Đề tài Một số biện pháp nâng cao trình độ tay nghề thông qua hoạt động dự giờ thăm lớp ở trường THPT Trần Phú
1. Lý do khách quan:
Khi nói đến trường học người ta nghĩ ngay đến hoạt động dạy và học. Như vậy
hoạt động dạy học là hoạt động đặc trưng và là yếu tố cốt lõi của một nhà trường.
Chính vì vậy bất cứ cấp quản lý nào cũng đều hết sức quan tâm đến công tác giảng
dạy, giáo dục của đội ngũ giáo viên trong nhà trường. Việc dự giờ thăm lớp là một
hoạt động không thể thiếu được trong nhà trường phổ thông nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên đáp ứng với yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền Giáo
dục Việt Nam.
Trong suốt nhiều năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
đất nước ta không ngừng phát triển và giành được những thành tựu to lớn về kinh
tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật. Ngành giáo dục đã góp một phần quan trọng trong
những thành tựu đó. Tuy nhiên để thực hiện được mục tiêu nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hòa nhập với các nước trong khu vực và thế giới thì ngành giáo
dục cần phải có sự đổi mới một cách tích cực về nội dung, chương trình, phương
pháp đào tạo. Đây là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn của ngành giáo dục. Một
trong những yếu tố quan trọng góp phần quyết định sự thành công của các mục tiêu
trên chính là chất lượng đội ngũ giáo viên trong nhà trường phổ thông.
Xác định được vai trò quan trọng của ngành Giáo dục trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước, Đảng, Quốc hội, Chính phủ luôn luôn có sự quan tâm
chỉ đạo sâu sát đối với ngành:
- Chỉ thị 40/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành ngày
15/6/2004 đã thể hiện quan điểm hết sức coi trọng vấn đề nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục để thực hiện hiệu quả những yêu cầu và
nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới giáo dục đào tạo, đáp ứng sự nghiệp phát triển đất
nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Nghị quyết Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số
40/2000/QH10 ngày 09 tháng 12 năm 2000 về đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông
và công khai việc thực hiện kế hoạch Để tìm được sự đồng thuận cao trong tập thể giáo viên thì ngoài việc thực hiện phiếu thăm dò cần nêu ý tưởng của mình, trao đổi với các tổ trưởng chuyên môn, một số giáo viên có thâm niên giảng dạy để tranh thủ ý kiến của họ. Sau đó tiến hành xây dựng kế hoạch. Hoàn chỉnh kế hoạch và công khai việc thực hiện. 2. Tổ chức thực hiện 2.1 Triển khai hoạt động dự giờ thăm lớp đối với công tác chủ nhiệm. Bước vào đầu năm học nhà trường phải dồn lớp do số học sinh nghỉ học và chuyển đi ở khối 11 và khối 12 rất nhiều (mỗi khối giảm một lớp), khi phân chia lại lớp và chia lớp ở khối 10 mới tuyển nhà trường luôn chú ý phân số lượng các 12 đối tượng học sinh khá, TB, yếu ở mỗi lớp đều nhau. Do năng lực chủ nhiệm của mỗi người khác nhau nên sau một chặng thi đua thì nề nếp phong trào ở các lớp đã có sự khác biệt. Một số lớp có kỷ cuơng nề nếp yếu thì việc học tập cũng sa sút, giáo viên bộ môn (GVBM) mỗi