hieu_ve_NCKH_va_SKKN.doc