Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 3

Cùng với xu thế phát triển của thời đại, giáo dục đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kỹ năng sống, đó là: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống.

-Xuất phát từ đặc điểm của xã hội hiện nay, nên việc hình thành và phát triển kỹ năng sống trở thành một yêu cầu quan trọng của nhân cách con người hiện đại.

-Giáo dục kỹ năng sống là thực hiện quan điểm hướng vào người học, một mặt đáp ứng những thách thức của cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân. Là những trải nghiệm có hiệu quả nhất, giúp giải quyết hoặc đáp ứng các nhu cầu cụ thể,trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của con người. Bao gồm cả hành vi vận động của cơ thể và tư¬ duy của con ngư¬ời, hình thành một cách tự nhiên, thông qua giáo dục hoặc rèn luyện của các em

Hiện nay, đa số học sinh sống trong hai môi trường có hoàn cảnh khác nhau: một là các em được sự quan tâm chăm sóc quá sức chu đáo của phụ huynh vì sống trong gia đình ít con, hoàn cảnh kinh tế ổn định; hai là những em sống trong gia đình với nhiều lo toan cho cuộc mưu sinh, phụ huynh bỏ mặc con cái.

Ngoài những khó khăn lứa tuổi, các em là con em thành phố và nông thôn, trong đó có nhiều em nông thôn có nhiều hoàn cảnh khác nhau, có nhiều thói quen trong sinh hoạt còn chưa văn minh, thiếu kỹ năng thực hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng đối phó với những khó khăn trong cuộc sống và khả năng tự phục vụ bản thân Hơn thế nữa trong nền kinh tế thị trường, cuộc sống hiện đại vận động hết sức khẩn trương và chứa đựng nhiều yếu tố khôn lường đòi hỏi thế hệ trẻ không làm chủ tri thức, rút ngắn khoảng cách về chênh lệch tri thức giữa các vùng nông thôn và thành thị mà còn phải thực sự tự tin; phải nắm bắt kịp thời các cơ hội cũng như phải có một số kỹ năng: sống khỏe, sống tốt, sống lành mạnh, cập nhật thông tin nhanh nhạy và hội nhập với thế giới, góp phần tích cực cho cuộc sống cá nhân và cộng đồng tốt đẹp hơn, nhằm thích ứng với mọi biến động của hoàn cảnh.

 

doc26 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 13147 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t lượng đọc diễn cảm của học sinh còn yếu. Đặc biệt ngày nay xã hội ta ngày càng phát triển thì nhu cầu đòi hỏi về trí thức con người ngày càng cao, trong đó ngôn ngữ nói và viết là vô cùng cần thiết cho mỗi người.Mỗi thành công không phải tự nhiên mà có được mà phải trải qua một quá trình rèn luyện kiên trì ngay từ đầu . 
 Để góp phần nâng cao chất lượng đọc cho học sinh, tôi mạnh dạn đề xuất một vài kinh nghiệm nhỏ của mình về vấn đề :
 “ Phương pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3”.
II. Phần thứ hai : Giải quyết vấn đề
Điều tra hiện trạng:
 Qua 7 năm giảng dạy ở lớp 3 cũng như quá trình quan sát, dự giờ việc dạy và học của thầy trò trong thời gian trước đây tôi có những nhận xét sau :
 Về người dạy học : Giáo viên khá tôn trọng phương pháp học mới : “ Thầy thiết kế, trò thi công” lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên cố gắng tìm tòi nghiên cứu để giảng dạy phân môn tập đọc nhưng chất lượng chưa cao. Bởi vì giáo viên chỉ coi trọng một vấn đề đọc thành tiếng to, rõ hoặc có hướng dẫn đọc diễn cảm nhưng chỉ lướt qua không có tranh để giới thiệu bài, rèn đọc diễn cảm cho học sinh còn ít.
 Về người học : Học sinh đã biết đọc thành tiếng bài văn, bài thơ, đã để ý và đọc đúng các phụ âm khó. Nhưng đọc hiểu nắm nội dung bài còn rất ít, do vậy không nêu được ý chính của bài, chưa biết đọc diễn cảm toàn bài văn. Khi đọc ở các dấu phẩy, dấu chấm còn ngừng nghỉ như nhau, chưa đọc đúng giọng câu hỏi, câu cảm.
