Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả bài dạy chính tả so sánh phụ âm đầu cho học sinh Lớp 4

 Nhân cách con người chỉ có thể được hình thành thông qua hoạt động và giao tiếp. Để xã hội tồn tại và phát triển, để giao tiếp được thuận tiện, thì mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có ngôn ngữ riêng. Tiếng Việt là ngôn ngữ được thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.Trong cuộc sống hàng ngày, mọi người muốn giao tiếp hay trao đổi thông tin thường thông qua hai hình thức là sử dụng ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ viết. Về ngôn ngữ viết thì yêu cầu trước tiên là phải viết đúng chính tả. Vì chính tả có thống nhất thì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ viết mới không bị cản trở giữa các địa phương, các vùng trong cả nước, cũng như giữa các thế hệ đời trước với các thế hệ đời sau.

Trong các vấn đề về ngôn ngữ, vấn đề chính tả được đặt ra trong nhà trường là một cách hết sức cần thiết. Vì vậy, việc dạy chính tả phải được coi trọng ngay từ buổi đầu đối với học sinh tiểu học. Trong nhà trường, việc rèn luyện cho học sinh viết chính tả là một khâu rất cần thiết và vô cùng quan trọng . Dạy chính tả là dạy kỹ năng sử dụng âm tiết, chữ viết, tiến tới hiểu và sử dụng ngôn ngữ một cách chính xác. Việc viết đúng chính tả giúp học sinh trong quá trình giao tiếp đạt hiệu quả cao trong đời sống.

Viết sai lỗi chính tả là hiện tượng thường gặp trong tất cả các học sinh ở các cấp học. Vì vậy, muốn giảm bớt được điều này thì ngay ở bậc Tiểu học, người giáo viên cần phải có sự uốn nắn, rèn luyện bước đầu tạo đà phát triển cho các em ở các cấp học trên, nghĩa là rèn luyện cho các em kỹ năng Nghe – Nói – Đọc – Viết ở cấp hạ tầng cơ sở . Hơn nữa, việc sai chính tả không chỉ xảy ra ở các âm tiết, phụ âm cuối mà còn xảy ra ngay ở phụ âm đầu như: s/x; v/d ; tr/ch ;ng/ngh; g/gh ; g/r;. . . Do vậy, nghiên cứu để đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy kiểu bài chính tả ( so sánh phụ âm đầu ) là việc làm cần thiết trong việc giảng dạy ở cấp Tiểu học hiện nay, góp phần thực hiện tốt mục tiêu dạy học Tiếng Việt ở cấp học này.

 

doc23 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 2096 | Lượt tải: 3Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả bài dạy chính tả so sánh phụ âm đầu cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hư nhằm tích cực hoá các hoạt động học tập của học sinh.
 Thực trạng như vừa phân tích cho thấy cần khai thác nội dung và lựa chọn hình thức thích hợp để nâng cao chất lượng dạy học chính tả nói riêng Tiếng Việt nói chung cho học sinh lớp 4 ở trường tiểu học Phong Tân chúng tôi đang công tác. Chính vì vậy chúng tôi đề xuất một số biện pháp khi dạy chính tả cho học sinh lớp 4 như sau:
6/ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BÀI DẠY CHÍNH TẢ SO SÁNH PHỤ ÂM ĐẦU CHO HỌC SINH LỚP 4.
 6.1/ Những biện pháp chính:
 6.1.1/ Giáo viên phải chú trọng trong việc phát âm đúng:
 Theo tôi muốn rèn cho học sinh viết đúng chính tả, điều trước tiên nhất, cần nhất là giáo viên phải làm gương cho học sinh trong việc phát âm đúng. Cho nên giáo viên cấn phải thường xuyên luyện phát âm đúng bằng cách khắc phục đúng lỗi do ảnh hưởng của tiếng địa phương. Phải củng cố cho mình những kiến thức về ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa học và phải biết vận dụng những kiến thức đó, việc phân loại lỗi chính tả, vào việc giúp học sinh sữa các lỗi chính tả một cách có cơ sở.
 Khi viết bảng lớn, khi chấm bài cho học sinh giáo viên phải chú ý viết đúng chữ, đúng chính tả và viết đẹp để học sinh noi theo. Ngoài ra, giáo viên vòn cần biết lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp cho từng loại bài chính tả nói chung.
