Đề tài Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn thi đại học, cao đẳng
Văn học không chỉ là một môn khoa học mà còn là một món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống con người. Văn học cung cấp kiến thức về các lĩnh vực của đời sống xã hội. Văn học còn bồi bổ tâm hồn, giúp cho tâm hồn con người phong phú hơn, tinh tế hơn giúp họ biết sẻ chia, cảm thông, sống nhân ái và vị tha. Ngoài ra, văn học còn có chức năng giải trí, giúp con người quên đi những căng thẳng, mệt mỏi. Điều đó chứng tỏ văn học cũng như môn văn có vị trí quan trọng không chỉ trong nhà trường mà còn cả xã hội. Thế nhưng một thực tế, trong những năm gần đây tình trạng học sinh ngại học văn ngày càng nhiều. Một phần là do văn học là một môn khoa học khó chiếm lĩnh, dù các em có thích văn nhưng tiếp thu cũng không dễ dàng, phải có năng khiếu văn mới cảm thụ được nhưng số lượng học sinh có năng khiếu học văn giảm sút. Phần khác, do xu hướng phát triển của thời đại, người ta chuộng các môn khoa học tự nhiên hơn các môn khoa học xã hội, do yêu cầu xã hội, nghề nghiệp, gia đình.định hướng cho các em học những môn khối A sẽ có nhiều trường thi, công việc sau khi ra trường dễ dàng hơn và thu nhập cao hơn. Chính vì vậy dẫn đến tình trạng các em xem thường, coi nhẹ, xa lánh môn văn.
Thực tế đó đòi hỏi người giáo viên đặc biệt là những giáo viên văn không thể buông xuôi, chấp nhận theo xu thế mà tâm huyết nghề nghiệp lúc nào cũng cần hơn hết. Ngoài việc chuẩn bị giáo án, thiết kế những bài giảng thật hay còn phải truyền đạt truyền cảm, lôi cuốn học sinh để học sinh yêu thích môn văn và giúp các em thấy văn học khác với các môn khác bởi nó gần gũi với con người, cho các em thấy mình trong văn học và văn học còn dạy các em cách sống.
Và điều đặc biệt trong quá trình dạy văn, ngoài việc cung cấp kiến thức thì khâu ôn luyện cho học sinh cũng rất quan trọng. Ôn tập giúp củng cố kiến thức, giúp học sinh khắc cốt ghi tâm và biết vận dụng vào làm các đề văn trong khi thi cử. Việc ôn tập, đặc biệt là ôn thi đại học, giáo viên không chỉ ôn tập kiến thức, các dạng đề trong từng tác phẩm riêng rẽ mà còn phải nhóm các tác phẩm cùng thể loại, thời đại, tác giả, đề tài.để chỉ ra những điểm giống và khác, những mặt kế thừa, những điểm cách tân của từng tác giả, từng tác phẩm. Đây là dạng đề so sánh tổng hợp.
ài: Cảm nhận của anh/chị về chi tiết “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!” mà nhân vật Chí Phèo cảm nhận được sau đêm gặp thị Nở (Chí Phèo - Nam Cao, Ngữ văn 11) và chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi” mà nhân vật Mị nghe được trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữ văn 12) Hướng dẫn: a) Mở bài: Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và chi tiết - Nam Cao, cây bút hiện thực xuất sắc và thấm đẫm tinh thần nhân đạo. “Chí Phèo” (1941) là kiệt tác đã kết tinh cao nhất cho đặc điểm nghệ thuật của nhà văn. Chi tiết “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!” là một trong những chi tiết đặc sắc thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm. - Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông đã đạt nhiều thành tựu rực rỡ khi viết đề tài miền núi, trong đó có tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” . Thể hiện rõ điều đó có lẽ phải kể đến chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi”. b) Thân bài 1. Về chi tiết “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!” trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao: - Về nội dung: + Cuộc gặp gỡ bất ngờ với Thị Nở và trận ốm đã làm cho con quỷ dữ có sự thay đổi hẳn cả về tâm sinh lí. + Từ khi đi tù về đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm Chí hết say, hoàn toàn tỉnh táo và có được một khoảng ngưng lặng để nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống. Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi tha thiết của cuộc sống trong anh. + Âm thanh đó đã đánh thức trong Chí những cảm xúc của con người. Chí nhớ về quá khứ, ý thức được hiện tại và nghĩ đến tương lai. - Về nghệ thuật: + Là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách tâm lí và bi kịch của nhân vật. + Tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ của ngòi bút Nam Cao, nhà văn thấy được phẩm chất con người, tính người bên trong con người tưởng như đã trở thành quỷ dữ. 2. Về chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi” mà nhân vật Mị nghe được trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài) - Về nội dung: + Mùa xuân trên miền núi Tây Bắc được miêu tả rất đẹp, sắc màu của những chiếc váy hoa, tiếng cười nói của đám trẻ chơi quay đợi tết, đặc biệt là tiếng sáo da diết xoáy sâu vào trái tim tưởng như băng giá của Mị. + Mị nhớ về quá khứ; nhận thức được hiện tại, thấm thía thân phận và dẫn đến hành động (uống rượu, lấy váy hoa để đi chơi,) + Âm thanh đó đã làm thức dậy trong Mị ý thức về tình yêu, hạnh phúc và lòng khát khao cuộc sống tự do. - Về nghệ thuật: + Là một chi tiết góp phần làm thay đổi trạng thái tâm lí của nhân vật. + Tài nghệ miêu tả tâm lí sống động cũng như tấm lòng nhân đạo (phát hiện ra sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị) của nhà văn. 3. So sánh: - Sự tương đồng: + Đó là những âm thanh hết sức diệu kì, nó len lỏi vào tận sâu tâm hồn vốn tưởng như đã chết của nhân vật để khơi dậy trong họ niềm ham sống và khát khao sống mãnh liệt. + Đấy cũng chính là những chi tiết đặc sắc góp phần khẳng định giá trị nhân đạo sâu sắc mới mẻ trong hai tác phẩm. - Sự khác biệt: + Ở tác phẩm Chí Phèo là những âm thanh quen thuộc của cuộc sống xung quanh “hôm nào chả có” nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy vì bây giờ mới hết say...đây là âm thanh của khát khao được sống, được làm người lương thiện của một người không có quyền làm người. + Chi tiết ở tác phẩm Vợ chồng A Phủ đến trong mùa xuân trên bản Hồng Ngài là âm thanh Mị từng nghe thủa chưa về nhà Thống Lí Phá Tra. Đây là tác nhân quan trọng giúp cho Mị từ một con người tê dại, vô cảm về tâm hồn giờ đã “thấy phơi phới trở lại”. c) Kết bài: Đánh giá lại giá trị của chi tiết: là những chi tiết đặc sắc, góp phần thể hiện chiều sâu tâm trạng của nhân vật, đồng thời cũng thể hiện cái nhìn nhân đạo của hai nhà văn: Nam Cao và Tô Hoài. 4. Hướng dẫn học sinh luyện tập Giáo viên nếu chỉ khái quát, hướng dẫn mà không yêu cầu học sinh luyện tập thì các em sẽ không bao giờ khắc sâu được kiến thức nên sau mỗi phần học không chỉ là ôn tập dạng đề so sánh phần văn xuôi, tôi đều yêu cầu học sinh luyện tập. Trong giảng dạy cũng như luyện tập, tôi luôn chú ý đến đổi mới phương pháp, cách thức để tạo ra sự hứng khởi cho học sinh. Chẳng hạn như sau khi học xong phần : thơ, kí, kịch, văn xuôi...tôi hướng dẫn học sinh luyện tập bằng những cách khác nhau. Có phần tôi vận dụng phương pháp khăn phủ bàn để ôn luyện, mỗi nhóm một tờ Ao, các thành viên lập dàn ý vào các ô bên cạnh và sau khi thống nhất thì ghi dàn ý ra ô lớn ở giữa tờ giấy. Hoặc vận dụng phương pháp sơ đồ tư duy, mỗi nhóm lập dàn ý bằng sơ đồ tư duy...sau đó giáo viên nhận xét, bổ sung. Có phần tôi vận dụng phương pháp thảo luận nhóm, mỗi nhóm một đề, thảo luận, đại diện trình bày, giáo viên nhận xét, đánh giá, bổ sung. Với những cách làm như vậy học sinh sẽ không thấy nhàm chán trong các phần ôn tập mà lại phát huy được sự sáng tạo của học sinh. Với việc luyện tập dạng đề so sánh phần văn xuôi tôi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm. Tôi chia lớp thành 2 nhóm, mỗi nhóm một đề tiêu biểu, học sinh thảo luận, lập dàn ý, sau đó đại diện trình bày. Cụ thể như sau : Đề 1 : (Nhóm 1) : Lập dàn ý cho đề sau Cảm nhận của anh (chị) về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhăt (Vợ nhặt – Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa- Nguyễn Minh Châu). Đề 2 : (Nhóm 2) : Lập dàn ý cho đề sau Sau khi nhận được bát cháo hành từ tay Thị Nở, Chí Phèo bảo với thị: - Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui. (Chí Phèo – Nam Cao – Ngữ văn 11) Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân (Ngữ văn 12), sau khi đãi người đàn bà bốn bát bánh đúc, Tràng cười và nói với thị: - Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Cảm nhận của anh (chị) về ý nghĩa những câu nói trên. Sau khi đại diện của nhóm trình bày, tôi yêu cầu các nhóm khác nhận xét, bổ sung. Cuối cùng, tôi nhận xét những ưu điểm, hạn chế và chốt lại những điểm cơ bản của đề mà học sinh cần phải làm sáng tỏ. Đề 1 : Dàn ý : a) Mở bài: - Dẫn dắt vấn đề - Giới thiệu về hai tác giả, hai tác phẩm và hai nhân vật: người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài họ đều tiềm ẩn những vẻ đẹp khuất lấp. b) Thân bài * Khái quát về vẻ đẹp khuất lấp Là vẻ đẹp tiềm ẩn bị che lấp bởi hoàn cảnh. Cả người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài đều ẩn chứa những vẻ đẹp khuất lấp, đằng sau cái vẻ xấu xí, rách rưới ...là những con người hiền hậu, biết điều, ý tứ, giàu đức hi sinh, thấu hiểu lẽ đời. * Phân tích 1) Nhân vật người vợ nhặt: - Giới thiệu chung: Tuy không được miêu tả thật nhiều nhưng người vợ nhặt vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc họa sống động, theo lối đối lập giữa bề ngoài và bên trong, ban đầu và về sau. - Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu: + Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, là một lòng ham sống mãnh liệt. + Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người biết điều, ý tứ. + Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan. 2) Nhân vật người đàn bà hàng chài - Giới thiệu chung : Là nhân vật chính có vai trò quan trọng với việc thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc họa sắc nét theo lối tương phản giữa bề ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất. - Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu : + Bên trong ngoại hình xấu xí, thô kệch là một tấm lòng vị tha, độ lượng, giàu đức hi sinh. + Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục là một người có khát vọng hạnh phúc, can đảm và cứng cỏi. + Phía sau vẻ quê mùa, thất học lạo là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời. 3) Sự tương đồng và khác biệt - Tương đồng: Cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ bé, nạn nhân của hoàn cảnh. Vẻ đẹp đáng trân trọng của họ đều bị đời sống cơ cực, lam lũ làm khuất lấp. Cả hai đều được khắc họa bằng những chi tiết chân thực. - Khác biệt: + Vẻ đẹp thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt chủ yếu là những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh trong nạn đói thê thảm. + Vẻ đẹp được khắc sâu ở người dần bà hàng chài là những phẩm chất của một người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính, trong tình trạng nạn bạo lực gia đình. 4) Lý giải sự khác biệt: + Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển, biến đổi từ thấp đến cao (cảm hứng lãng mạn), trong khi đó người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại (cảm hứng thế sự - đời tư trong khuynh hướng nhận thức lại). + Sự khác biệt giữa quan niệm con người giai cấp (Vợ nhặt) với quan niệm con người đa dạng, phức tạp (Chiếc thuyền ngoài xa) đã tạo ra sự khác biệt này. * Kết bài: - Khái quát hai nhân vật: Hai người phụ nữ ở hai thời đại nhưng đều mang những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. - Suy nghĩ của bản thân. Đề 2: Dàn ý a) Mở bài: - Giới thiệu khái quát về hai tác giả, hai tác phẩm. - Giới thiệu và trích dẫn hai câu nói. b) Thân bài: 1) Về câu nói “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao. - Về nội dung: + Cuộc gặp gỡ bất ngờ với Thị Nở và trận ốm đã làm cho con quỷ dữ Chí Phèo thay đổi hẳn về tâm lí, sinh lí. + Bát cháo hành của Thị Nở đã đánh thức ở Chí khát vọng được sống cuộc sống của một người bình thường “hắn thèm lương thiện”. Cử chỉ mộc mạc của Thị gieo vào lòng Chí niềm hi vọng: Thị sẽ là người mở đường dẫn Chí về với xã hội loài người. + Câu nói “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” cho thấy khát vọng hạnh phúc, được yêu thương vẫn ẩn sâu trong con quỷ dữ Chí Phèo sau bao nhiêu năm tháng bị vùi lấp bởi rượu, máu và nước mắt. Cách nói lấp lửng thể hiện sự lo âu phấp phỏng của một thân phận bị chối bỏ với một niềm hi vọng mong manh. - Về nghệ thuật: + Đây là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách tâm lí và cảnh ngộ của nhân vật. + Tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của ngòi bút Nam Cao: thấy được khát vọng hạnh phúc bên trong một con người tưởng như đã trở thành quỷ dữ. 2) Về câu nói “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân. - Về nội dung: + Tràng là một chàng trai nông dân nghèo, xấu xí, ế vợ. + Trước tình cảnh của một người đàn bà bị cái đói xô đẩy, Tràng đã đãi thị bốn bát bánh đúc. Sau đó, Tràng nói một câu với hình thức như một câu nói đùa “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Câu nói đùa nhưng lại thể hiện niềm khát khao hạnh phúc thật mãnh liệt, cháy bỏng thẳm sâu trong người nông dân nghèo ấy mà ngay cả nạn đói và cái chết cũng không thể dập tắt. + Lời nói của Tràng có vẻ như đùa song ngọn lửa hạnh phúc trong Tràng được thắp lên từ câu nói đùa ấy lại thật sự bùng cháy. Tràng trân trọng hạnh phúc của mình cũng như bằng tất cả những gì có thể, anh biến cuộc hôn nhân của mình với thị trở nên đàng hoàng, nghiêm túc. - Về nghệ thuật: + Là một chi tiết góp phần tạo nên một tình huống truyện độc đáo và ý nghĩa, tạo bước ngoặt cuộc đời và tâm lí của nhân vật, thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. + Tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của ngòi bút Kim Lân. 3. So sánh: - Sự tương đồng: + Đó là những câu nói đặc biệt, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong cuộc đời các nhân vật và có sức tác động diệu kì, tạo nên những khoảnh khắc ngọt ngào hạnh phúc cho họ. + Đó cũng chính là những chi tiết đặc sắc góp phần khẳng định giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ trong hai tác phẩm: Phát hiện và ngợi ca khát vọng yêu thương, khát vọng hạnh phúc ở những con người tưởng như đã hoàn toàn lụi tắt cảm xúc tình yêu trong những hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc đời. - Khác biệt: + Ở “Chí Phèo”, chi tiết thể hiện khát vọng mang bản chất người ẩn sâu trong con quỷ dữ Chí Phèo, sau khi cảm nhận được tình yêu thương mộc mạc, chân thành ở Thị Nở. Câu nói cho thấy anh nông dân Chí hiền lành, chân chất ngày xưa đã sống lại, thay thế hoàn toàn cho con quỷ dữ Chí Phèo. + Ở “Vợ nhặt”, chi tiết khẳng định sức mạnh của tình người, của khát vọng mái ấm gia đình, sống trong tình yêu thương chiến thắng sự đe dọa của cái đói và cái chết. c) Kết bài: - Khái quát lại hai chi tiết. - Khái quát giá trị nhân đạo của hai tác phẩm. 5. Kiểm tra kết quả của quá trình ôn tập. Sau mỗi phần dạy đi liền với nó là ôn tập và tiến hành kiểm tra. Ngoài những phần luyện tập trên lớp, tôi ra đề cho học sinh bài tập về nhà. Và đặc biệt, tôi còn kiểm tra kết quả ôn tập của học sinh bằng những bài kiểm tra cụ thể. Chẳng hạn như trong chương trình Ngữ văn 12, sau khi dạy xong phần thơ ở học kì I, tôi hướng dẫn học sinh ôn tập và ra đề bài viết số 3 vào phần thơ. Bài kiểm tra học kì là sau khi học sinh đã học xong hai bài kí, giáo viên đã ôn tập và tôi đề xuất ra đề vào phần kí. Ở học kì II tôi ra đề bài viết số 6 ở phần văn xuôi. Năm học 2010-2011, tôi ra đề bài viết số 6 cho lớp 12C6 như sau : Đề bài : So sánh vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng qua hai nhân vật: Việt (Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi) và Tnú (Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành). Năm học 2012-2013, tôi ra đề cho lớp 12B5, bài viết số 6 như sau : Đề 3: Cảm nghĩ của anh (chị) về vai trò của truyền thống đối với hiện tại qua hai nhân vật cụ Mết trong truyện ngắn Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) và nhân vật chú Năm trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi). Trong quá trình kiểm tra tôi yêu cầu học sinh làm bài nghiêm túc. Vì các em đã được ôn tập những dạng đề này nên các em đều tự giác, làm bài hết mình. IV. NHỮNG KẾT QUẢ BAN ĐẦU Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn thi đại học dạng đề so sánh phần văn xuôi là việc làm phù hợp với thực tiễn, phù hợp với xu hướng ra đề hiện nay. Việc làm này không chỉ cung cấp kiến thức mà còn chỉ ra các dạng đề, nhóm các đề, hướng dẫn học sinh cách làm bài và tự ôn tập giúp các em hiểu sâu tác phẩm, có sự liên hệ các tác phẩm. Do đó, học sinh của tôi khi được hỏi không còn xa lạ với dạng đề này. Các em không còn tâm lí sợ hãi khi đứng trước những dạng đề khó. Các em đã được trang bị kiến thức cơ bản nên có thể sẵn sàng, chủ động khi đứng trước các đề văn, linh hoạt, sáng tạo khi làm bài. Vì vậy, những năm gần đây khi tổ chức cho học sinh lớp 12 ôn tập dạng đề so sánh tôi thấy có hiệu quả rõ rệt.Và điều này được thể hiện trong kết quả học tập của các em. Tôi đã làm phép so sánh kết quả học tập của học sinh và thu được kết quả như sau : Đối tượng là học sinh lớp 12B5 khóa học 2012-2013 - Trước khi được hướng dẫn ôn tập dạng đề so sánh phần văn xuôi Tổng số HS Mức độ nắm kiến thức Tốt Khá Trung bình Không nắm được SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ 40 0 0% 5 12.5% 28 70% 7 17.5% - Kết quả bài viết số 6 sau khi đã được hướng dẫn ôn tập Tổng số HS Mức độ nắm kiến thức Tốt Khá Trung bình Không nắm được SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ 40 20 50% 17 42.5% 3 7.5% 0 0% Ngoài ra tuy là một trường tiền thân là trường bán công chất lượng đầu vào thấp, năng lực cảm thụ văn chương của học sinh không cao nhưng đã được ôn tập nên kết quả thi đại học của môn văn ở những khối lớp tôi đã dạy điểm khá cao. Kì thi đại học năm 2010 : Em Hoàng Thị Huệ ( Đại học Công Đoàn): 8,5 điểm môn văn; Em Lê Thị Công (Đại học văn hóa): 8.0 điểm môn văn, em Lê Thị Dung (ĐH Ngoại Ngữ TPHCM ) : 8.0 điểm môn văn. Kì thi đại học năm 2011 em : Lê Bá Huy (Đại học An Ninh): 8.0 điểm môn văn, em Nguyễn Thị Mai (ĐH Đà Lạt): 8.0 điểm môn văn, em Nguyễn Thị Thảo (ĐH Công Đoàn): 7,5 điểm môn văn. Và các lớp tôi dạy đều có học sinh giỏi tỉnh, cụ thể là năm học gần đây nhất, năm học 2012-2013 : em Bùi Thị Liên đạt giải Ba môn văn, em Lại Thị Thảo đạt giải ba môn văn. Đó là những kết quả mà tôi đã đạt được khi sử dụng phương pháp ôn tập cho học sinh theo dạng đề. Ngoài ra, học sinh của tôi không còn xa văn, ngại học văn. Các em không còn tâm lí xem thường trong những giờ ôn tập văn. Điều đó thể hiện trong những giờ dạy văn và ôn tập các em soạn bài rất kĩ, học tập sôi nổi, hăng hái phát biểu bài, chủ động tìm tòi, sáng tạo những cách làm mới. Tâm lí các em trong những giờ văn rất thoải mái. Và một niềm an ủi rất lớn của tôi là học sinh khi tôi đang giảng dạy cũng như một số em đã ra trường luôn giành cho tôi những món quà quý đó là những truyện ngắn, những bài thơ tự tác (những đứa con đầu lòng vụng về nhưng nhiều ý nghĩa) của các em. Những giờ ra chơi các em còn tranh thủ nhờ tôi hướng dẫn một số đề văn mà các em chưa hiểu, chỉnh sửa những bài văn của các em, thậm chí là xin thêm đề để về nhà làm. Tuy nhiên, sự chuyển biến của học sinh cần có quá trình lâu dài và không chỉ một cách ôn tập mà còn nhiều cách ôn tập. Không chỉ ôn tập mà phải dạy bài mới kết hợp với kiểm tra đánh giá. Nhưng qua những kết quả mà các em đạt được là niềm động viên, an ủi và khích lệ rất lớn đối với tôi để tôi tiếp tục cố gắng tìm tòi thiết kế những bài dạy hay hơn, những cách ôn tập mới, thiết thực hơn. PHẦN C : KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Bằng những việc làm cụ thể không chỉ trong những tiết dạy văn mà cả trong những giờ ôn tập, tôi đã giúp cho học sinh trong những lớp mình dạy thấy được vai trò của văn học, thấy được việc học văn, làm đề văn không khó mà cơ bản là phải biết cách học, biết cách ôn tập để áp dụng linh hoạt, sáng tạo vào những đề văn cụ thể. Qua đây, tôi cũng xin đề xuất với nhà trường nên tổ chức những buổi tọa đàm hoặc báo cáo chuyên đề về nội dung cũng như phương pháp giảng dạy bộ môn. Từ đó giáo viên có điều kiện trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau góp phần nâng cao trình độ chuyên môn. Ngoài ra, nhà trường cũng nên tổ chức những đêm thơ, là cơ hội để giáo viên và học sinh thể hiện niềm đam mê văn học cũng như cơ hội để bồi dưỡng kiến thức văn học và thắp sáng lên tình yêu văn học. Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ được rút ra trong quá trình giảng dạy. Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp, trao đổi của đồng nghiệp xung quanh vấn đề mà chúng tôi đã đề cập. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và làm cho công việc dạy và học văn thêm nhiều ý nghĩa. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 05/05/2013 Tôi cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Mai Thị Bình MỤC LỤC Trang A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lí do chọn đề tài................................................................................... II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................... III. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu...................................................... IV. Phương pháp nghiên cứu................................................................... B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I.Cơ sở lí luận của đề tài........................................................................... II. Thực trạng vấn đề................................................................................. III. Giải pháp và cách thức tổ chức thực hiện.......................................... Khái quát các dạng đề so sánh....................................................... Hướng dẫn học sinh cách làm các dạng đề.................................... Hướng dẫn cụ thể một số đề.......................................................... Hướng dẫn học sinh luyện tập....................................................... Kiểm tra kết quả của quá trình ôn tập............................................ IV. Những kết quả ban đầu........................................................................ C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT......................................................................... 1 1 2 3 3 4 4 5 7 7 8 9 13 17 18 20 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ giáo dục và đào tạo, dự án Việt-Bỉ (2010), Một số phương pháp và kĩ thuật dạy học, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội. 2. Đinh Thái Hưng (2011), Giới thiệu đề thi tuyển sinh đại học, cao đẳng toàn quốc, NXB Hà Nội. 3. Lê Thị Hường, Nguyễn Thành Nam, Trần Thị Tuyết Mai (2010), Tuyển tập các đề thi tuyển sinh đại học, cao đẳng khối C, NXB Hải Phòng. 4. Nguyễn Hữu Quang, Phan Thị Huỳnh Yến (2010), Những bộ đề văn, NXB đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
File đính kèm:
- skkn_huong_dan_hoc_sinh_lop_12_on_thi_dai_hoc_dang_de_so_sanh_phan_van_xuoi_5773.doc