 Qua điều tra khảo sát chất lượng học sinh ngay từ đầu năm học tôi đều thấy số lượng học sinh đã biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ rất ít. Cụ thể điều tra chất lượng đọc của học sinh lớp 3B đầu năm học 2014-2015 này, tôi có số lượng cụ thể như sau :
Tổng số học sinh
Đọc nhỏ, ấp úng
Đọc to, rõ, lưu loát
Đọc diễn cảm
 36
 10 = 27,8%
 20= 55,5%
 6 = 16,7%
Phương pháp nghiên cứu 
 Trước hiện trạng đó, tôi đã phân tích và tự đặt ra cho mình câu hỏi : Phải làm gì ? Làm như thế nào ? Để khắc phục tình trạng đó và nâng cao chất lượng đọc cho học sinh. Qua quá trình nghiên cứu tôi đã tiến hành sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu đó là : Phương pháp điều tra, phương pháp đối chứng và phương pháp tổng quát. Phương pháp điều tra không chỉ dừng lại ở điều tra thực trạng mà phải điều tra từng giai đoạn trong suốt năm học. Ở mỗi giai đoạn tôi đều lấy kết quả đã đạt được để đối chứng với kết quả giai đoạn trước , với kết quả năm trước và cuối cùng đi tổng hợp số liệu để rút ra bài học kinh nghiệm . 
Những công việc thực tế đã làm :
 Từ yêu cầu thực tiễn của môn tập đọc nói chung và rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh lớp 3, tôi đã tự đặt cho mình phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng, yêu cầu của bộ môn, đặc biệt về nội dung và phương pháp rèn kỹ năng đọc diễn cảm để đáp ứng với yêu cầu đề ra.
 Trong giảng dạy môn tập đọc, qua nhiều năm gần đây, tôi đã tích cực nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy, cách truyền thụ kiến thức,đặc biệt là việc rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh. Muốn rèn cho học sinh đọc diễn cảm tốt , trước hết trong mọi giờ tập đọc giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách phát âm chuẩn, đọc đúng đắn, có ý thức , trôi chảy, sau đó mới yêu cầu học sinh đọc diễn cảm. Trong phương pháp dạy học những yêu cầu đó gọi là chất lượng đọc được thể hiện đồng thời và chi phối lẫn nhau. Tính đúng đắn sẽ nâng cao tốc độ đọc và cho phép đọc có ý thức hơn. Nếu không hiểu cái đang đọc thì không thể đọc lưu loát và diễn cảm được.
 Đọc diễn cảm thể hiện ở kỹ năng dùng ngữ điệu , biết nghỉ hơi ở dấu chấm, ngắt hơi ở dấu phẩy, hoặc chỗ cần tách ý, biết đọc liền các tiếng trong từ ghép, từ láy hoặc cụm từ cố định. Ngoài ra cần biết đọc đúng giọng câu kể, câu hỏi biết phân biệt giọng người dẫn chuyện với từng tuyến nhân vật có tính cách khác nhau. Đọc diễn cảm là biểu hiện cao của đọc có ý thức và chỉ thực hiện được trên cơ sở đọc đúng và đọc nhanh. Do vậy dù đọc ở mức độ nào cũng phải yêu cầu phát âm đúng song cũng không nên qua nhấn mạnh ở các phụ âm : tr- ch; r-gi; n-l; s-x làm giọng đọc mất tự nhiên .
 Để đạt được những yêu cầu trên tôi đã tiến hành phương pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh như sau :
 Phương pháp tiến hành :
 Sau khi nhận lớp, tôi đã cho lớp ổn định chung về cách tổ chức lớp. Qua tìm hiểu điều tra để nắm chắc đối tượng học sinh về lựa chọn, đặc biệt là về kỹ năng đọc và phân loại học sinh theo ba đối tượng : 
Đối tượng 1: Học sinh biết đọc diễn cảm
Đối tương 2 : Học sinh mới chỉ biết đọc to, rõ, lưu loát.
Đối tượng 3: Học sinh đọc nhỏ, lý nhí, ấp úng , ngọng.
 Dựa vào đó, tôi đã sắp xếp chỗ cho học sinh những em đọc yếu ngồi cạnh những em đọc khá , đọc tốt để đôi bạn cùng tiến. Tôi tiến hành công việc tiếp theo là giới thiệu cấu tạo chương trình môn tập đọc để các em nắm được các chủ đề chính trong từng học kỳ và cả năm học. Đồng thời nêu tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản về việc rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm giúp các em cảm thụ bài văn , bài thơ của từng chủ đề. Hướng dẫn mỗi em đóng một quyển sổ để ghi những câu , những đoạn, bài văn, bài thơ hay có giá trị về nội dung và nghệ thuật .
