Chuyên đề Nâng cao hiệu quả dạy học giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 4+5

THỰC TRẠNG:

* Về phía học sinh :

- Nhận thức của HS chưa đồng đều.

- Việc xác định đề toán của các em chưa thành thạo.

- Một số em còn chủ quan , chưa đọc kĩ đề bài.

 + Đối với giáo viên :

- Việc giảng dạy của GV đôi khi chưa phát huy hết được tính tích cực, chủ động sáng tạo của các em.

- Trong quá trình tổ chức cho HS thực hành giải toán có những lúc chưa thật sự linh hoạt.

- Thiếu trang thiết bị dạy học.

- Vốn Tiếng Việt của một số em còn hạn chế nên nhiều khi việc hiểu nghĩa của từ trong toán học đối với các em là rất khó, dẫn đến học sinh trả lời không chính xác.

- Một số phụ huynh không quan tâm đến việc học hành của con cái, phó thác cho giáo viên

- Đó là những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hướng dẫn HS giải các bài toán ở dạng có lời văn.

- Do quên kiến thức cơ bản, kĩ năng tính toán yếu.

- Do thiếu điều kiện học tập hoặc do điều kiện khách quan tác động như: Gia đình xảy ra sự cố đột ngột, hoàn cảnh éo le

- Vốn kiến thức cơ bản ở các lớp dưới còn yếu hoặc thiếu. Dẫn tới tình trạng mà chúng ta quen gọi là bị hổng kiến thức hoặc mất căn bản.

- Một phần do thói quen học vẹt, ghi nhớ máy móc không chủ định của học sinh, tiếp thu thụ động, chỉ tiếp nhận được cái đã có sẵn.

- Khả năng kết hợp giữa tri thức đã học với kiến thức vốn có trong cuộc sống chưa cao.

- Sự kết hợp các loại kiến thức của các môn học để vận dụng vào học toán chưa sâu.

* Về phía GV:

 - Việc nghiên cứu và chuận bị cho bài dạy chưa thật chu đáo.

- Chưa quan tâm nhiều đến mọi đối tượng HS trong giờ học, thường chỉ cho HS NK thực hiện yêu cầu giờ học, bỏ qua đối tượng HS chậm vì sợ khi cho các em trả lời, làm bài tập thì mất nhiều thời gian.

- Do GV chưa thực sự hăng say với nghề nghiệp nên chưa dành thời gian, công sức nghiên cứu bài dạy cũng như cách thức tổ chức các hoạt động cho HS nên chất lượng chưa cao.

- Do thời gian nghiên cứu tài liệu tham khảo không nhiều vì vậy việc giảng dạy cũng như hướng dẫn HS tìm hiểu những kiến thức này chưa nhanh, chưa chính xác. Mặt khác thời gian dành cho một tiết không nhiều ít có những tiết luyện tập thêm nên cả GV và HS chưa có kĩ năng, kĩ xảo về những nội dung học tập này.

- Nhiều Gv còn chưa linh hoạt trong lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Phương pháp và hình thưc tổ chức dạy học còn đơn điệu, chưa đa dạng, phong phú.

- Nhiều khi không xác định rõ ý đồ và kiến thức trọng tâm của bài tập. Còn dạy lan man chưa chốt, khắc sâu kiến thức một cách thường xuyên.

- Phân bố thời gian còn chưa thật hợp lí.

- Xử lí tình huống còn nhiều lúng túng, thiếu linh hoạt và sáng tạo.

- Chưa chú ý động viên, khuyến khích học sinh tích cực, hăng say học tập học tập.

- Chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học.

 

docx7 trang | Chia sẻ: Hải Thượng | Ngày: 05/05/2023 | Lượt xem: 318 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Nâng cao hiệu quả dạy học giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 4+5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYÊN ĐỀ 3
NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 4- 5.
*	*	*	*	*
Bước 1 : Chuẩn bị chuyên đề
- Ngày 30 tháng 8 năm 2018 tổ 4-5 đã họp và đi đến thống nhất chọn làm chuyên đề: 
NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY- HỌC PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 4-5
PHẦN MỞ RỘNG VỐN TỪ THEO HƯỚNG TIẾP CẠN NĂNG LỰC CỦA HỌC - Phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong tổ như sau:
- Tất cả các đồng chí GV trong tổ đều nghiên cứu mỗi GV một phần
 	+Tập hợp ý kiến viết lí thuyết : Đ/c Vũ Thị Thủy
 	+ Dạy minh hoạ chuyên đề : Đ/c Phạm Thị Sáng
Bước 2 :Tổ chức chuyên đề
PHẦN 1: LÍ THUYẾT
I. LÍ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ
 Chương trình toán của tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Toán học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản.
 Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá, khái quán hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, bằng viết, các, suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo.
 Mục tiêu nói trên được thông qua việc dạy học các môn học, đặc biệt là môn toán. Môn này có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ phận khoa học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời sống sinh hoạt và lao động của con người. Môn toán là ''chìa khoá'' mở của cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. 
	Trong dạy - học toán ở tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một vị trí quan trọng. Có thể coi việc dạy - học và giải toán là '' hòn đá thử vàng'' của dạy - học toán. Trong giải toán, học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động tích cực các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán có lời văn là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ của học sinh.
 Dạy học giải toán có lời văn ở bậc tiểu học nhằm mục đích chủ yếu sau:
-Giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành đã học, rèn luyện kỹ năng tính toán bước luyện tập vận dụng kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành vào thực tiễn.
-Giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ năng suy luận, tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi, tuyệt đối không sỉ nhục học sinh trước lớp. 
-Để giúp học sinh có một số kiến thức về phương pháp giải toán có lời văn giáo viên cần hướng dẫn học sinh như sau: cần chủ động, sáng tạo, tránh sao chép. Điều cần thiết là phải có khả năng suy luận hợp lý,diễn đạt đúng, phát hiện và giải quyết vấn đề đơn giản,gần gũi với cuộc sống, chăm chú và hứng thú học toán. Từ đó chủ động, linh hoạt và sáng tạo hơn trong việc học toán.
- Nội dung giải toán có lời văn là mảng kiến thức mang tính thực tiễn cao, áp dụng kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Vì thế nội dung dạng toán này đã có từ xưa. Nhưng trong quá trình dạy đối với mỗi người nó luôn mới mẻ và luôn thúc đẩy người giáo viên suy nghĩ tìm tòi để rút ra phương pháp dạy phù hợp hơn với từng đối tượng kiến thức, học sinh, phù hợp với sự phát triển đòi hỏi của xã hội hiện tại và tương lai. Vấn đề mang tính thực tiễn nên luôn mới mẻ, hấp dẫn đối với người giáo viên có tâm huyết.
Việc giải toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần phân biệt cái gì đã cho và caí gì cần tìm, thiết lập các mối liên hệ giữa các dữ kiện giữa cái đã cho và cái phải tìm; Suy luận, nêu nên những phán đoán, rút ra những kết luận, thực hiện những phép tính cần thiết để giải quyết vấn đề đặt ra v.v... Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý trí vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo v.v... 
II. THỰC TRẠNG:
* Về phía học sinh :
- Nhận thức của HS chưa đồng đều.
- Việc xác định đề toán của các em chưa thành thạo.
- Một số em còn chủ quan , chưa đọc kĩ đề bài.
 + Đối với giáo viên :
- Việc giảng dạy của GV đôi khi chưa phát huy hết được tính tích cực, chủ động sáng tạo của các em.
- Trong quá trình tổ chức cho HS thực hành giải toán có những lúc chưa thật sự linh hoạt.
- Thiếu trang thiết bị dạy học.
- Vốn Tiếng Việt của một số em còn hạn chế nên nhiều khi việc hiểu nghĩa của từ trong toán học đối với các em là rất khó, dẫn đến học sinh trả lời không chính xác.
- Một số phụ huynh không quan tâm đến việc học hành của con cái, phó thác cho giáo viên
- Đó là những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hướng dẫn HS giải các bài toán ở dạng có lời văn.
- Do quên kiến thức cơ bản, kĩ năng tính toán yếu.
- Do thiếu điều kiện học tập hoặc do điều kiện khách quan tác động như: Gia đình xảy ra sự cố đột ngột, hoàn cảnh éo le
- Vốn kiến thức cơ bản ở các lớp dưới còn yếu hoặc thiếu. Dẫn tới tình trạng mà chúng ta quen gọi là bị hổng kiến thức hoặc mất căn bản.
- Một phần do thói quen học vẹt, ghi nhớ máy móc không chủ định của học sinh, tiếp thu thụ động, chỉ tiếp nhận được cái đã có sẵn.
- Khả năng kết hợp giữa tri thức đã học với kiến thức vốn có trong cuộc sống chưa cao.
- Sự kết hợp các loại kiến thức của các môn học để vận dụng vào học toán chưa sâu.
* Về phía GV:
 - Việc nghiên cứu và chuận bị cho bài dạy chưa thật chu đáo.
- Chưa quan tâm nhiều đến mọi đối tượng HS trong giờ học, thường chỉ cho HS NK thực hiện yêu cầu giờ học, bỏ qua đối tượng HS chậm vì sợ khi cho các em trả lời, làm bài tập thì mất nhiều thời gian.
- Do GV chưa thực sự hăng say với nghề nghiệp nên chưa dành thời gian, công sức nghiên cứu bài dạy cũng như cách thức tổ chức các hoạt động cho HS nên chất lượng chưa cao.
- Do thời gian nghiên cứu tài liệu tham khảo không nhiều vì vậy việc giảng dạy cũng như hướng dẫn HS tìm hiểu những kiến thức này chưa nhanh, chưa chính xác. Mặt khác thời gian dành cho một tiết không nhiều ít có những tiết luyện tập thêm nên cả GV và HS chưa có kĩ năng, kĩ xảo về những nội dung học tập này.
- Nhiều Gv còn chưa linh hoạt trong lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Phương pháp và hình thưc tổ chức dạy học còn đơn điệu, chưa đa dạng, phong phú.
- Nhiều khi không xác định rõ ý đồ và kiến thức trọng tâm của bài tập. Còn dạy lan man chưa chốt, khắc sâu kiến thức một cách thường xuyên.
- Phân bố thời gian còn chưa thật hợp lí. 
- Xử lí tình huống còn nhiều lúng túng, thiếu linh hoạt và sáng tạo.
- Chưa chú ý động viên, khuyến khích học sinh tích cực, hăng say học tập học tập.
- Chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học. 
III. BIỆN PHÁP DẠY HỌC CHỦ YẾU
A. Chuẩn bị trước khi lên lớp
1. Nghiên cứu kĩ nội dung chương trình và bài dạy, xác định đúng mục đích yêu cầu của tiết dạy.
- Cần trau dồi thêm kiến thức. Dành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu, tìm hiểu, học hỏi ở đồng nghiệp, ở tài liệu để nâng cao nghiệp vụ. Đặc biệt là nghiên cứu sâu việc giảng dạy theo phương pháp mới.
Song song với nhiệm vụ vừa nêu thì giáo viên cũng cần thực hiện tốt như chương trình tăng cường tiếng Việt cho các em. Đồng thời giúp các em phát triển phong phú thên ngôn ngữ tiếng Việt đặc biệt là đối với đối tượng các em là người dân tộc thiểu số.
Phân chia nhỏ từng đơn vị kiến thức để có những phương pháp, hình thức phù hợp.
Chuẩn bị đồ dùng dạy học một cách chu đáo. Cố gắng tận dụng những trang thiết bị một cách tối đa vào việc dạy và học.
Cùng với những tích luỹ về kiến thức nêu trên tôi đã thực hiện cụ thể những việc sau:
Hướng dẫn học sinh nhận biết các yếu tố của bài toán.
Học sinh nhận biết nguồn gốc thực tế của bài toán và tác dụng phục vụ thực tiễn cuộc sống của bài toán chẳng hạn: Cần tính năng suất lúa trên một diện tích đất trồng – tính bình quân thu nhập hàng tháng theo đầu người trong gia đình em
Cho học sinh nhận rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa các đại lượng trong bài toán. Như khi giải bài toán chuyển động đều, học sinh dựa vào “cái đã cho ”, “cái phải tìm ” mà xác định mối quan hệ giữa các đại lượng: Vân tốc – quãng đường - thời gian để tìm đại lượng chưa biết.
“cái đã cho ”, “cái phải tìm ” mà xác định mối quan hệ giữa các đại lượng: Vân tốc – quãng đường - thời gian để tìm đại lượng chưa biết.
- Tập cho học sinh xem xét các đối tượng toán học dưới nhiều hình thức khác nhau thậm chí ngược nhau và tập diễn đạt các kết luận dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn: “Số bạn gái bằng 1/3 số bạn trai” cũng có nghĩa là “số bạn trai gấp 3 lần số bạn gái” hay “đáy nhỏ bằng 2/3 đáy lớn ” cũng có nghĩa là “đáy lớn gấp rưỡi đáy nhỏ” hay “đáy lớn gấp 1,5 lần đáy nhỏ”.
- Ngoài ra hệ thống câu hỏi giáo viên đặt ra cho học sinh cũng cần hợp lý và logic. Bên cạnh đó có những câu hỏi gợi mở giúp học sinh xác định hướng giải quyết vấn đề.
B. Biện pháp thực hiện cụ thể:
1. Phân loại bài toán có lời văn.
Để giải được bài toán thì học sinh phải hiểu đề bài, hiểu các thành phần của nó. những cái đã cho và những cái cần tìm thường là những số đo đại lượng nào đấy được biểu thị bởi các phép tính và các quan hệ giữa các số đo. Dựa vào đó mà có thể phân loại các bài toán:
2. Nâng cao chất lượng giờ dạy trên lớp:
Đây là biện pháp trọng tâm, để HS nắm chắc cách giải toán có lời văn, người GV cần hướng dẫn HS nắm được các bước chung trước khi làm bài.
+ Đọc kĩ đề toán để xác định yêu cầu của đề ( những điều đã cho và những cái phải tìm)
+ Tóm tắt đề toán bằng sơ đồ, hình vẽ, ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn.
+ Phân tích đề toán để tìm cách giải.
+ Giải bài toán và thử lại.
3. Phân loại theo số các phép tính:
Bài toán đơn: là bài toán mà khi giải chỉ cần 1 phép tính. Ở lớp 5 loại toán này thừơng được dùng để nêu ý nghĩa thực tế của phép tính, nó phù hợp với quá trình nhận thức: Thực tiễn – tư duy trừu tượng - thực tiễn.
Ví dụ : Để dạy trừ số đo thời gian có bài toán “Một ô tô đi từ Huế lúc 13 giờ 10 phút và đến Đà Nẵng lúc 15 giờ 55 phút. Hỏi ô tô đó đi từ Huế đến Đà Nẵng hết bao nhiêu thời gian? ” (Ví dụ sách giáo khoa trang 132) . Từ bản chất của bài toán học sinh hình thành phép trừ.
15 giờ 55 phút – 13 giờ 10 phút = 2 giờ 45 phút.
Bài toán hợp: là bài toán mà khi giải cần ít nhất 2 phép tính. Loại bài toán này thường dùng để luyện tập, củng cố kiến thức đã học. Ở lớp 5, dạng toán này có mặt ở hầu hết các tiết học toán.
4. Phân loại theo phương pháp giải:
Trong thực tế, nhiều bài toán có nội dung khác khau nhưng có thể sử dụng cùng một phương pháp suy luận để giải.
Từ những việc đã được phân tích rất cụ thể trên thì chúng ta cũng cần hình thành cho học sinh các bước chung khi giải toán.
Bước 1: Phân tích ý nghĩa bài toán .
Đây là bước đầu tiên trong các yêu cầu giải toán. Trước hết các em cần đọc đề bài nhiều lần, suy nghĩ về ý nghĩa của từng chữ, từng câu, từng số của bài toán và đăt biệt chú ý tới câu hỏi của bài toán hỏi gì?  -Từ đó cần biết những gì bài toán đã cho biết?  Trong bước này cần nhắc nhở học sinh chớ vội vàng tính toán khi chưa nghiên cứu kỹ đề bài.
Bước 2: Tóm tắt đề bài toán
 Đây là bước thiết lập mối quan hệ giữa các yêu cầu đã chovà cho học sinh diễn đạt nội dung bài toán bằng ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn, có thể tóm tắt đề toán bằng chữ hoặc minh họa bằng sơ đồ, doạn thẳng, hình vẽ.
Bước 3: Suy nghĩ để thiết lập khi giải toán
Bước này yêu cầu học sinh phải suy nghĩ, tư duy xem muốn trả lời câu hỏi của bài toán thì phải biết đề toán đã cho biết những gì? Làm tính gì? Và phép tính đó cần thiết cho việc trả lời câu hỏi của bài toán không? Từ đó học sinh suy nghĩ để có thể thiết lập trình tự giải bài toán.
 Bước 4: Thực hiện phép tính kèm lời văn:
Đây là bước quan trọng mà học sinh phải thực hiện đầy đủ trong bài làm, các em phép tính nào cũng cần tự kiểm tra phép tính đúng hay nhầm lẫn và lời văn phải phù hợp với phép tính đó.
Bước 5: Thử lại kết quả
Đây là bước cuối cùng yêu cầu học sinh xem đáp số tìm được có trả lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với nội dung bài toán không? Nếu có thể nên tìm cách nào ngắn gọn hơn 
Ví dụ 1 : Bài 1 ( Tr 151- Toán 4)
Hiệu của 2 số là 85. Tỉ số của 2 số đó là 3/8. Tìm 2 số đó?
Với bài toán trên tôi hướng dẫn HS giải theo các bước sau:
+ Bước 1: Yêu cầu HS đọc kĩ đề bài, xác định được tổng và tỉ số của 2 số. Tự dự kiến cách tóm tắt bài toán theo dữ liệu của đề bài.
+ Bước 2: HS trao đổi theo nhóm đôi để tự tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoan thẳng như sau:
?
85
 Số bé: 
	Số lớn: 	
?
+ Bước 3: Dựa vào sơ đồ để phân tích bài toán, tìm phương án giải.
GV hướng dẫn HS phân tích bài toán theo các câu hỏi sau:
- Nhìn vào sơ đồ em thấy : Giá trị của số bé gồm mấy phần? Giá trị của số lớn gồm mấy phần như thế?
- Hiệu của 2 số là bao nhiêu?
- Muốn tìm giá trị một phần em làm thế nào?
- Khi tìm được giá trị 1 phần, ta cần đi tìm những gì tiếp theo?
+ Bước 4: Giải bài toán 
	Bài giải
	Hiệu số phần bằng nhau là: 8 - 3 = 5 ( Phần )
	Giá trị một phần là: 85 : 5 = 17 
	Số bé là: 17 X 3 = 51
	Số lớn là: 51 + 85 = 136
	Đáp số: Số bé: 51
	 Số lớn: 136
+ Bước 5: Thử lại tính hiệu của 2 số: 136 - 51 = 85 ( Đúng theo dữ liệu đầu bài ) 
Ví dụ 2 :Cho hình thang vuông ABCD có 
kích thước như hình vẽ. Tính : 
a, Tính diện tíc hình thang ABCD 
b, Tính diện tích tam giác ABC
Với bài toán có dạng hình học, tôi hướng dẫn học sinh giải theo các bước như sau :
+ Bước 1: Yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài. Xác định bài thuộc dạng toán gì ?
+ Bước 2 : Yêu cầu học sinh dựa vào hình đã cho thảo luận nhóm tìm phương án giải ( Nếu học sinh không tìm ra hướng giải, giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích hình, xem hình đã cho dữ kiện gì, phải tìm gì ? Muốn tính được diện tích hình tam giác ABC ta phải tính cái gì trước ?
+ Bước 3: Giải bài toán.
 Bài giải :
a, Diện tích hình thang ABCD là :
 ( 50 + 30 ) x 25 : 2 = 1000 ( cm2 )
b, Diện tích hình tam giác ADC là :
 25 x 50 : 2 = 625 ( cm2 )
 Diện tích hình tam giác ABC là :
 1000 - 625 = 375 ( cm2 )
 Đáp số : a, 1000 cm2
 b, 375 cm2
+ Bước 4 : Thử lại:
 Lấy diện tích tam giac ABC + diện tích tam giác ADC = diện tích hình thang ABCD là đúng với dữ kiện đầu bài.
5. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS:
- GV làm tốt công tác kiểm tra đánh giá thường xuyên và định kỳ về kết quả học tập của HS để nắm bắt kịp thời việc vận dụng, rèn kỹ năng giải toán có lời văn của HS cả lớp, từ đó phân loại HS theo các trình độ để tự điều chỉnh về mục tiêu đối với từng bài dạy cụ thể cho phù hợp với các nhóm đối tượng HS lớp phụ trách. Bên cạnh, công tác kiểm tra, đánh giá HS còn giúp cho GV tự điều chỉnh về hình thức tổ chức dạy học, điều chỉnh về phương pháp dạy học sao cho kết quả các tiết dạy đạt được mục tiêu đã đề ra. GV luôn quan tâm, giúp đỡ những em HS có kết quả học tập môn toán nói chung và giải toán có lời văn đạt kết quả chưa cao để các em có hướng vươn lên.
6. Tự tin và quyết tâm thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học:
 Để phát huy tính tích cực, chủ động, say mê học tập môn Toán nói chung và giải bài toán có lời văn nói riêng cho các em học sinh, giáo viên phải tự tin và quyết tâm trong việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. Phải kết hợp nhuần nhuyễn và linh hoạt các phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại như: Phương pháp thuyết trình, giảng giải và minh họa, gợi mở vấn đáp, trực quan, thực hành luyện tập. Tăng cường tổ chức các hoạt động học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác.
7. Tổ chức các trò chơi toán học:
 Tổ chức cho HS tham gia các trò chơi học tập kết hợp trong các tiết dạy. GV phải xác định rõ kiến thức và kỹ năng của trò chơi. Chuẩn bị chu đáo, hướng dẫn rõ ràng cách chơi, luật chơi, thực hiện đúng lúc với các trò chơi hợp lý, cân đối với các hoạt động của tiết dạy. Tổ chức các trò chơi trong toán học như: Tiếp sức, ai đúng ai nhanh, ..
 Thông qua việc tổ chức thành công các trò chơi, GV đã tạo không khí thoải mái, nhẹ nhàng, kích thích các hoạt động học tập của HS. Củng cố chắc chắn các kiến thức, kỹ năng cần đạt trong tiết dạy cho HS.
IV. CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC: 
*.Các phương pháp DH:
 1/ Phương pháp trực quan:
 2/ Phương pháp thực hành luyện tập:
 3/ Phương pháp gợi mở - vấn đáp:
 4/ Phương pháp giảng giải - minh hoạ:
 5/ Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng:
*. Các hình thức tổ chức dạy học:
- GV cần tổ chức các hình chức dạy học linh hoạt, phong phú như: làm việc cá nhân, theo nhóm ( nhóm đôi, nhóm 4, nhóm 6, nhóm ngẫu nhiên,....) để kích thích hứng thú học tập và phát huy tính sáng tạo, ý thức kỉ luật khi làm việc tập thể của HS, tạo sự tương tác trong học tập giữa các đối tượng HS.
- Tùy từng dạng bài tập cụ thể, đối tượng HS để GV lựa chọn những hình thức dạy học sao cho phù hợp.

File đính kèm:

  • docxchuyen_de_nang_cao_hieu_qua_day_hoc_giai_toan_co_loi_van_cho.docx
Sáng Kiến Liên Quan