Chuyên đề "Vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy môn Khoa học Lớp 5"

THỰC TRẠNG

1. Thuận lợi

 - Được sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo nhà trường, ngành. Sự khuyến khích vận dụng PPBTNB vào giảng dạy.

 - GV được tập huấn về PPBTNB, có thêm tài liệu nghiên cứu về PP này.

 - PPBTNB là PP có tiến trình dạy học rõ ràng, dễ hiểu có thể áp dụng rộng rãi cho tất cả các khối lớp.

 - Đội ngũ GV nhiệt tình, hết lòng vì học sinh thân yêu.

 - Các em hứng thú, ham hoạt động.

 - Phát huy khả năng tìm tòi và sáng tạo của người học.

- Rèn được kỹ năng giao tiếp, diễn đạt, hợp tác

 2. Khó khăn

 - Còn một số giáo viên chưa được tham gia tập huấn về PPBTNB này.

 - Một số giáo viên còn lúng túng trong cách tổ chức dạy theo BTNB nên dẫn việc thiết kế bài dạy cũng gặp khó khăn.

 - Điều kiện, CSVC, bàn ghế học sinh chưa thuận tiện, trang thiết bị chưa đầy đủ, dụng cụ thí nghiệm còn thiếu nhiều.

 - Tiết học có thể kéo dài, mất nhiều thời gian.

- HS còn lúng túng, rụt rè trong quá trình học, chưa tập trung tham gia thảo luận trong nhóm.

- HS đặt câu hỏi chưa sát với nội dung bài.

- Nhóm trưởng điều hành các hoạt động nhóm chưa năng động.

 

doc9 trang | Chia sẻ: Hải Thượng | Ngày: 05/05/2023 | Lượt xem: 504 | Lượt tải: 3Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề "Vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy môn Khoa học Lớp 5"", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GD-ĐT HÒA BÌNH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG TH VĨNH BÌNH C Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
 CHUYÊN ĐỀ
“VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT
VÀO DẠY MÔN KHOA HỌC LỚP 5”
--------------------
I. LÝ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ
	Đổi mới phương pháp dạy học là nhằm áp dụng phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Đổi mới giáo dục là đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hoạt động hóa người học, trong việc tổ chức quá trình lĩnh hội tri thức thì lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là người đóng vai trò tổ chức và điều khiển học sinh chiếm lĩnh tri thức, tự lực hoạt động tìm tòi phát hiện kiến thức mới.
	Các phương pháp thường được sử dụng vào giảng dạy môn khoa học: trình bày, hỏi - đáp, thảo luận, trò chơi, đóng vai, động não, quan sát, thực hành thí nghiệm, khăn trải bàn, bàn tay nặn bột, Trong đó bàn tay nặn bột (BTNB) là một trong những phương pháp (PP) mới được áp dụng vào giảng dạy duy nhất ở phân môn tự nhiên - xã hội 1, 2, 3 và khoa học lớp 4-5.
	Việc nghiên cứu áp dụng phương pháp này vào dạy học sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường Tiểu học Vĩnh Bình C là vấn đề hết sức cần thiết để góp phần đổi mới phương pháp dạy học. Xuất phát từ yêu cầu của việc đổi mới phương pháp và qua vài năm trực tiếp giảng dạy nên tôi chọn đề tài: Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy môn Khoa học lớp 5 nhằm thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học, đáp ứng yêu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện nay. 
II. THỰC TRẠNG
1. Thuận lợi	
	- Được sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo nhà trường, ngành. Sự khuyến khích vận dụng PPBTNB vào giảng dạy.
	- GV được tập huấn về PPBTNB, có thêm tài liệu nghiên cứu về PP này.
	- PPBTNB là PP có tiến trình dạy học rõ ràng, dễ hiểu có thể áp dụng rộng rãi cho tất cả các khối lớp.
 	- Đội ngũ GV nhiệt tình, hết lòng vì học sinh thân yêu.
	- Các em hứng thú, ham hoạt động.
	- Phát huy khả năng tìm tòi và sáng tạo của người học.
- Rèn được kỹ năng giao tiếp, diễn đạt, hợp tác
	2. Khó khăn
	- Còn một số giáo viên chưa được tham gia tập huấn về PPBTNB này.
	- Một số giáo viên còn lúng túng trong cách tổ chức dạy theo BTNB nên dẫn việc thiết kế bài dạy cũng gặp khó khăn.
	- Điều kiện, CSVC, bàn ghế học sinh chưa thuận tiện, trang thiết bị chưa đầy đủ, dụng cụ thí nghiệm còn thiếu nhiều.
	- Tiết học có thể kéo dài, mất nhiều thời gian.
- HS còn lúng túng, rụt rè trong quá trình học, chưa tập trung tham gia thảo luận trong nhóm. 
- HS đặt câu hỏi chưa sát với nội dung bài.
- Nhóm trưởng điều hành các hoạt động nhóm chưa năng động. 
III. NỘI DUNG
	1. BTNB là gì?
	“Bàn tay nặn bột” là mô hình giáo dục tương đối mới trên thế giới, có tên tiếng Anh là “Hands-on”, tiếng Pháp là “La main à la pâte”, đều có nghĩa là “bắt tay vào hành động”; “bắt tay vào làm thí nghiệm”, “bắt tay vào tìm tòi nghiên cứu”. 
Chương trình tập trung phát triển khả năng nhận thức của học sinh, giúp các em tìm ra lời giải đáp cho những thắc mắc trẻ thơ bằng cách tự đặt mình vào tình huống thực tế, từ đó khám phá ra bản chất vấn đề.
Trẻ luôn cảm thấy tò mò trước những hiện tượng mới mẻ của cuộc sống xung quanh, các em luôn đặt ra các câu hỏi “tại sao?”
Chương trình “Bàn tay nặn bột” là sự quy trình hóa một cách logic phương pháp dạy học, dẫn dắt học sinh đi từ chưa biết đến biết theo một phương pháp mới mẻ là để học sinh tiếp xúc với hiện tượng, sau đó giúp các em giải thích bằng cách tự mình tiến hành quan sát qua thực nghiệm. 
Phương pháp này giúp các em không chỉ nhớ lâu, mà còn hiểu rõ câu trả lời mình tìm được.
Qua đó, học sinh sẽ hình thành khả năng suy luận theo phương pháp nghiên cứu từ nhỏ và hình thành tác phong, phương pháp làm việc khi trưởng thành.
* Vậy PPBTNB là gì?
Phương pháp BTNB là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên. 
BTNB chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho HS bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra...
Với một vấn đề khoa học đặt ra, HS có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức. 
Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác BTNB luôn coi HS là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của GV.
* Mục tiêu của BTNB
Mục tiêu của BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của HS. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho HS. 
2. Các nguyên tắc cơ bản của PPBTNB
	Có 10 nguyên tắc:
	- Học sinh quan sát một sự vật hay một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận và các em sẽ thực hành trên những cái đó.
	- Trong quá trình tìm hiểu, học sinh lập luận, bảo vệ ý kiến của mình, đưa ra tập thể thảo luận những ý nghĩ và những kết luận cá nhân, từ đó có những hiểu biết mà nếu chỉ có những hoạt động, thao tác riêng lẻ không đủ tạo nên.
	- Những hoạt động do giáo viên đề xuất cho học sinh được tổ chức theo tiến trình sư phạm nhằm nâng cao dần mức độ học tập. Các hoạt động này làm cho chương trình học tập được nâng cao lên và dành cho học sinh một phần tự chủ khá lớn.
	- Cần một lượng tối thiểu là 2 giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Sự liên tục của hoạt động và những phương pháp giáo dục được đảm bảo trong suốt thời gian học tập.
	- Bắt buộc mỗi học sinh phải có một quyển vở thực hành do chính các em ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ của các em.
	- Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần các khái niệm khoa học và kỹ thuật được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói của học sinh.
	* Những đối tượng tham gia:
	- Các gia đình hoặc khu phố được khuyến khích thực hiện các công việc của lớp học.
	- Ở địa phương, các cơ sở khoa học (Trường Đại học, Cao đẳng, Viện nghiên cứu) giúp các hoạt động của lớp theo khả năng của mình.
	- Ở địa phương, các viện đào tạo giáo viên giúp các giáo viên về kinh nghiệm và PP dạy học.
	- Giáo viên có thể tìm thấy trên internet các website có nội dung về những mô đun kiến thức (bài học) đã được thực hiện, những ý tưởng về các hoạt động, những giải pháp thắc mắc. Giáo viên cũng có thể tham gia hoạt động tập thể bằng trao đổi với các đồng nghiệp, với các nhà sư phạm và với các nhà khoa học. Giáo viên là người chịu trách nhiệm giáo dục và đề xuất những hoạt động của lớp mình phụ trách.
	3. Tiến trình dạy học theo PPBTNB
	Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề
	Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do giáo viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi, dễ hiểu đối với học sinh. Tình huống xuất phát nhằm lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề. Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì việc dẫn nhập cho câu hỏi nêu vấn đề càng dễ.
	Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học. Câu hỏi nêu vấn đề nhằm kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của học sinh nhằm chuẩn bị tâm thế cho học sinh trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. Giáo viên phải dùng câu hỏi “mở”, tuyệt đối không dùng câu hỏi “đóng” hoặc trả lời “có hoặc không”.
Ví dụ: Khi dạy kiến thức về: Tính chất của nhôm (Khoa học lớp 5)
Để tạo tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề thì tôi tiến hành như sau:
	- Đưa ra miếng nhôm, hỏi đáp:
- Trên tay Thầy (cô) có gì? (một miếng kim loại)
- Các em đoán xem đây là kim loại gì? (nhôm)
- Mời các em cùng giơ 1 đồ vật cũng bằng nhôm lên.
- Nhìn vào các đồ vật bằng nhôm này, các em muốn hỏi điều gì? (Nhôm ở đâu ra? Màu sắc, độ sáng, cứng hay dẻo, công dụng?...).
GV: Tất cả những điều các em muốn hỏi như vừa nói chính là nguồn gốc, tính chất và công dụng của nhôm. Vậy nhôm có nguồn gốc, tính chất và công dụng như thế nào? Đó chính là nội dung bài học hôm nay.
Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh
	Làm bộc lộ quan niệm ban đầu hay biểu tượng ban đầu để từ đó hình thành các câu hỏi hay giả thuyết của học sinh là bước quan trọng, đặc trưng của PPBTNB. GV khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về sự vật hiện tượng mới trước khi được học kiến thức đó. Học sinh có thể trình bày bằng lời nói, bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ.
Ví dụ: Khi dạy kiến thức: Cấu tạo bên trong của hạt. 
Để học sinh bộc lộ quan điểm ban đầu của mình về cấu tạo bên trong của hạt đậu thì tôi đã tiến hành như sau: 
Trong hạt đậu có những gì? Em hãy suy nghĩ và vẽ vào vở thí nghiệm hình vẽ mô tả bên trong hạt đậu. 
Học sinh phải có nhiệm vụ đó là có thể mô tả bằng hình vẽ, có thể mô tả bằng lời hay thể hiện suy nghĩ của bản thân.
          Nếu một vài học sinh nào đó nêu ý kiến đúng, tôi không vội vàng khen ngợi hoặc có những biểu hiện chứng tỏ ý kiến đó là đúng. Biểu tượng ban đầu của học sinh càng đa dạng, phong phú, càng sai lệnh với kiến thức đúng thì tiết học càng sôi nổi, thú vị, gây hứng thú cho học sinh và ý đồ dạy học của giáo viên càng dễ thực hiện hơn.
Bước 3: Đề xuất câu hỏi giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm
	* Đề xuất câu hỏi
	Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của học sinh, giáo viên giúp học sinh đề xuất câu hỏi từ những khác biệt đó. 
	Ở bước này giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp để giúp học sinh so sánh, từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi liên quan đến nội dung bài học. Giáo viên nhanh chóng phân nhóm biểu tượng.
	Sau khi chọn lọc các biểu tượng ban đầu của học sinh, giáo viên cần phải khéo léo gợi ý cho học sinh so sánh các điểm giống (đồng thuận giữa các ý kiến đại diện) hoặc khác nhau (không nhất trí giữa các ý kiến) các biểu tượng ban đầu. Từ những sự khác nhau đó giáo viên giúp học sinh đề xuất các câu hỏi. Việc làm rõ giữa các ý kiến khác nhau trước khi học kiến thức là một mấu chốt quan trọng. Các biểu tượng ban đầu càng khác nhau thì học sinh càng bị kích thích ham muốn tìm tòi chân lí.
Ví dụ: Khi dạy kiến thức: Cấu tạo bên trong của hạt. 
Tôi hướng dẫn học sinh đặt câu hỏi nghi vấn như sau:
- Có phải bên trong hạt đậu có nhiều hạt đậu nhỏ không? 
- Có phải có cây đậu nhỏ nở hoa bên trong hạt đậu không? 
- Có phải bên trong hạt đậu có nhiều hạt đậu nhỏ có rễ không?......
	* Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu:
	Từ các câu hỏi đề xuất, giáo viên nêu câu hỏi cho học sinh đề nghị các em đề xuất thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi đó. Các câu hỏi có thể là: “Theo các em làm thế nào để chúng ta tìm câu trả lời cho các câu hỏi trên?”; “Các em hãy suy nghĩ để tìm phương án giải quyết các câu hỏi mà lớp mình đặt ra!”.
Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu
Từ các phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu HS đã nêu, GV khéo
léo nhận xét và lựa chọn dụng cụ thí nghiệm hay các thiết bị dạy học thích hợp để HS tiến hành nghiên cứu.
 Nếu phải làm thí nghệim thì ưu tiên thực hiện thí nghiệm trực tiếp trên vật thật. Một số trường hợp không thể tiến hành thí nghiệm trực tiếp trên vật thật có thể làm trên mô hình hoặc cho HS quan sát tranh vẽ.
Khi tiến hành thí nghiệm, GV nêu rõ yêu cầu và mục đích thí nghiệm hoặc yêu cầu HS cho biết mục đích của thí nghiệm chuẩn bị tiến hành. Sau đó GV mới phát các dụng cụ, vật liệu thí nghiệm tương ứng với hoạt động.
Các thí nghiệm được tiến hành lần lượt tương ứng với các mô đun kiến thức. Mỗi thí nghiệm được thực hiện xong, GV nên dừng lại để HS rút ra kết luận.
Khi HS làm thí nghiệm, GV bao quát lớp, quan sát từng nhóm. Nếu thấy nhóm hoặc HS nào đó làm sai theo yêu cầu thì GV chỉ nhắc nhở trong nhóm đó hoặc nói riêng với HS đó. GV nên yêu cầu cá nhân hoặc các nhóm thực hiện độc lập để tránh HS nhìn và làm theo cách của nhau.
Ví dụ: Khi dạy kiến thức: Cấu tạo bên trong của hạt. 
- Sau khi quan sát, tôi yêu cầu học sinh vẽ lại hình vẽ đã quan sát và ghi chú thích các bộ phận bên trong của hạt đậu.
- Nếu học sinh chưa chú thích đúng hình vẽ quan sát thì tôi không vội chỉnh sửa ngôn ngữ. Học sinh quan sát gì,chú thích gì thì đó là quyền của học sinh, tôi không chỉnh sửa. 
 	- Qua việc quan sát thì học sinh tự làm việc đó. 
 - Sau khi cả lớp thực hiện xong quan sát hình vẽ, chú thích xong hình vẽ thì tôi cho học sinh quan sát thêm một bức tranh phóng to cấu tạo bên trong của hạt đậu có chú thích và phóng lên màn hình máy chiếu.
Bước 5: Kết luận và hợp thức hóa kiến thức
Sau khi thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, GV có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để HS ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học.
Trước khi kết luận chung, GV nên yêu cầu một vài ý kiến của HS cho kết luận sau khi thực nghiệm. GV khắc sâu kiến thức cho HS bằng cách cho HS nhìn lại, đối chiếu lại với các ý kiến ban đầu trước khi học kiến thức mới.
	4. Một số lưu ý khi dạy PPBTNB
	a) Kỹ thuật đặt câu hỏi
	Trong dạy học theo PPBTNB, câu hỏi của giáo viên đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của phương pháp và thực hiện tốt ý đồ dạy học. Câu hỏi của giáo viên có thể là câu hỏi cho từng cá nhân học sinh, câu hỏi cho từng nhóm, câu hỏi chung cho cả lớp.
	Câu hỏi “tốt” có thể giúp cho học sinh xác định rõ phần trả lời của mình và làm cho tiến trình dạy học đi đúng hướng. Một câu hỏi tốt là một câu hỏi kích thích, một lời mời đến sự kiểm tra chăm chú nhiều hơn, một lời mời đến một thí nghiệm mới hay một bài tập mới Người ta gọi câu hỏi này là câu hỏi “mở” vì nó kích thích một hành động mở.
	Các câu hỏi “đóng” là các câu hỏi yêu cầu một câu trả lời ngắn. 
	VD: Pin là gì? Tên của đồ vật này là gì? Có phải dòng điện chạy từ cực dương sang cực âm hay không? Cũng không hẳn là cấm giáo viên đặt ra câu hỏi đóng, nhưng nếu các câu hỏi đặt ra để yêu cầu học sinh suy nghĩ hành động thì cần phải được chuẩn bị tốt và bắt buộc phải là những câu hỏi “mở”.
	Câu hỏi gợi ý là các câu hỏi được đặt ra trong quá trình làm việc của học sinh. Câu hỏi gợi ý có thể là câu ít mở hoặc là dạng câu hỏi đóng. Vai trò của nó nhằm gợi ý, định hướng cho học sinh.
	Khi đặt câu hỏi gợi ý, giáo viên nên dùng các cụm từ bắt đầu như “Theo các em”, “Em nghĩ gì”, “Theo ý em”.
	Khi đặt câu hỏi nên để một thời gian ngắn cho học sinh suy nghĩ hoặc có thời gian trao đổi nhanh với các học sinh khác, từ đó giúp học sinh tự tin hơn khi trình bày và trình bày mạch lạc hơn khi có thời gian chuẩn bị;
	Tuyệt đối không được gọi tên học sinh sau đó mới đặt câu hỏi;
	Khi nêu câu hỏi, giáo viên cần nói to, rõ. Nếu trường hợp học sinh chưa nghe rõ thì phải nhắc lại, tuy nhiên không nên nhắc lại nhiều lần vì làm như vậy sẽ làm phân tán học sinh. Câu hỏi không nên quá dài.
	Đối với các câu hỏi gợi ý, giáo viên nên đặt câu hỏi ngắn, yêu cầu trong một phạm vi hẹp mà mình muốn gợi ý cho học sinh. Nếu là những câu hỏi gợi ý cho một nhóm khi các em đang thảo luận thì chỉ nêu với âm lượng vừa đủ cho nhóm nghe tránh làm ảnh hưởng đến nhóm khác.
	Trong điều khiển tiết học nếu giáo viên đặt câu hỏi mà học sinh không hiểu, hoặc hiểu sai dẫn đến nhiều cách nghĩ khác nhau, giáo viên nhất thiết phải đặt lại câu hỏi cho phù hợp. Tuyệt đối không được cố chấp vì làm như vậy sẽ phá vỡ hoàn toàn ý đồ dạy học ở các bước tiếp theo.
	b) Khi dạy theo PPBTNB không cho học sinh mở sách giáo khoa trong quá trình học mà chỉ sử dụng vào bước cuối cùng
	c) Đánh giá học sinh
	Đánh giá học sinh qua quá trình thảo luận, trình bày phát biểu ý kiến tại lớp.
Sử dụng PPBTNB không được nhận xét quan điểm của ai đúng, ai sai.
Thông qua thí nghiệm, chính HS sẽ tự đánh giá đúng hay sai.
Đánh giá học sinh trong quá trình làm thí nghiệm.
	Đánh giá học sinh thông qua sự tiến bộ (không chê học sinh).
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Để dạy phương pháp BTNB đạt hiệu quả GV cần:
- Tạo tình huống để học sinh phát hiện ra vấn đề trong bài học, từ đó để các em tự đưa ra các tình huống giải quyết vấn đề để đi đến kết quả, giúp tạo lập cho học sinh thói quen làm việc như các nhà khoa học và niềm say mê sáng tạo phát hiện, giải quyết vấn đề. Mục tiêu này rất quan trọng bởi trong cuộc sống các em gặp phải rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết.
- Giáo viên phải nghiên cứu kĩ bài  bài dạy. Chuẩn bị bài chu đáo, xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp, lôgic, trọng tâm, có kiến thức thực tế, sâu rộng và các giải pháp liên hệ thực tế. Gắn kết chặt chẽ nội dung bài dạy với những vấn đề thiết thực, gần gũi trong cuộc sống hàng ngày và thực tế địa phương.
- Giáo viên cần bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình, chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, trang thiết bị dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin để phục vụ cho bài dạy nhằm lôi cuốn, hấp dẫn, học sinh dễ hiểu, dễ vận dụng.
- Giáo viên nêu vấn đề hay câu hỏi xuất phát phù hợp là câu hỏi tương ứng với trình độ nhận thức của học sinh, gây mâu thuẫn nhận thức cho học sinh, kích thích nhu cầu  tìm tòi - nghiên cứu của học sinh. Giáo viên phải là người hướng dẫn cho học sinh kĩ năng tự mình phát hiện và giải quyết vấn đề.
- Tích cực nghiên cứu học tập, cập nhật kiến thức, nâng cao tay nghề áp dụng phương pháp dạy học đổi mới. Kết hợp các phương pháp dạy học tích cực, áp dụng phân chia nhóm hợp lí, sát đối tượng, hướng dẫn gợi mở, giúp học sinh hăng hái tìm tòi phát hiện kiến thức mới.
- Tác phong cử chỉ, lời nói phù hợp, truyền cảm, thân thiện, khơi gợi sự hứng thú, chủ động tìm tòi, khám phá học tập của học sinh, động viên khuyến khích học sinh tự tin trong học tập, tạo cho học sinh sự say mê hứng thú đối với môn học.
- Để ứng dụng “Bàn tay nặn bột” vào dạy học, điều quan trọng nhất, như mọi vấn đề khác mà giáo viên thường phải giải quyết, đó là phải có đủ nhiệt huyết, quyết tâm để triển khai phương pháp mới.
Như vậy, vai trò của giáo viên rất quan trọng trong việc định hướng, gợi ý, giúp đỡ các em tự khám phá, tự đặt ra các câu hỏi để học sinh hiểu rõ được câu hỏi và vấn đề cần giải quyết của bài học, từ đó đề xuất các phương án thực nghiệm hợp lí.
V. QUY TRÌNH DẠY MÔN KHOA HỌC
A. MỤC TIÊU
1. Kiến thức
2. Kỹ năng	
3. Thái độ
B.CHUẨN BỊ
1. Phần chuẩn bị của giáo viên
2. Phần chuẩn bị của học sinh
C. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
1. Khởi động: Ổn định tổ chức
2. Kiểm tra bài cũ: Yêu cầu HS trả lời một số câu hỏi hoặc trắc nghiệm của bài trước.
3. Bài mới
a. Giới thiệu bài: Từ bài cũ liên hệ nêu yêu cầu của bài mới hoặc trò chơi dẫn dắt vào bài.
b. Các hoạt động
Hoạt động 1
Hoạt động 2
4.Củng cố-Dặn dò
- Liên hệ giáo dục qua tiết dạy
- Củng cố lại kiến thức
- Dặn dò
VI. CÁCH TRÌNH BÀY BẢNG
Thứ.ngày..tháng.năm.
Môn: Khoa học
	Tiết CT:	
1.Hoạt động 1:
3. Bài học:.
..
..
.
2. Hoạt động 2: ..
VI. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
	PPBTNB với những ưu điểm vượt trội. Tuy nhiên đây là phương pháp mới cần phải tìm hiểu nghiên cứu nhiều hơn, cần phải vận dụng thường xuyên hơn để có những kinh nghiệm cần thiết cho bản thân. Bản thân tôi cũng chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc vận dụng phương pháp này vào giảng dạy. Kính mong lãnh đạo và các thầy cô có nhiều kinh nghiệm, góp ý chia sẻ thêm để tôi cùng các thầy cô trong tổ 5 nói riêng và trong trường nói chung vận dụng phương pháp này tốt hơn.
 Vĩnh Bình, ngày 15 tháng 03 năm 2019
HIỆU TRƯỞNG KÝ DUYỆT Người thực hiện
 Phan Kim Lê

File đính kèm:

  • docchuyen_de_van_dung_phuong_phap_ban_tay_nan_bot_vao_day_mon_k.doc
Sáng Kiến Liên Quan