 Sau khi tiến hành như vậy , tôi vào giảng dạy các bước sau : 
Đối với học sinh :
 Trước khi học bài tập đọc , tôi dặn học sinh đọc nhiều lần ở nhà cho trôi chảy và chuẩn bị trước phần câu hỏi ,tìm hiểu nội dung bài trong sách giáo khoa, đề ra các yêu cầu phù hợp với từng đối tượng học sinh.
 Ví dụ : Khi dạy bài “ Cậu bé thông minh” 
 Bài văn được viết theo thể kể chuyện- kể về một cậu bé thông minh, tài giỏi, nhanh trí. Tình tiết câu chuyện hấp dẫn, sinh động. Khi đọc học sinh cần làm rõ những chi tiết đó bằng cách đọc nhấn giọng vừa phải ở các từ ngữ.
 “ âm ĩ” , “tìm được”, “trọng thưởng”
 Đặc biệt những câu đối thoại giữa Đức vua và cậu bé ngữ điệu đọc phải toát lên vẻ ngộ nghĩnh, ngây thơ nhưng thể hiện sự thông minh của cậu bé.
 “ Cậu bé kia, sao cháu đến đây làm ầm ĩ ?” 
 Và câu trả lời hồn nhiên vô tư của cậu bé . 
 “ Muôn tâu Đức vua – cậu bé đáp- bố con mới đẻ em bé, bắt con đi xin sữa cho em”
 Vua quát :
- Thằng bé này láo, dám đùa với trẫm! Bố ngươi là đàn ông/ thì đẻ sao được !
 b. Đối với giáo viên :
 Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc câu hỏi và câu cảm trong bài tập đọc thật tốt.
Với câu hỏi cần hỏi cao giọng ở cuối câu đồng thời nhấn giọng “ ầm ĩ” .
Với câu cảm, giáo viên phải hướng dẫn học sinh lưu ý sự khác nhau khi đọc câu cảm thứ nhất.
Thằng này láo, dám đùa với trẫm.
( thể hiện sự hách dịch của nhà vua)
Với câu thứ hai.
“ Bố ngươi là đàn ông/ thì sao đẻ được !”
(Khi đọc gần như là một câu hỏi – tiếng “được” hơi cao giọng )
 Đối với những bài văn xuôi khi đọc ngoài việc tìm những dấu câu đặc biệt ( câu hỏi, câu cảm ) để hướng dẫn học sinh đọc. Giaó viên còn phải chú trọng cách nghỉ hơi ở dấu chấm, ngắt hơi ở chấm phẩy, dấu hai chấm . Đặc biệt phải biết ngắt hơi ở chỗ không có dấu câu nhưng đó là chỗ tách ý .
 Ví dụ : Khi dạy bài : “ Chiếc áo len” – Tiếng việt 3- tập 1.
 “ Nằm cuộn tròn/ trong chiếc chăn bông ấm áp, Lan ân hận quá 
 Em muốn ngồi dậy / xin lỗi mẹ và anh, nhưng lại xấu hổ/ vì mình đã vờ ngủ
 Áp mặt xuống gối, em mong trời mau sáng / để nói với mẹ : “ Con không thích chiếc áo ấy nữa. Mẹ hãy để tiền/ mua áo ấm cho cả hai anh em”
 Cần đọc với giọng nhẹ nhàng, ngắt đúng, nhấn giọng ở từng gạch dưới. Đặc biệt câu nói của Lan khi đọc học sinh thể hiện dưới sự ân hận, có như vậy mới biểu đạt được trạng thái cảm xúc của tác giả.
Đối với các bài thơ , tùy theo từng thể loại thơ mà tôi hướng dẫn học sinh cách đọc sao cho đúng nhịp câu thơ.
 Rủ nhau/ xem cảnh/ Kiếm Hồ (2/2/4)
 Xem cầu Thê Húc,/ xem chùa ngọc Sơn(4/4)
 Đài Nghiên,? Tháp Bút,/ chưa mòn(2/2/2)
 Hỏi ai xây dựng/ nên non nước này(4/4) 
 ( Cảnh đẹp non nước - Tiếng việt 3)
 Thường thì các bài thơ được sáng tác theo thể thơ lục bát mang một âm điệu mượt mà, tình cảm của thể thơ truyền thống dân tộc. Tuy vậy cũng phải dựa vào các dòng cụ thể để ngắt dòng cho đúng. Chỉ có ngắt nhịp đúng câu thơ thì ý nghĩa đoạn thơ mới được bộc lộ cho người nghe thấy được vẻ đẹp của đất nước Việt Nam cụ thể là vẻ đẹp của Hồ Gươm ở thủ đô Hà Nội .