 Trong các tiết chính tả, giáo viên cần chú ý thực hiện đầy đủ có chất lượng trong hướng dẫn chính tả, luyện viết từ khó, giải nghĩa từHọc sinh chỉ viết tốt bài chính tả khi nào các em hiểu được nghĩa và nắm được cách viết các từ khó trong bài.
 6.1.2/ Sửa sai phát âm - rèn cho học sinh ý thức đọc đúng để viết đúng chính tả:
 Học sinh thường hay viết sai do phát âm sai (nói thế nào viết thế ấy) những tiếng có phụ âm đầu s/x; gi/d, có phụ âm cuối n/ng, c/t, những tiếng vần: at thành ac ; ăng thành ăn ; au thành ao
 Ví dụ: đướng xá - đọc thành - đường sá
 Gia đình - đọc thành - da đình
 tiến bộ - đọc thành - tiếng bộ 
 cái bát - đọc thành - cái bác
 buồng cau - đọc thành - buồng cao
 Để sửa cho học sinh trong các trường hợp này, trước hết GV tập cho học sinh phát âm đúng các tiếng đó trong các bài tập đọc. Giáo viên phải phát âm thật chuẩn, sau đó cho học sinh phát âm lại, tập cho các em phát âm đúng các trường dễ mắc lỗi trên.
 Yêu cầu học sinh về nhà tập chép đoạn cần viết vào sổ rèn luyện chữ viết từ 2 đến 4 lần, để học sinh vừa rèn chữ viết, vừa dễ nhớ mặt chữ ( giáo viên có kiểm tra) để đến tiết học GV hướng dẫn cho học sinh thuật nhớ các từ và cách ghi các từ (dễ lẫn lộn) trong bài nhanh hơn và làm cho học sinh khắc sâu những từ ngữ đó.
 6.1.3/ Gây hứng thú học tập cho học sinh qua việc tổ chức các trò chơi học tập trong tiết dạy học chính tả:
 Để học sinh tiếp thu kiến thức một cách tích cực, chủ động giáo viên cần tạo sự hướng thú học tập cho các em trong giờ học. Bởi vì làm việc gì có hứng thú thì kết quả sẽ cao hơn. Nhà giáo dục học nổi tiếng Nga K.D.Usin-xki đã nói: “Việc học tập không hứng thú và chỉ do sức mạnh cưỡng bức sẽ giết chết mọi ham muốn tìm tri thức của học sinh”. Vì vậy gây hứng thú học tập cho học sinh là điều rất quan trọng. Tôi thường tổ chức các trò chơi học tập trong tiết chính tả nhằm gây hứng thú cho học sinh và thông qua đó giúp các em rèn kĩ năng viết đúng chính tả. Các trò chơi tôi tổ chức có tên như : Tìm từ nhanh nhất ; tiếp sức ; ai nhanh
 Ví dụ: Tìm tính từ, có hai tiếng đều bắt đầu bằng l hoặc n ( thời gian 3 phút ) ở bài : “Người tìm đường lên các vì sao”. BT(2). a) - Trang 126.
 Yêu cầu : Các nhóm học sinh sẽ hoạt động trao đổi lẫn nhau tìm hết khả năng của mình, các em đều viết vào giấy nháp riêng.
 Hết 3 phút GV tổng kết qua vở nháp theo cặp học sinh của từng nhóm, công bố kết quả, tuyên dương nhóm cao điểm nhất. Sau đó GV chỉ định một cặp của một nhóm nào đó trong các nhóm của lớp lên bảng. Một em khá đọc em yếu nghe - nhớ - viết hết số từ ngữ của nhóm mình tìm được. Cả lớp theo dõi nhận xét, sửa sai, bổ sung. Sau đó GV kết luận chốt lại kết quả đúng.
 Ví dụ 2 : Cùng nhau hiểu biết 
 Sử dụng bảng lớp những em trong tổ đều được tham gia chơi “Tiếp sức” trong việc tìm từ mới .
 Giáo viên hô câu lệnh, các em hãy tìm từ láy có tiếng chứa âm s hay âm x ( bài : Người viết truyện thật thà). Mỗi đội 4 học sinh cùng tham gia một lúc, đội nào tìm được nhiều từ đúng trong một thời gian qui định là thắng. Trò chơi này giúp các em tìm hiểu nhiều từ mới rất vui và bổ ích cho các em.
 Bên cạnh đó, tôi còn tiến hành cho học sinh thói quen : nghe - nhớ hết câu, cụm từ trước khi viết bài bằng cách cần nhắc lại câu văn, cụm từ giáo viên vừa đọc hay bạn vừa đọc.
 Ví dụ: Cho học sinh: Đọc – nghe – nhớ – nhắc lại (không viết) một đoạn văn sau trong bài chính tả : “ Dế Mèn bênh vực kẻ yếu”
 “Một hôm, qua một vùng cỏ xước xanh dài / tôi trợt nghe tiếng khóc tỉ tê./ Đi vài bước nữa / tôi gặp chị Nhà Trò/ gục đầu bên tảng đá cuội./”
 Sau khi học sinh nhắc lại đúng, GV tuyên dương khuyến khích những em khá giỏi đã nghe tốt, nhắc lại chính xác và nhắc nhở, động viên những em nghe –nhắc lại chưa đạt cần chú ý tập trung hơn.
 6.1.4/ Rèn cho học sinh tính cẩn thận trong khi viết:
 Một số em trong khi viết bài còn lơ là quen thói cẩu thả nên còn sai lệch giữa các chữ: giữa q/ p , giữa n / u , giữa ng / ngh , giữa o / ô , giữa iê / yê , giữa v / d và viết hoa tuỳ tiện hoặc không viết hoa những từ cần viết hoa. Vì vậy cần rèn cho học sinh tính cẩn thận trong khi viết.
 - Trước hết GV nhắc nhở học sinh ngồi đúng tư thế, cách cầm bút, cách để vở đúng qui định, hướng dẫn các em viết đúng mẫu chữ qui định, không được viết thừa nét, thiếu nét, trình bày đúng theo qui định của mỗi loại bài chính tả (Văn xuôi - thể thơ) .
 - Sau đó GV cho lớp quan sát bài viết đẹp, nêu gương học sinh viết và trình bày bài viết sạch đẹp, có điểm cao cho cả lớp xem.
 - GV thường xuyên nhận xét chữ viết của học sinh qua mỗi bài viết, tuyên dương những học sinh tiến bộ trong việc rèn chữ viết. Hình thức này đã giúp cho học sinh ý thức rèn chữ viết, cẩn thận hơn trong khi viết.
 - Cho HS làm sổ riêng để luyện chữ viết, GV có theo dõi, nhắc nhở và chấm bài theo định kỳ hàng tuần.
 6.1.5/ Rèn cho học sinh ý thức tập trung khi viết:
 Tập cho học sinh có một thói quen biết tập trung trong cách viết cần chú ý những đìều sau: :
 - Phối hợp các hành động: nghe – nhìn, phát âm chuẩn – nhớ và viết trong giờ học chính tả, cũng như trong giờ học các phân môn khác.
 - Khi GV đọc bài HS phải nhẩm chữ nhớ cả cụm từ sau đó mới viết, không nên viết liền khi GV vừa mới đọc, phải viết các con chữ rõ ràng.
 - Trong giờ viết chính tả tuyệt đối không nói chuyện, không nhẩm bài to, lắng nghe thầy cô đọc bài rồi nhẩm lại tay viết, mắt nhìn vở, nhìn chữ.
 - GV luôn theo dõi biểu dương kịp thời những học sinh có ý thức viết đúng, viết đẹp trong lớp qua các tiết học, cổ vũ động viên lôi cuốn những học sinh còn viết chưa đúng học tập theo bạn. 
 6.1.6/ Giúp học sinh nắm vững các mẹo luật chính tả: 
 Một số học sinh còn sai lỗi chính tả do không nắm vững qui tắc chính tả, do phát âm địa phương và do quen với hình thức chữ viết. Vì vậy giáo viên cần giúp học sinh nắm vững thuật nhớ và các mẹo chính tả trong từng trường hợp mắc lỗi của học sinh. Sau đây xin trình bày một số mẹo chính tả mà học sinh thường mắc :
 a) Phân biệt ch / tr:
 a.1/ Thuật nhớ cách viết phân biệt ch / tr dựa vào nét nghĩa chung:
 - Từ chỉ người thân trong gia đình, họ hàng đều viết với ch .
 Ví dụ : cha, chú, chồng, chị, cháu, chắt, chút , chít
 - Từ chỉ đồ dùng, dụng cụ nhà nông phần lớn viết với ch .
 Ví dụ : chai, chảo, chày, chạn, chăn, chiếu, chậu, chén, chĩnh, chuỗi hạt, dây chuyền, chuôi dao,
 * Ngoại lệ : bàn trang, bức tranh, cái tráp, cái trống.
 - Tên động vật sống gần người, chim muôn, cá phần lớn được viết với ch .
 Ví dụ : chó, gà chọi, chàng hiu, châu chấu, con chí, chim chóc, chèo bẻo, chìa vôi, chích choè, chiền chiện, con chồn, con chuột, cá chim, cá cháo, cá chẻm, cá chuối, cá chép,
 * Ngoại lệ :cá tra, con trai, cá trích , trôi, trê, chim trĩ, con trâu, con trùn (con giun).
 - Tên cây và hoa quả phần lớn viết với ch.
 Ví dụ : cây chò, cây chỉ, cây chàm, chòi mòi, chôm chôm, 
 * Ngoại lệ : sơn trà, trà mi, cây trám, trầm hương, trinh nữ,
 - Tên các món ăn phần lớn viết với ch.
 Ví dụ : chả, chao, cháo, bánh chay, bánh chưng, chè,
 * Ngoại lệ : bánh tráng, bánh trôi.
 - Cử động thao tác của cơ thể, động tác lao động chân tay thường viết với ch.
 Ví dụ : chà đạp, chải chuốt, chao đảo, cúi chào, chạy nhảy, chăm bón, chắp vá, chấm bài, che đậy, chế biến, chuyên chỡ, chuyền bóng, chửi mắng,
 * Ngoại lệ : trề môi, tay trỏ, trùm khăn, trổ hình.
 - Từ công cụ biểu thị ý phủ định, khước từ, nghi vấn thường viết với ch.
 Ví dụ : chả lẽ, chắc hẳn, chẳng lẽ, chớ hề, chưa hề, chưa chừng,
 - Từ chỉ vị trí trong không gian, thời gian, trình tự, thướng viết với tr : 
 Ví dụ : trên, trong, trước hết, trước tiên, trước sau, trở lên trên, trở xuống,
 a. 2/ Căn cứ vào âm đệm để phân biệt ch / tr:
 Phụ âm tr rất hiếm khi đứng trước âm đệm, tức rất ít khi đứng trước các vần oa, oă, oe, uê, ngoại trừ chữ gốc hán như : truân, truất, truy, truyền, truyệnVậy trước một vần có âm đệm thì ta nên viết ch. Ví dụ : choạc, choai choai, choáng mắt, choàng áo, chích choè,
 Ngoài ra còn một số cách khác để phân biệt như : dựa vào đặc điểm từ láy âm; dựa vào nghĩa của từ để phân biệt; dựa vào từ đồng nghĩa.
 b) Phân biệt s / x :
 b.1/ Dựa vào nét nghĩa chung :
 - Từ chỉ cây cối, hoa quả và rau viết với s :
 Ví dụ : sa sâm, sài đất, sài hồ, cam sành, săng lẻ, sầu riêng, vú sữa, rau sam,
* Ngoại lệ : xà cừ, xà nu, cây xoài, cây xoan, xương rồng, cỏ xước.
 - Tên chim cá, muông thú, côn trùng viết với s :
 Ví dụ : san hô, sao biển, hươu sao, sáo sậu, săn sắt, cá sấu, sâu bọ, chim sâu, con sò, sóc, sói, 
 * Ngoại lệ : xén tóc, mãng xà, bọ xít, xoắn trùng.
 - Từ chỉ sự vật và hiện tượng tự nhiên viết với s :
 Ví dụ : sa mạc, ánh sáng, sẫm tối, sấm chớp, sình lầy, sóng thần, sơn lâm, suối,
 - Những từ có nghĩa “sụp xuống”, “ giảm sút” viết với s : 
 Ví dụ : sa sẩy, sa sút, sạt lở, đổ sập, suy sụp, 
 - Tên một số bệnh viết với s :
 Ví dụ : sản giật, sẩn ngứa, sổ mũi, sốt rét, sởi, suyễn,
 - Nhiều đồ vật viết với s :
 Ví dụ : sa bàn, sà lan, cây sào, cái sịa, cái sọt, sơ đồ, 
 - Tên các thức ăn và đồ dùng liên quan tới việc nấu ăn viết với x :
 Ví dụ : thịt xá xíu, nước xá xị, phở xào, xi rô, xì dầu, xíu mại, xốt cá chua
 * Ngoại lệ : kẹo sô cô la, bánh su sê, kem sữa, bánh sừng bò, canh sườn.
 - Một số vật thể và dụng cụ viết với x : 
 Ví dụ : vải xa tanh, xà beng, gỗ xà cừ, xà nhà, xà cột, xà mâu (vũ khí), xà phòng, túi xách, xi măng, cối xay, cái xẻng, thùng xô, cái xửng,
 b. 2/ Căn cứ vào âm đệm để phân biệt s / x :
 - s rất ít kết hợp với các vần oa, oă, oe, uê, Trước những vần này thường viết với x : xoa đầu, tóc xoăn, mùa xuân, xoè hoa, xuề xoà, vòng xuyến, xuý xoá
 * Ngoại lệ : soạn bài, rà soát, sột soạt, sờ soạng.
 Ngoài ra còn một số cách khác để phân biệt như: dựa vào đặc điểm từ láy âm; dựa vào nghĩa của từ để phân biệt.
 c. Đối với g – gh:
 - GV chú ý hướng dẫn HS vận dụng có ý thức một số qui tắc để làm căn cứ, giúp cho học sinh biết phân loại, so sánh và viết đúng các trường hợp chính tả.
 - GV gợi cho học sinh nhớ lại qui tắc chính tả và nêu ra :
 + “ngh” kết hợp được với các nguyên âm: i, e, ê, iê, ia.
 + “ng” kết hợp được với các nguyên âm:a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư, uô, ươ, ua, ưa.
 Cho học sinh chép lại vào sổ tay chính tả và ghi nhớ.
 - Ngoài ra học sinh cũng hay nhầm lẫn khi viết các từ có phụ âm đầu “g” và “ gh”.Tuy “g” và “ gh” khác nhau nhưng lại đọc giống nhau nên khi viết các em thường nhầm chúng với nhau.
 Chẳng hạn : ghen -> gen
 Muốn viết đúng phụ âm này cần phải ghi nhớ khả năng kết hợp chúng với các vần có nguyên âm khác nhau. Cụ thể:
 + “g” kết hợp với các vần có nguyên âm : a, â, ă, o, ô, ơ, u, ư, uô, ươ không kết hợp được với ua, ưa.
 Cho học sinh tìm ví dụ như : gà, gắt gõng, gầy gò, gượng dậy
 * Lưu ý cho học sinh : Trong Tiếng Việt không có từ : gua, gùa, gựa, gưa, gứa
 + “gh” kết hợp được với các vần có nguyên âm: i, e, ê không kết hợp được ia.
 Cho học sinh tìm ví dụ như : ghế, ghé thăm
 * Lưu ý cho học sinh : Trong Tiếng Việt không có từ ghia, ghịa, ghía, ghìa, ghỉa
 GV yêu cầu và tổ chức các em đọc thêm nhiều sách báo, truyện kể ở nhà và ở lớp ( trong các giờ tự học, giờ sinh hoạt lớp để các em luỵên nhớ và quen với các hình thức chữ viết.
 - GV hướng dẫn cho học sinh thuật nhớ các trường hợp chính tả trên bắng cách 
 + Cho học sinh luyện viết từ khó kĩ trước khi viết bài vào vở (Viết nháp).
 + Cho học sinh luyện thêm bài tập chính tả theo từng trường hợp.
 6.1.7/ Giúp học sinh hiểu nghĩa của từ để viết đúng chính tả.
 Như chúng ta đã biết, có hiểu biết được nghĩa của từ thì học sinh mới có thể viết đúng chính tả được.
 Ví dụ: có hiểu nghĩa của từ : “cỏ xước” (là loài cