Đề tài Dạy văn học sử - Khó nhưng dễ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Những thông tin gần đây trên báo chí cho thấy con số thống kê học sinh (HS)
đăng ký dự thi môn Sử và môn Địa trong kỳ thi tốt nghiệp sắp tới thấp một cách đáng
ngại. Thậm chí có trường trung học phổ thông không ghi nhận được một học sinh nào
đăng ký dự thi môn Sử. Ví dụ như trường Trung học phổ thông Vĩnh Cửu, chỉ có
khoảng hơn 10 học sinh đăng kí môn thi tự chọn là môn Sử. Đây là một con số đáng lo
ngại.
Từ môn Sử nghĩ về môn Ngữ văn. Giả sử bây giờ Bộ GD-ĐT quyết định
chuyển môn Văn thành môn thi tự chọn, liệu sẽ có bao nhiêu phần trăm thí sinh tự
nguyện đăng ký môn này? Có cơ quan nào đứng ra làm một cuộc điều tra xã hội học
trung thực để trả lời câu hỏi ấy? HS hiện nay ít yêu thích môn Ngữ văn, đặc biệt là
những bài văn học sử khô khan, nhàm chán. Thực trạng đó không chỉ do chương trình,
SGK hay giáo viên mà còn do chính bản thân HS đã thay đổi rất nhiều về tâm sinh lý
và quan niệm sống so với các thế hệ trước. Nhà trường không thể nào “sửa chữa” đặc
điểm đó của thế hệ trẻ mà chỉ có thể điều chỉnh phần nào bằng sự thuyết phục của văn
học. Hiện nay, trên sách báo, internet, bên cạnh những tác phẩm tinh hoa, xuất hiện
đầy rẫy văn học thứ cấp. Nhiều HS mê đắm tiểu thuyết ngôn tình, sa lầy vào đó, dần
dần mất cân bằng trong cảm thụ văn học và có thể tự mình hủy hoại cảm xúc và thị
hiếu của mình.
Dù quan niệm giáo dục hiện đại lấy người học làm trung tâm, thì thực tế ở
trường phổ thông cho thấy thầy cô giáo vẫn là nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp cải cách. Trong nhân tố này có vấn đề tầm nhìn, kiến thức, phương pháp và kỹ
năng. Đặc biệt là khi dạy những bài văn học sử trong chương trình, giáo viên sẽ thể
hiện đầy đủ nhất về năng lực chuyên môn nhằm giúp học sinh tiếp cận những tri thức
tưởng chừng rất khô khan, khó nhớ.
Trong phạm vi bài viết này, tôi xin chia sẻ một số kinh nghiệm dạy những bài
văn học sử trong chương trình mà tôi đã thực hiện có hiệu quả nhất, để mỗi tiết học
văn học sử - khó nhưng
khoa, hiểu các khái niệm, nhận định và dẫn chứng. Đây là một thách thức đối với giáo viên đứng lớp. Bởi không chỉ đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức sâu rộng về nhiều vấn đề tích hợp, mà còn phải có kĩ năng chọn lựa phương cách phù hợp vấn đề, kết hợp cách pân tích, bình luận Dạy văn học sử - khó nhưng dễ. Trang 13 Phải đảm bảo tính truyền cảm để bài giảng có sức thu hút, tránh sự nhàm chán đối với người nghe. Ví dụ: Khi dạy kiểu bài Khái quát về văn học dân gian, nhất là ca dao – dân ca, giáo viên nên sáng tạo trong việc giảng dạy ở chỗ hát dân ca. Có thể cho học sinh hát một vài câu dân ca nào đóCòn đối với truyện cổ tích, truyền thuyết nên sáng tạo ở chỗ diễn, đóng kịch Khi dạy kiểu bài khái quát về tác giả, giáo viên nên kể học sinh nghe những giai thoại, những câu chuyện kể liên quan đến tác giả đó. Khi diễn giảng, giáo viên cần phải bảo đảm một số yêu cầu cơ bản sau: Đảm bảo tính khoa học chính xác nội dung trình bày. Lí lẽ nêu ra có tính thuyết phục và được trình bày một cách hợp lí. Ngôn ngữ diễn giảng phải mẫu mực: đúng chuẩn, trong sáng, bảo đảm tính giáo dục, âm thanh, nhịp điệu phải vừa phải. Thái độ, cử chỉ của giáo viên phải mẫu mực. Tuyệt đối tránh lối phô trương, sáo rỗng hoặc gắt gỏng học sinh. Trong khi trình bày, giáo viên không nên có những động tác thừa, tránh đi lại trong lớp. - Lưu ý: Vì đây là phương pháp dạy học văn truyền thống mang nặng bản chất tái hiện, nên sẽ có những ưu điểm và hạn chế riêng của nó. Ưu điểm: Tiết kiệm được thời gian. Có khả năng trình bày tri thức một cách có hệ thống, kết hợp được tính logic và tính truyền cảm, nếu biết lựa chọn những dẫn chứng tiêu biểu, chân thực, sinh động, có giọng nói, nét mặt, cử chỉ phù hợp với nội dung truyền đạt Nếu biết vận dụng phương pháp diễn giảng “ nêu vấn đề ”, biết nêu các câu hỏi kích thích sự động não của học sinh thì diễn giảng vẫn phát huy tác dụng tốt. Thông qua hệ thống bài giảng của giáo viên, học sinh nắm bài một cách có hệ thống, hiểu nhanh vấn đề. Nhược điểm: Học sinh thụ động trong quá trình lĩnh hội kiến thức và dễ gây tâm lí nhàm chán, mệt mỏi và không thích học văn. Phương pháp diễn giảng mang đậm dấu ấn cá nhân, nếu không ý thức được mức độ diễn giảng thì giáo viên sẽ trở thành người lấn át hay nói lạc tiếng nói của nhà văn. Diễn giảng dễ sa vào suy diễn nếu thiếu căn cứ và không xác định trọng tâm cần diễn giảng trước và sẽ không truyền đạt một cách hệ thống và logic kiến thức của bài học. Nếu không nắm được phương pháp, giáo viên sẽ rơi vào độc giảng, quên mất sự phối hợp với học sinh. Bí quyết cá nhân: Để cho phương pháp này phát huy một cách có hiệu quả nhất, giáo viên có thể kết hợp diễn giảng với việc sử dụng công nghệ thông tin như: Sử dụng hình ảnh trực quan (hình ảnh tác giả, tác phẩm, minh họa cho các chi tiết trong tác phẩm), âm nhạc (nhạc nền, những bài hát liên quan đến tác phẩm), đoạn phim trong bài trình chiếu. Hiệu ứng phông chữ: in đậm, tô màu, chữ to tạo hiệu ứng cho những nội dung kiến thức quan trọng. Dạy văn học sử - khó nhưng dễ. Trang 14 Ví dụ: Khi dạy bài Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX trong sách văn học 10, tập 1, tôi thường làm như sau: + Với mục các giai đoạn phát triển của văn học: Đây là một phần khá dài, tổng hợp nhiều kiến thức của các phân môn khác nhau. Để giúp học sinh không bị nhàm chán về dung lượng kiến thức khô khan, ở mỗi một giai đoạn phát triển, tôi sẽ đưa ra những tranh ảnh minh họa về hoàn cảnh lịch sử của giai đoạn đó: ví dụ ảnh những chiếc cọc gỗ trên sông Bạch Đằng và hỏi học sinh: “Em có biết về hình ảnh này không? Trận chiến này có vai trò quan trọng như thế nào đối với lịch sử của đất nước và đã tác động như thế nào đến đời sống văn học thời kì đó?” Hàng nghìn cây gỗ lim, sến đầu được vạt nhọn và bịt sắt cắm xuống sông thành những hàng dài chắc chắn, đầu cọc hướng chếch về phía nguồn Dạy văn học sử - khó nhưng dễ. Trang 15 Bãi cọc Bạch Đằng được phát hiện tại xã Yên Giang, Quảng Ninh + Đối với mục nội dung của văn học thời kì này, khi tìm hiểu về cảm hứng yêu nước, tôi sẽ minh họa cho học sinh xem ảnh chiếu đời đô. Sau đó đặt câu hỏi: “Em có biết Chiếu dời đô là của ai không? Chiếu dời đô thể hiện được nội dung gì của văn học thời kì này?...”. Giáo viên có thể giảng thêm cho học sinh hiểu về ý nghĩa của Chiếu dời đô: Nền tảng của Chiếu dời đô là tư tưởng vì nước, vì dân. Chính vì lẽ ấy mà nói rằng, Chiếu dời đô tràn đầy ý nghĩa văn hóa truyền thống. Việc lựa chọn Thăng Long làm kinh đô nước Việt sẽ góp điều kiện quyết định sự phát triển văn hóa dân tộc trên những tầng cao. Muốn cho văn hóa dân tộc phát triển lên những tầng cao thì trước hết phải bảo vệ độc lập lâu dài vững chắc. Chiếu dời đô đòi hỏi phải chọn đất kinh kỳ đủ điều kiện thiên nhiên để phòng thủ và đủ điều kiện nhân sinh để xã hội không ngừng tiến bộ. Sự phối hợp giữa thiên nhiên và nhân sinh sẽ tạo ra đủ các yếu tố cần thiết để cho nước nhà cường thịnh "muôn đời", để cho nhân dân thoát khỏi cái khổ "tối tăm". Chiếu Dời Ðô “Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần đời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam Ðại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không đổi dời. Dạy văn học sử - khó nhưng dễ. Trang 16 Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: ở vào nơi trung tâm trời đất; được thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời. Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?” 4. Giải pháp 4: Dạy văn học sử theo hướng tích hợp liên môn. - Chưa ở đâu sự tích hợp sâu xa bền vững, sự liên ngành, liên môn cùng một lúc xuất hiện hài hòa như trong dạy học Văn học sử. “Xã hội nào văn học ấy”. Từ cơ sở triết học, tư tưởng lưu hợp với lịch sử kéo theo một luồng Mĩ học vừa hội tụ vừa chi phối các ngành nghệ thuật tương ứng. Dạy học Văn học sử thực chất là dạy học một cách nhìn nhận, phân tích, tổng hợp vấn đề từ tư liệu của Lịch sử văn học được xử lý theo quan niệm Triết học và Mĩ học cá nhân của mỗi thành viên khi bừng phát theo sự kích thích, khơi gợi của người dạy. Điều này không phải thầy dạy mới có, mà trên cơ sở hoạt động dạy học những năng lực phân tích, khái quát, tổng hợp đã “mai phục sẵn” ở người học sinh được phát triển. - Điều quan trọng nhất của dạy học Văn học sử là phải lý giải được mối quan hệ biện chứng và lịch sử của các hiện tượng văn học từ tổng hợp khái quát đến cụ thể. Vì sao Văn học dân gian Việt Nam lại gắn với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc sâu sắc như vậy? Vì sao những tư tưởng triết học dân chủ của cha ông in đậm nét trong văn học truyền miệng của dân tộc? Học sinh phải tự hiểu được rằng trong chế độ quân chủ chuyên chế, “khi một dân tộc bị mất dân quyền và nhân quyền, thì văn học là diễn đàn duy nhất để dân tộc đó thể hiện tâm hồn và tư tưởng của mình” (Gherxen). Vì sao tư tưởng Phật, Lão lại được lưu hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa yêu nước trong thơ Lý, Trần?... Vì sao giai đoạn lịch sử Lê mạt – Nguyễn sơ vấn đề số phận con người với tự do công bằng lại đặt ra một cách dữ dằn như vậy? Vì sao các trào lưu văn học giai đoạn 1930-1945 lại phát triển đăc biệt như vậy? Điểm khác nhau cơ bản giữa văn học trung đại và hiện đại, giữa văn học trước và sau 1975?... Nếu không hiểu được những vấn đề khái quát tối thiểu thì dù tư liệu có phong phú đến đâu cũng không thể giải quyết tốt những vấn đề cụ thể của việc phân tích tác phẩm sau này. Vấn đề phát triển kĩ năng phân tích, tổng hợp, khái quát là vô cùng quan trọng trong dạy học Văn học sử. Thông tin về Kinh tế, Chính trị, Tôn giáo, các hiện tượng văn học, các hình thái ý thức kháccũng quan trọng. Nhưng quan trọng hơn là xử lý được các thông tin trong mối quan hệ giữa chúng với nhau và với hạ tầng cơ sở. Và cũng không thể không lý giải những nét riêng đặc thù của văn học so với các hình thái ý thức thuộc kiến trúc thượng tầng khác. Mối quan hệ với các dòng Thiền Trúc Lâm, Quan Bích, Nam Phương của thơ ca Lý Trần, chất sám hối để linh hồn con người được cứu rỗi trong văn chương của Nguyên Hồng, Nam Cao, Hàn Mặc Tử các nhà văn nhà thơ theo dạo Thiên Chúa. - Với thời kì văn học rất cần phân tích sự biến động của Lịch sử, của Triết học, Mĩ học, Tôn giáo, Kinh tế, Chính trị.. trong suốt một thời kì lịch sử dài đằng đẵng kéo Dạy văn học sử - khó nhưng dễ. Trang 17 theo sự ra đời phát triển của các trào lưu, các trường phái, các thể tài mới mẻ. Không phải ngẫu nhiên mà thời kì văn học trung đại Việt Nam có những giai đoạn cùng tồn tại ba bốn loại văn tự (Hán, Nôm, Quốc ngữ, Tiếng Pháp), thậm chí ba bốn trào lưu văn học, có tác gia từ trào lưu này chuyển dần sang trào lưu kia. “ Một nền văn học lớn là nền văn học có nhiều phong cách, nhà văn lớn là nhà văn góp cho nền văn học phong cách riêng độc đáo của mình”. Và “nếu anh là nghệ sĩ thật sự vĩ đại, thì ít nhất trong tác phẩm của anh phải có vài ba khía cạnh của cuộc cách mạng”(Lênin). Nghĩa là phải thể hiện được vài ba khát vọng của nhân dân. - Từ định đề trên ta nhìn rất rõ tầm vóc các danh nhân trong lịch sử qua văn chương của họ: Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ, Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bạch Đằng giang Phú của Trương Hán Siêu, Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều, Văn chiêu hồn của Nguyễn Du, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí MinhThật ra mỗi danh nhân – nơi hội tụ tinh hoa của một thời đại, không phải ngẫu nhiên mà các sử gia tư sản đã cực đoan cho rằng từ góc độ bản thể thì lịch sử là sự cộng lại của các danh nhân. Ta không cực đoan nhưng phát hiện làm rõ cá tính sáng tạo và đóng góp của từng danh nhân trong lịch sử văn học là công việc bắt buộc. - Với từng giai đoạn văn học, chú ý khái quát những hiện tượng nổi bật, tìm ra những nguyên nhân của từng hiện tượng đó, của các tác gia trong trào lưu thậm chí cá tính sáng tạo của từng tác giả. Có thế mới lý giải được các hiện tượng. Nhà văn càng tài năng thì cá tính sáng tạo càng độc đáo, phong cách càng đa dạng, ngôn ngữ càng đa thanh, đa giọng điêụ, những vấn đề trong văn chương của họ không phải dễ dàng tiếp nhận. - Với mỗi tác gia cần tìm bốn vấn đề: Hoàn cảnh xã hội cụ thể và cuộc đời. Bản chất con người. Quan niệm sáng tác. Sự nghiệp - Ở những bài Văn học sử giai đoạn, thời kỳ - cần nắm thật chắc hoàn cảnh lịch sử, các bộ phận, thể loại văn học với những tác gia, tác giả và tác phẩm tiêu biểu trong quá trình phát triển của nó. Đặc biệt chú ý phần đánh giá những thành tựu về phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật; cũng cần nắm được những hạn chế nhược điểm và nguyên nhân. Cần ghi nhớ những nhận định quan trọng có ý nghĩa soi sáng cho việc tiếp nhận tri thức tác phẩm văn học cụ thể. Ví dụ: Nhận định về đặc điểm nổi bật của giai đoạn văn học Việt Nam 1945 - 1975 là: đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn sẽ có ý nghĩa quan trọng khi đi vào những tác phẩm cụ thể và các thể loại ra đời trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. - Một vài ví dụ cụ thể về cách dạy văn học sử theo hướng tích hợp liên môn: Bài Tổng quan văn học Việt Nam, Văn học 10: Cần tóm tắt lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến nay: từ nguồn – 1858; 1858 – 1919; 1919 - 2000 Tác giả Nguyễn Đình Chiểu: cần liên hệ đến Triều Nguyễn Việt Nam cuối thế kỉ XIX, khi Pháp đánh Nam Kì (1861) và chiếm cả Bắc Kì Dạy văn học sử - khó nhưng dễ. Trang 18 Bài Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng thánh 8 năm 1945, Văn học 11: cần nêu được tình hình lịch sử Việt Nam trong giai đoạn đó, để lí giải vì sao, văn học ở thời kì này có sự phát triển mạnh mẽ về ý thức cái tôi cá nhân nhiều như thế. Khi dạy bài tác giả Tố Hữu, Hồ Chí Minh, giáo viên không thể không tích hợp liên môn lịch sử về quá trình ra đi tìm đường cứu nước của Bác, về phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc mà hai tác giả đó tham dự Dạy văn học sử - khó nhưng dễ. Trang 19 IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Hiện nay tình trạng dạy học Văn học sử vẫn nghiêng về chứng minh các luận điểm bằng luận chứng, luận cứ, nhiều hơn việc chú ý phát triển năng lực khái quát, tổng hợp, suy luận. Trong quá trình phát triển những năng lực trên cũng cần kích thích năng lực liên tưởng khi gắn với tư liệu lịch sử. Cố gắng huy động tổng hợp các hoạt động liên ngành, liên môn tạo cho giờ học Văn học sử một sự sinh động sâu sắc cần thiết. Trên thực tế không có một hoạt động dạy học nào chỉ sử dụng duy nhất một phương pháp, mà luôn có sự kết hợp giữa các phương pháp lại với nhau trong một chỉnh thể tác phẩm. Điều quan trọng là giáo viên phải biết kết hợp linh hoạt các phương pháp đó vào bài dạy của mình một cách có hiệu quả. Qua thực tế dạy văn học sử nhiều năm, tôi đã rút ra được kinh nghiệm là: Tránh tình trạng nói lại kiến thức trong sách giáo khoa, thay vào đó là chứng minh nhận định trong sách giáo khoa. Hoặc khi dạy về tác giả văn học, tôi thường mở đầu bằng những câu thơ tiêu biểu của tác giả đó. Ví dụ: Khi dạy tác giả Xuân Diệu, tôi đọc đoạn thơ: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu! Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu... Rồi một ngày mai tôi sẽ đi. Vì sao, ai nỡ bỏ làm chi! Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá Chỉ biết yêu thôi, chẳng hiểu gì.” Và đặt câu hỏi: Em biết đoạn thơ này là của tác giả nào? Nội dung của đoạn thơ đó nói điều gì? Qua đoạn thơ, trước hết em hiểu gì về tác giả đó? Hoặc khi dạy về tác giả Tố Hữu, chứng minh tính trữ tình chính trị, tôi sẽ bắt đầu bằng câu thơ của Tố Hữu: “Mà nói vậy: “Ttrái tim anh đó Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ: Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều Phần cho thơ và phần để em yêu Em xấu hổ: "Thế cũng nhiều anh nhỉ!" Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí Dắt nhau đi, cho đến sáng mai nay Anh đón em về, xuân cũng đến trong tay!” Sau đó đặt câu hỏi: Em có nhận xét gì về câu thơ đó của Tố Hữu? Qua đó, em hiểu như thế nào là tính trữ tình chính trị trong thơ ông? Dạy văn học sử - khó nhưng dễ. Trang 20 Học sinh sẽ hào hứng tìm hiểu vấn đề, tranh luận nhau về nội dung của khổ thơ và như vậy kiến thức về tác giả đó sẽ tự đi sâu vào trong tâm hồn của mỗi học sinh. Tài năng sư phạm, cách dẫn dắt vấn đề của giáo viên sẽ là điều kiện tiên quyết để biến những kiến thức trong bài văn học sử khô khan, khó nhớ trở nên dễ dàng hơn, rung động hơn trong mỗi giờ học. Từ đó, học sinh dễ tiếp thu bài hơn. HS sẽ khó có thể đạt hiệu quả cao trong học tập nếu không có thái độ và sự nhận thức tích cực về việc học. Ðể học sinh không bị nhàm chán, ức chế tinh thần, giáo viên phải chú ý tạo sự thoải mái trong lớp học bằng thái độ vui vẻ, hài hước, bằng việc cho học sinh có sự tự do nhất định trong việc chọn cách trình bày bài tập, và có quyền trao đổi với giáo viên những vấn đề còn khúc mắc... Tuy nhiên, mọi hành vi của học sinh trong lớp học không vượt quá những nguyên tắc, nội quy được chấp nhận trong lớp học. Sự trật tự còn đồng nghĩa với môi trường học tập an toàn. Học sinh tin rằng họ được giáo viên và bạn bè bảo vệ khi cần thiết. Đây cũng là một điều mà giáo viên khi đứng lớp cần quan tâm. Bảng thống kê sự tiến bộ của học sinh qua kết quả kiểm tra đánh giá Năm học Lớp TB HKI TB HKII 2013 - 2014 10A1 49 % 62% 10A2 51% 70% 10A8 39% 57% Dạy văn học sử - khó nhưng dễ. Trang 21 V. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Trên đây là một số kinh nghiệm tôi đã vận dụng có hiệu quả trong quá trình giảng dạy văn học sử. Tin chắc là vẫn còn nhiều thiếu sót, cho nên tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp trong cơ quan và trong ngành, các cấp lãnh đạo, để chất lượng giáo dục ngày được nâng cao hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI THỰC HIỆN (Ký tên và ghi rõ họ tên) NGUYỄN THỊ HÀ Dạy văn học sử - khó nhưng dễ. Trang 22 SỞ GD& ĐT ĐỒNG NAI Đơn vị: Trường THPT Vĩnh Cửu CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc –––––––––––––––––––––––– Vĩnh Cửu, ngày 20 tháng 5 năm 2015 PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học: 2014 - 2015 ––––––––––––––––– Tên sáng kiến kinh nghiệm: DẠY VĂN HỌC SỬ - KHÓ NHƯNG DỄ Họ và tên tác giả: NGUYỄN THỊ HÀ Chức vụ: Giáo viên Đơn vị: Trường Trung học phổ thông Vĩnh Cửu Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác) - Quản lý giáo dục Phương pháp dạy học bộ môn: - Phương pháp giáo dục Lĩnh vực khác: Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị Trong Ngành 1. Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô dưới đây) - Đề ra giải pháp thay thế hoàn toàn mới, bảo đảm tính khoa học, đúng đắn - Đề ra giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, bảo đảm tính khoa học, đúng đắn - Giải pháp mới gần đây đã áp dụng ở đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn vị mình, nay tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị 2. Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 5 ô dưới đây) - Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã được thực hiện trong toàn ngành có hiệu quả cao - Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã được thực hiện trong toàn ngành có hiệu quả cao - Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã được thực hiện tại đơn vị có hiệu quả cao - Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã được thực hiện tại đơn vị có hiệu quả - Giải pháp mới gần đây đã áp dụng ở đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn vị mình, nay tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị 3. Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây) - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách: Trong Tổ/Phòng/Ban Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT Trong ngành - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống: Trong Tổ/Phòng/Ban Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT Trong ngành - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng: Trong Tổ/Phòng/Ban Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT Trong ngành Xếp loại chung: Xuất sắc Khá Đạt Không xếp loại Cá nhân viết sáng kiến kinh nghiệm cam kết và chịu trách nhiệm không sao chép tài liệu của người khác hoặc sao chép lại nguyên văn nội dung sáng kiến kinh nghiệm cũ của mình. Tổ trưởng và Thủ trưởng đơn vị xác nhận đã kiểm tra và ghi nhận sáng kiến kinh nghiệm này đã được tổ chức thực hiện tại đơn vị, được Hội đồng chuyên môn trường xem xét, đánh giá; tác giả không sao chép tài liệu của người khác hoặc sao chép lại nguyên văn nội dung sáng kiến kinh nghiệm cũ của chính tác giả. Phiếu này được đánh dấu X đầy đủ các ô tương ứng, có ký tên xác nhận của tác giả và người có thẩm quyền, đóng dấu của đơn vị và đóng kèm vào cuối mỗi bản sáng kiến kinh nghiệm. Dạy văn học sử - khó nhưng dễ. Trang 23 NGƯỜI THỰC HIỆN SKKN (Ký tên và ghi rõ họ tên) NGUYỄN THỊ HÀ XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN (Ký tên và ghi rõ họ tên) LÊ CAO HẠNH THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ (Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu)
File đính kèm:
- skkn_day_van_hoc_su_kho_nhung_de_6078.pdf