 Trong chương trình cải cách có rất nhiều bài thơ thuộc thể thơ 4 chữ. Nên việc luyện đọc thể thơ này cũng rất cần thiết. 
 Ví dụ : Bài “ Anh Đom Đóm” ( Tiếng việt – lớp 3 ) 
Mặt trời gác núi Từng bước, từng bước
 Bóng tối lan dần Vung ngọn đèn lồng
Anh Đóm chuyên cần Anh Đóm quay vòng
Lên đèn đi gác Như sao bừng nở.
 Theo làn gió mát Gà đàn rộn rịp
 Đóm đi rất êm 
 Đi suốt một đêm Gáy sáng đàng đông
 Lo cho người ngủ Tắt ngọn đèn lồng
 Đóm lui về nghỉ
 Bài thơ “ Anh Đom Đóm” thuộc thể thơ 4 chữ mang âm hưởng của một bài đồng giao vui nhộn , tươi mát, hồn nhiên, khi được học sinh cần thể hiện âm điệu của một bài ca tuổi thơ nhí nhảnh, tình cảm đối với các con vật của bà con nông dân.
 Việc đọc diễn cảm thường gắn liền với ngữ điệu nên tôi thường dùng cử chỉ, nét mặt, để làm tăng thêm tính gợi cảm của câu văn thân mật, vui vẻ, ngạc nhiên, căm giận.
 Đoạn thơ có nhiều ý hóm hỉnh, vui vẻ cần đọc nhấn giọng một số từ ngữ kèm theo cử chỉ nét mặt để thể hiện sắc thái đó.
Vui tươi, phấn khởi như khi dạy đọc bài “ Bộ đội về làng”
Các anh về . Đọc liền vắt dòng từ câu 1 sang câu 2
Mái ấm/ nhà vui/
Tiếng hát/ câu cười. . Câu 3 đọc liền vắt dòng sang câu 4
Rộn ràng xóm nhỏ//
Các anh về
Tưng bừng trước ngõ
 Lớp lớp đàn em hớn hở theo sau
 Mẹ thì bịn rịn áo nâu
 Vui đàn con ở rừng sâu mới về.
 Với bài : “ Chú ở bên Bác Hồ” cần đọc với giọng trầm lắng pha chút trang nghiêm. Kết hợp với cách ngắt nhịp, nhấn giọng kéo dàiở một số từ và cao giọng ở cuối câu hỏi. Để tạo nên âm hưởng biểu lộ sự xúc động niềm thương nhớ của Nga và bố mẹ trước sự hi sinh của người chú.
 Chú ở đâu, ở đâu ?
Trường Sơn dài dằng dặc?
Trường Sa đảo nổi chìm?
Hay Kon Tum, Đắc Lắc?
Mẹ đỏ hoe đôi mắt
Ba ngước lên bàn thờ
Đất nước không còn giặc
Chú ở bên Bác Hồ
 Vì vậy khi học sinh luyện đọc giáo viên phải tạo được trong lớp một không khí thoải mái để học sinh dễ trực cảm với bài văn, có tâm trạng chờ đợi và chú ý nghe giáo viên đọc và cũng từ đócác em có thể học tập và bắt chước thầy.
 Trong khi rèn đọc diễn cảm tôi thường xuyên chú ý đến những học sinh rụt rè nhút nhát, Tôi thường xuyên khuyến khích không gắt gỏng để các em luống cuống.
 - Đối với học sinh nghịch ngợm phân tán tư tưởng, không chú ý đến tiết học, tôi thường để ý thỉnh thoảng chỉ định các em đọc tiếp.
 - Đối với học sinh đọc yếu, ngoài việc hướng dẫn đọc dứt khoát từng từ, cụm từ, với câu dài cho học sinh ngắt hơi đúng chủ đề ra yêu cầu rèn đọc ở nhà, kiểm tra lại những yêu cầu đã đề ra đối với học sinh, việc này phải được tiến hành thường xuyên không được ngắt quãng.
 Tóm lại sau mỗi giờ tập đọc tôi thường kiểm tra chất lượng đọc của học sinh thông qua đọc thành tiếng( cả 3 đối tượng giỏi + khá + trung bình) xem các em đã đọc diễn cảm chưa.
Kết quả :
 Qua quá trình giảng dạy, nhờ đã kiên trì bền bỉ áp dụng những biện pháp rèn đọc như đã nêu trên. Tôi đã tiến hành khảo sát và có số liệu như sau: 
Lớp 3B	Sĩ số : 36 học sinh
Đọc nhỏ, ấp úng.
Đọc to, rõ, lưu loát.
Đọc diễn cảm.
Đầu năm
10 = 27,8%
20 = 55,5 %
6 = 16,7%
Cuối học kì I
5 = 13,8 %
18 = 50 % 
13 = 36,2%
Cuối học kì II
0
21= 58,4%
15 = 41,6 %
Lời bình :
 Qua kết quả khảo sát và số liệu ghi chép, tôi rất phấn khởi thâý trong các giờ tập đọc học sinh say mê học và lớp học sôi nổi, kỹ năng đọc diễn cảm được nâng cao rõ rệt. Có nhiều em đầu năm học đọc nhỏ lí nhí, chưa trôi chảy, đến cuối năm các em đã đọc to, rõ ràng, lưu loát hơn. Những em học trung bình khá trở lên đã đọc diễn cảm bài văn theo đúng yêu cầu đề ra. Tuy kết quả chưa được mỹ mãn như ý nhưng đó cũng là thành công bước đầu nghiên cứu, mày mò ra biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh của mình.
Bài học kinh nghiệm 
 Trên đây là một vài phương pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3, để đạt được những kết quả trên qua kinh nghiệm giảng dạy tôi tự rút ra một số kết luận sư phạm như sau :
 Muốn rèn cho học sinh đọc diễn cảm tốt trước hết người thầy phải có nghiệp vụ sư phạm tốt, đặc biệt đọc mẫu của thầy phải chuẩn, hay, có sức cuốn hút học sinh . Vì trong khâu rèn đọc thì việc đọc mẫu của thầy giáo có ảnh hưởng rất lớn đối với học sinh. Các em sẽ theo dõi lắng nghe thầy đọc và coi đó là chuẩn mực để bắt chước để so sánh đánh giá với giọng đọc của mình. Chính vì vậy thầy cô cũng phải có sự chuẩn bị chu đáo, mỗi từ ngữ cô đọc, nói đều phải chuẩn mực.
 Giáo viên phải nắm chắc đối tượng học sinh để có những biện pháp dạy học đạt kết quả cao nhất nhằm phát huy hết tính tích cực trong học tập, tổ chức điều khiển khéo léo gây bầu không khí sôi nổi kích thích hứng thú học tập và nâng cao ý thức tự giác của học sinh.
 Giáo viên cần phải tìm hiểu chắc nội dung cơ bản của chương trình sách giáo khoa, sách hướng dẫn , sách soạn bài để học sinh nắm vững nội dung bài, hướng dẫn rõ cách đọc từng đoạn văn, đoạn thơ cho học sinh hiểu. Thực tế cho thấy sách giáo khoa Tiếng Việt, sách soạn bài và sách hướng dẫn phải thừa nhận là có nhiều ưu điểm nổi bật. Tìm hiểu phần hướng dẫn chung trong sách đa số giáo viên đã nắm được cơ bản của phương pháp giảng dạy mới song đi sâu vào từng bài cụ thể thì sự lúng túng và vấp váp lại không ít. Do vậy nắm vững sách , hiểu ý đồ của người biên soạn là quan trọng song chưa đủ còn đòi hỏi đến vai trò chủ động sáng tạo và ứng xử linh hoạt đối với từng đối tượng học sinh khác nhau mới đem lại hiệu quả cao.
 Giáo viên giàu lòng yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình gương mẫu trong phương pháp soạn giảng, phát hiện kịp thời đọc sai, đọc ngọng trong học sinh. Giáo viên phải kiên trì uốn nắn, sửa chữa cách phát âm sai cho học sinh thật tận tình chu đáo.
 Giảm bớt hoặc sửa lại câu hỏi cho sát với từng đối tượng học sinh, tránh giảng triền miên, nói nhiều, viết nhiều trong khi học sinh đọc còn yếu.