khi có tiết dạy ở lớp này thường rất "ngán". Việc dự giờ thăm lớp tiết SHCN trước nay ít được quan tâm vì nhiều lý do. Đối với một số trường có học sinh học giỏi, chăm ngoan thì hoạt động này là không cần thiết và nghe có vẻ "hơi lạ" nhưng ở trường THPT Trần Phú thì rất cần thiết. Bởi vì đa số các em xa nhà, phải ở trọ lại học yếu. Các em thường không ham học, hay vi phạm các nội quy nề nếp, một số giáo viên chủ nhiệm (GVCN) nói học sinh không nghe, có lớp cả tháng trời không tìm ra được lớp trưởng, buộc GVCN phải kiêm thêm chức "lớp trưởng". Mỗi khi cần liên hệ với phụ huynh thì rất khó. Các bƣớc thực hiện a. Lập kế hoạch Kế hoạch thực hiện cụ thể như sau: - Tháng 10/2011: Dự giờ SHCN 11a5, 11a7, 12a1 - Tháng 11/2011: Dự giờ SHCN 12a3, 10a5 Các tháng còn lại tuỳ vào tình hình thực tế để dự. Trong những lớp nêu trên thì 11a7, 12a1 là những lớp có phong trào thi đua tốt, chất lượng học tập tốt. Khi dự SHCN những lớp này sẽ có sự so sánh với những lớp có phong trào học tập, thi đua yếu (gọi chung là lớp yếu) còn lại. b. Dự giờ SHCN Mặc dù nhà trường đã tổ chức buổi báo cáo chuyên đề về công tác chủ nhiệm (do GV đi tập huấn tại sở GD báo cáo) và trao đổi một số kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm nhưng khi dự giờ một nhóm lớp tốt và một nhóm lớp yếu thấy rõ về phương pháp sinh hoạt cũng như khả năng xử lý các tình huống của giáo viên ở hai nhóm này cũng có sự rất khác nhau. Cụ thể: Hai lớp 11a2, 11a7 giáo viên chuẩn bị rất kỹ về nội dung sinh hoạt, nắm rõ số học sinh vi phạm, số học sinh tích cực, những học sinh tiến bộ hơn so với tuần trước; hướng xử lý những học sinh vi phạm trong tuần; kế hoạch cho tuần tới. Các buớc sinh hoạt rất bài bản: Lớp phó học tập báo cáo tình hình học tập của lớp, lớp phó văn thể báo cáo tình hình thực hiện các hoạt động văn nghệ, chuẩn bị các tiết mục văn nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam. Lớp trưởng báo cáo tình hình thực hiện nội quy nề nếp, công tác đoàn (do kiêm nhiệm làm bí thư chi đoàn), một số khó khăn của các bạn, đề nghị GVCN xem xét xử lý một số bạn vi phạm nhiều lần. Giáo viên chủ nhiệm thực hiện rất tốt vai trò "đạo diễn" của mình: gợi ý dẫn dắt để học sinh vi phạm tự giác kiểm điểm lại chính bản thân mình, các học sinh trong lớp phát biểu, phân tích đấu tranh với các vi phạm. GVCN đã giải quyết các vấn đề rất rõ ràng, mạch lạc, thấu tình, đạt lý. Học sinh "tâm phục, khẩu phục". Trong khi đó các lớp yếu thì giáo viên chủ nhiệm chuẩn bị nội dung sơ sài. Các thức tổ chức một buổi sinh hoạt rất thiếu khoa học, các nội dung cần sinh hoạt thì không đề cập hoặc đề cập một cách sơ sài. GVCN không biết cách để giải quyết vấn đề học sinh vi phạm, không có sự động viên, khen chê. Vì vậy thời gian SHCN 13 rất ngắn vì hết nội dung! Chẳng hạn nhiều buổi tiết SHCN của lớp 11a5 chỉ hết 15 phút. Sau khi dự giờ phát hiện ra các lớp yếu có chất lượng sinh hoạt chủ nhiệm cũng rất thấp, GVCN ôm hết việc để làm, xử lý vấn đề máy móc, thiếu hẳn sự động viên và sự hoà mình với tập thể lớp; chưa phát huy được vai trò của cán bộ lớp, cán bộ đoàn, chưa tạo được môi trường để chính các học sinh tự chủ động sinh hoạt với nhau. c. Thảo luận, góp ý: Sau khi dự xong mỗi lớp thì có cuộc trao đổi góp ý nhanh những vấn đề cốt lõi. Cuối tháng 11/2011 mời tất cả các GVCN có tiết dự giờ sinh hoạt thảo luận trao đổi một cách cởi mở trên tinh thần học hỏi. GVCN những lớp yếu đã học được cách thức SHCN như thế nào cho hiệu quả và nhận được sự chia sẻ những khó khăn cũng như cách giải quyết cái "nếp" đã tạo ra. d. Động viên ghi nhận những tiến bộ Qua quá trình quan sát theo dõi sự chuyển biến của các lớp yếu, trong các dịp hoạt động phong trào tôi gặp gỡ, tiếp xúc với lớp. Việc quan tâm đến lớp, động viên, phát hiện ra sự tiến bộ để khen ngợi lớp đã có một sự khích lệ tinh thần lớn cho GVCN và học sinh của lớp. Như một quy luật: Từ việc tốt nhỏ sẽ nhân lên được những việc tốt lớn, cái tốt vươn lên thì cái yếu kém giảm đi. 2.2 Dự giờ dạy của giáo viên Kết quả thăm dò cho thấy hầu hết các giáo viên đều không muốn có người dự giờ, vì đó là sức ép, đôi lúc không là chính mình trong lúc dạy nữa. Ở một góc độ khác họ lại rất muốn dự giờ những giáo viên giỏi để học tập kinh nghiệm và họ cũng rất muốn có được "đàn anh" chỉ dạy để nâng cao tay nghề. Bản thân tôi cũng đã có nhiều giáo viên trẻ xin dự giờ mặc dù không cùng bộ môn. Rõ ràng ở mỗi người đều có sự cầu thị, mong muốn bản thân mình tiến bộ hơn. Ban giám hiệu nhà trường xác định việc dự giờ thăm lớp là hoạt động thường xuyên trên tinh thần cởi mở trao đổi, học hỏi lẫn nhau để nâng cao trình độ tay nghề. Chú trọng kỹ năng lên lớp, khả năng giảng dạy để đạt hiệu quả cao. Vì vậy khi có tiết dự giờ người dạy không bị áp lực về soạn giáo án cũng như không phải "gồng mình" lên như một tiết hội giảng. Qua đó tạo được sự tự tin, thoải mái cho giáo viên và giáo viên cũng thể hiện một cách thực về năng lực của mình. Nhà trường thay đổi một số các quy định trước đây về công tác dự giờ thăm lớp: - Bỏ quy định cứng nhắc mang tính hành chính là mỗi người phải dạy hai tiết, dự hai tiết/ học kỳ. Thay vào đó tuỳ vào mỗi giáo viên cụ thể mà dự kiến số tiết dự, tiết dạy hợp lý. Đặc biệt với giáo viên nòng cốt thì không quy định số tiết mà thực hiện theo kế hoạch chuyên môn hằng tháng của nhà trường. - Xác định mục đích chính của công tác dự giờ thăm lớp là nâng cao tay nghề, không mang nặng tính chất kiểm tra đánh giá. - Khuyến khích sự sáng tạo trong thực hiện một tiết dạy theo ý tưởng của mình, không nhất thiết phải lệ thuộc vào cách tiến hành một tiết dạy như quy định. - Có thể chủ động đề xuất giáo viên nòng cốt dự giờ của mình. - Đối với các giáo viên có thâm niên công tác lâu năm, trình độ tay nghề cao thì không đặt nặng vấn đề về giáo án. Cần thiết chỉ kiểm tra một lần /năm 14 Việc thay đổi một số quy định nhằm giảm bớt áp lực cho giáo viên, thay vào đó là nhu cầu mình được giúp đỡ hoặc mình cần giúp đỡ người khác. Một số lưu ý đối với người dự: - Xác định dự giờ để mục đích nhắm đến mục đích nào; - Cần phải xem kỹ trước nội dung bài dạy của giáo viên và đặt mình vào vai trò người dạy thì mình tiến hành thhực hiện bài đó như thế nào? - Quan sát, ghi nhận việc thực hiện tiết dạy, bao gồm: Kiến thức trọng tâm, Phương pháp giảng dạy, kỹ năng sư phạm; - Khả năng sử dụng các thiết bị dạy học sẵn có hoạc làm đồ dùng dạy học; - Khả năng liên hệ thực tế và lồng ghép việc giáo dục học sinh trong bài dạy; -Chuẩn bị các ý kiến để rút kinh nghiệm, tư vấn, thúc đẩy. Công tác dự giờ thì tiến hành thực hiện nhƣ sau: 1. Phân công giáo viên nòng cốt dự giờ lần thứ nhất. Thời gian diễn ra từ giữa tháng 9/2011 đến đầu tháng 10/2011. Mục đích của lần này là: - Đánh giá tổng quát về công tác giảng dạy của giáo viên, - Sự tiến bộ về trình độ tay nghề so với năm học 2010-2011, - Đối chiếu với việc thực hiện giảm tải, bám sát chuẩn kiến thức và việc đổi mới phương pháp giảng dạy. - Việc sử dụng các trang thiết bị sẵn có hoặc đồ dùng dạy học tự làm. Qua đó đánh giá được khả năng là chủ bài dạy, nắm chắc được nội dung chương trình, sự nhiệt tình, sáng tạo của giáo viên. Sau khi trao đổi rút kinh nghiệm nhằm khẳng định những điểm mạnh đã có để tiếp tục phát huy, khắc phục những thiếu sót trong các tiết dạy vừa qua. 2. Thực hiện thăm lớp dự giờ đợt thứ hai Thời gian thực hiện vào hai tuần đầu của tháng 12/2011 Nhà trường sắp xếp thời gian để các giáo viên nòng cốt giáo, viên dạy giỏi thực hiện việc dạy học. Những giáo viên dạy đợt 1 và những giáo viên khác tham dự. Khi dự giờ giáo viên giỏi các giáo viên khác sẽ học được cách dẫn dắt học sinh vào bài dạy; kỹ năng giải quyết các bài toán khó thông qua sử dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy; kinh nghiệm giảng dạy; sự sáng tạo trong việc truyền thụ kiến thức... Hoạt động này là cụ thể hoá những vấn đề đã trao đổi ở đợt 1, giúp giáo viên có ngấm hơn những kinh nghiệm đã có. Một thuận lợi của nhà trường là trường tổ chức học hai buổi nên việc bố trí thời gian giảng dạy để các giáo viên tham dự là khá thuận lợi. Hơn nữa giáo viên trong trường ít dạy thêm nên cũng đã tích cực tham gia. Giáo viên có khoảng thời gian 4 tuần để áp dụng những kinh nghiệm đã có được trong các tiết của mình ở trên lớp. 15 3. Thực hiện thăm lớp dự giờ đợt thứ ba Sau những hoạt động trên, qua trao đổi, rút kinh nghiệm để tiến hành đợt 3 đối với các giáo viên có tên trong danh sách đợt 1. Lần này chủ yếu đánh giá sự tiến bộ của giáo viên. Giáo viên nòng cốt sẽ quan sát tiết dạy, lưu ý đến những hạn chế của lần dự trước xem đã được khắc phục chưa, ghi nhận những tiến bộ khác. So sánh trình độ tay nghề lần này với lần dự giờ trước. Trong quá trình thực hiện dự giờ thăm lớp cần chú ý một số điểm sau: - Phải có sự đồng thuận của giáo viên, tạo được sự tự tin, thân thiện, giúp giáo viên không ngại khi bị dự giờ, khuyến khích giáo viên thể hiện khả năng thực tế của mình - Đội ngũ giáo viên nòng cốt phải chân thực, nhiệt tình và có kinh nghiệm tư vấn, thúc đẩy. - Tôn trọng và khuyến khích sự mạnh dạn sáng tạo của giáo viên (có thể đó là sáng tạo chưa hợp lý) - Những giáo viên trong danh sách dự giờ thăm lớp không cần thiết đưa vào kế hoạch kiểm tra hoạt động của giáo viên, bởi vì việc dự giờ thăm lớp được diễn ra trong một thời gian dài, bản thân học cũng đã chủ động thực hiện các nội dung trong kiểm tra hoạt động sư phạm giáo viên. - Các giải pháp trên tập trung hướng đến một nhóm đối tượng có "vấn đề", không thể nôn nóng là đại trà được. Số các giáo viên không thuộc nhóm này thì đưa vào danh sách kiểm tra hoạt động sư phạm giáo viên. Mục đích của việc dự giờ thăm lớp như đã trình bày ở phần đầu. Cách làm như trước đây chỉ mang nặng tính hành chính, Giáo viên nào được dự giờ thăm lớp thì cũng chỉ có một lần trong năm, ai được dự giờ thăm lớp đầu năm thì thoải mái suốt thời gian còn lại của năm, ai chưa được dự giờ thăm lớp thì thấp thoảng chờ đợi cho đến khi nào dự giờ xong thì mới thở phào nhẹ nhõm. Rõ ràng là hiệu quả của việc dự giờ thăm lớp của ban giám hiệu như là cỡi ngựa xem hoa, tác dụng giúp giáo viên phát triển trình độ tay nghề không cao, ngoài ra còn tạo ra sự đối phó trong giáo viên. Thực hiện theo giải pháp trên không những đảm bảo đúng mục đích của việc dự giờ thăm lớp mà còn giải quyết được các vấn đề thực tế, qua đó nâng cao được chất lượng dạy học của nhà trường. 16 C. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Việc triển khai thực hiện đề tài có một số thuận lợi sau: - Được sự nhất trí của Ban giám hiệu, sự đồng tình của tập thể giáo viên; - Giáo viên trẻ nhiệt tình, ham học hỏi, biết lắng nghe; - Đối tượng thực hiện là đội ngũ giáo viên trong nhà trường, vì vậy những sở đoản, sở trường cũng như thời gian giảng dạy của mỗi giáo viên đã được biết trước. Bên cạnh những thuận lợi trên thì có những khó khăn: - Tỷ lệ giáo viên trẻ, có thời gian giảng dạy còn ít. Số giáo viên nữ nhiều vì vậy nhà trường phải thường xuyên phân công lại chuyên môn mỗi khi có giáo viên nghỉ thai sản (có thời điểm hai người này vừa đi dạy lại có hai người khác nghỉ). Những khó khăn, thuận lợi trên cũng đã tác động đến hiệu quả của đề tài. Kết quả thu được như sau: - Trong quá trình thực hiện đề tài đã góp phần tăng cường sự đoàn kết gắn bó trong tập thể giáo viên; - Thông qua công tác dự giờ thăm lớp giúp nhà trường củng cố nề nếp chuyên môn, thực hiện đúng tiến độ chương trình, thúc đẩy quá trình tự học, tự sáng tạo của giáo viên. - Nâng cao trình độ tay nghề cho đội ngũ giáo viên, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. - Giữ vững nội quy nề nếp trong nhà trường, tạo được môi trường học tập thân thiện, học sinh yêu trường mến lớp. Số liệu thống kê: 1) Công tác chủ nhiệm Lớp Trƣớc khi thực hiện đề tài Sau khi thực hiện đề tài Tình hình nề nếp Chất lƣợng học tập Thứ hạng thi đua 10a7 Tiết học ồn ào, học sinh nghỉ học nhiều, vi phạm đồng phục Học sinh vắng học ít nề nếp tác phong chuyển biến Giảm tỷ lệ HL yếu so với HK1 21% Vuợt lên 5 hạng ở cuối năm 11a3 Tiết học thụ động, học sinh nghỉ học nhiều, không thuộc bài Học sinh vắng học ít Lớp học sôi nổi Giảm tỷ lệ HL yếu so với HK1 21% Vuợt lên 3 hạng ở cuối năm 11a6 Học sinh học yếu, hay nghỉ học, không thực hiện các yêu cầu của GVCN Học sinh vắng học ít, thực hiện đúng các yêu cầu của giáo viên chủ nhiệm, số học sinh không thuộc bài giảm Giảm tỷ lệ HL yếu so với HK1 21% Vuợt lên 3 hạng ở cuối năm 12a3 Phong trào học tập trầm lắng, lười học, thường Từ giữa HK2, phong trào học tập Từ kết quả xếp cuối bảng Xếp thứ 3 Cả năm 17 đi học trễ sôi nổi, thực hiện tốt nội quy kết quả kiểm tra HK1, qua kiểm tra HK2 và 2 lần thi thử tốt nghiệp vươn dần lên hạng 3 11a5 Thường vi phạm nội qui, nề nếp. Học yếu Còn một số ít đi học trễ (do phụ thuộc xe buýt) Giảm tỷ lệ HL yếu so với HK1 21% Từ hạng áp cuối HK1 vuơn lên hạng 12 cuối năm 10a8 Thường vi phạm nội qui, nề nếp. Mất trật tự trong giờ học Lớp học trật tự, nề nếp Giảm tỷ lệ HL yếu xuống còn 28,9% (Chung cả khối 10 là 35,9% Vươn lên từ hạng 19 lên hạng 11 11a7 Thường vi phạm nội qui, nề nếp. Vắng học nhiều; mất trật tự trong giờ học Duy trì sỉ số tốt, có phong trào học sôi nổi Giảm tỷ lệ HL yếu so với HK1còn 13,9% Vươn lên từ hạng 16 lên hạng 10. Số học sinh đạt DHTT tăng (Tỷ lệ học sinh học yếu của nhà trường HK1 là 39,9%; Cả năm là 24,2% ) 2) Kết quả giảng dạy: TT Họ tên Giáo viên Năm học 2010-2011 Năm học 2011-2012 Ghi chú 1 Nguyễn Huy Hoàng 71%% So với HK1 tăng 16% 2 Nguyễn Thị Phương Lan 65% So với HK1 tăng 14% 3 Lê Ngọc Phùng 49% 63% 4 Đỗ Thị Thuỷ 51% 62% 5 Trần Hoài Nam 58% 64% 6 Trần Ngọc Hùng 57% 68% 7 Hồ Thị Hiếu 61% 74% 8 Nguyễn Thị Thuỳ Trang 63% 76% 9 Trịnh Văn Đức 72% 83% 10 Nguyễn Thị Kim Thoa 52% 59% 11 Đặng Thị Thanh Hải 55% 64% 12 Trịnh Thị Loan 43%% 56% 18 13 Nguyễn Thị Hoài 41% 52% D. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Hoạt động dự giờ thăm lớp là một hoạt động không thể thiếu ở bất cứ một trường phổ thông nào, hiệu quả của công tác này là giúp Ban giám hiệu nhà trường quản lý được nề nếp chuyên môn, thực hiện nội dung chương trình giáo dục, phát hiện, ngăn ngừa, xử lý các sai sót cũng như phát huy những mặt tích cực trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục của nhà giáo. Tuy nhiên, hiện nay ở hầu hết các trường việc dự giờ thăm lớp đối với giáo viên là một áp lực, còn đối với nhà quản lý không làm thì không được mà làm thì không xuể và do đó công việc còn mang nặng tính hành chính. hiệu quả chưa cao. Công tác dự giờ thăm lớp cần hướng đến mục đích cao hơn nữa, đó là nâng cao chất lượng dạy học, giáo dục của giáo viên. Đề tài này đã được nghiên cứu và áp dụng trong thực tiễn tại trường THPT Trần Phú, đã mang lại hiệu quả thiết thực. Công tác dự giờ thăm lớp không phải là mới, nhưng để làm cho khoa học, hiệu quả, mang tính ổn định, theo một kế hoạch đã xây dựng chi tiết nhằm hướng đến việc nâng cao trình độ tay nghề và công tác chủ nhiệm thì đây là lần đầu tiên nhà trường thực hiện. Cũng vì lý do đó đề tài vẫn còn những khiếm khuyết phải được sữa chữa, điều chỉnh trong những năm tiếp theo để nó được hoàn thiện và mang lại hiệu quả thiết thực hơn nữa. Mỗi trường có một đặc điểm riêng về đội ngũ giáo viên, tôi tin rằng những trường những có đặc điểm về đội ngũ gần giống như trường THPT Trần Phú khi áp dụng đề tài này đều đem lại hiệu quả thiết thực. Để thực hiện tốt công tác dự giờ thăm lớp cần phải: - Chi bộ, Ban giám hiệu nhà trường phải xác định mục đích và tầm quan trọng công tác dự giờ thăm lớp, có cách nhìn sâu hơn về công tác này. Dự giờ thăm lớp không chỉ đơn thuần là Ban giám hiệu dự giờ giáo viên mà giữa các giáo viên dự giờ với nhau, người yếu dự giờ người giỏi để học hỏi, người giỏi dự giờ người yếu để giúp đỡ. Từ đó có sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên. - Đánh giá đúng vai trò của đội ngũ giáo viên trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, chỉ khi đó mới phát huy hết khả năng của họ đóng góp cho sự nghiệp giáo dục. Đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho nhân dân và toàn xã hội nhận thức rõ vai trò quan trọng của đội ngũ giáo viên trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. - Làm tốt công tác tư tưởng và tìm được sự đồng thuận của tập thể giáo viên. Các nội dung dự giờ thăm lớp phải mang tính thiết thực, không mang nặng tính chất hành chính. Đặc biệt phải bố trí lịch giảng dạy phù hợp sao cho giáo viên có thời gian để tham gia. - Phải xây dựng một kế hoạch khoa học, phù hợp với đặc điểm của nhà trường. Quá trình thực hiện phải có sự kiểm tra, động viên của ban lãnh đạo nhà trường. 19 - Với mục đích nâng cao chất lượng của giáo viên thông qua công tác dự giờ thăm lớp thì đối tượng giáo viên phải có sự chọn lọc, không tham số lượng nhiều, chú trọng về chất lượng và có định hướng lâu dài. Khuyến nghị đối với cơ quan quản lý giáo dục cấp trên: - Phổ biến, thông tin những trường thực hiện tốt công tác dự giờ thăm lớp trong tỉnh để các trường khác tham khảo học tập - Công tác dự giờ thăm lớp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên cần đến rất nhiều sự cống hiến của giáo viên nòng cốt, tuy nhiên không có quy định nào về kinh phí cho hoạt động này. - Cần quan tâm hơn nữa đến công tác thuyên chuyển, tiếp nhận giáo viên đối với các trường vùng ven, vùng sâu, qua đó giúp cho nhà trường có đội ngũ giáo viên ổn định, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu. - Khi xét về thi đua cần tính đến chất lượng đầu vào của mỗi trường. Vấn đề thành tích luôn là áp lực đối với trường có chất lượng học sinh thấp, theo đó việc ghi nhận của các cấp quản lý đối với sự nỗ lực công tác, sự tiến bộ của giáo viên nên được xem xét quan tâm hơn. NGƢỜI THỰC HIỆN Hà Xuân Văn 20 E. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Quản lý nhân sự trong nhà trường - Th.S Nguyễn Thị Thu Hiền, GVC trường Cán bộ Quản lý TP. Hồ Chí Minh - Chỉnh lý bổ sung năm 2010 3. Tài liệu Đào tiệo các bộ thanh tra và quản lý giáo dục Việt Nam 2. Chỉ thị 40 của BCHTW ngày 15/6/2004 về việc: "nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục" 3. Phát triển giáo dục Việt Nam trong nền kinh tế thị trường và trước nhu cầu hội nhập quốc tế. Chính sách phát triển giáo viên - Viên nghiên cứu giáo dục - ĐHSP TP. Hồ Chí Minh - tháng 02/2009 4. Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT ngày 22/10/2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về qui định chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở, giáo viên trung học phổ thông 5. Luật công chức năm 2010. 6. Thông báo kết luận số 117/TB-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT tại hội thảo Chỉ đạo, quản lý hoạt động đổi mới phương pháp dạy học ở các trường phổ thông ngày 26/2/2009
File đính kèm:
- mot_so_bien_phap_nang_cao_trinh_do_tay_nghe_thong_qua_hoat_dong_du_gio_tham_lop_o_truong_thpt_tran_p.pdf