 Luôn động viên khuyến khích học sinh khi các em có tiến bộ. Rèn cho các em đọc trước đám đông, tổ chức thi kể chuyện, ngâm thơ, đọc diễn cảm trong lớp, trong trường vào những ngày sinh hoạt tập thể, kỷ niệm ngày lễ lớn. Yêu cầu mỗi học sinh phải có quyển sổ ghi chép để chép những câu thơ, bài văn hay dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
 Luôn tạo cho học sinh làm quen với nhiều hình thức học tập . Tạo điều kiện cho vấn đề học cá nhân là chủ yếu, học tổ có gắn liền thi đua.Chăm sóc từng học sinh, học sinh giỏi được nâng cao hơn, học sinh yếu luôn được theo dõi, giúp đỡ các em tránh tự ti trong học tập. Luôn tự tin, tự giác tham gia giải quyết vấn đề trong học tập
 Phối hợp nhịp nhàng về chương trình môn tập đọc với các môn học khác như : Tập Làm Văn, kể chuyện ....
Phạm vi ứng dụng đề tài
 Trên đây là một số suy nghĩ và việc làm cụ thể của tôi về vấn đề rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3 trường tiểu học. Với phương pháp rèn đọc này sẽ có tiền đề để tiếp tục dạy môn tập đọc ở lớp 4, 5 đạt kết quả tốt. Vì vậy nếu có thể cải tiến mở rộng cách hướng dẫn thì đề tài này có thể áp dụng tốt khi dạy môn tập đọc lớp 4,5 đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi cao hơn.
Những vấn đề cần kiến nghị 
 Để đọc của học sinh tiếp tục được nâng cao, tôi mạn phép đưa ra một vài ý kiến đề xuất với các cấp chỉ đạo như sau :
 Cần quan tâm hơn nữa đối với giáo viên tiểu học, thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên ở các phân môn, nhất là môn tập đọc.
 Có đầy đủ đồ dùng dạy học cho giáo viên.
 Hàng năm tổ chức phong trào thi kể chuyện, ngâm thơ, đọc diễn cảm cho giáo viên, cho học sinh trong khối, trong trường và thành phố.
 Những vấn đề còn bỏ ngỏ : Qua quá trình giảng dạy môn tập đọc, đặc biệt về rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3 tôi thấy còn nhiều khó khăn và có những mặt hạn chế.
 Về học sinh : Một số em học sinh còn đọc ngọng, đọc vẫn chưa được hay lắm, bản thân cần phải học hỏi rèn luyện nhiều hơn.
 III. Phần thứ 3 : Kết luận
 Thông qua thực tế giảng dạy trên lớp hàng ngày, tôi đi đến kết luận rằng : Muốn rèn luyện cho học sinh đọc diễn cảm tốt thì vai trò của ngườithầy giáo đặc biệt quan trọng bởi người thầy giáo luôn là tấm gương sáng mẫu mực trong cách đọc diễn cảm để học sinh bắt chước.Trong mỗi giờ tập đọc, người thầy phải hướng dẫn cách đọc cho học sinh thật tỉ mỉ từng từ ngữ, từng câu văn, từng đoạn văn, phải kiên trì uốn nắn, sữa chữa kịp thời tùy theo từng đối tượng học sinh thật tận tình chu đáo.
 Vì vậy mỗi giáo viên phải thực sự yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình gương mẫu trong phương pháp soạn giảng, luôn luôn trao dồi nghiệp vụ, học hỏi kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp để nâng cao chất lượng dạy và học ở các môn đặc biệt là môn tập đọc ở tiểu học.
 Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh trong việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh trong giờ tập đọc lớp 3, trong thực tế giảng dạy mỗi người đều có suy nghĩ , kinh nghiệm , bí quyết nghề nghiệp riêng của mình nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng dạy và học. Có lẽ đề tài của tôi còn nhiều thiếu sót và hạn chế, tôi mong được các cấp trên cùng các bạn đồng nghiệp góp ý kiến bổ sung để kinh nghiệm dạy học của tôi thêm phong phú, hoàn thiện góp phần nhỏ bé đưa sự nghiệp giáo dục phát triển ngày càng tốt hơn.
 Tôi xin chân thành cảm ơn. 
 Phan Rang, ngày 20 tháng 3 năm 2015
 Người viết
 Nguyễn Thị Quế Chi
 Nhận xét của Hội đồng sáng kiến cơ sở : Trường tiểu học Phủ Hà I 
.......................
............................

File đính kèm:

  • docSKKN_Giao_duc_ky_nang_song_cho_hs_lop_3.doc
Sáng Kiến Liên Quan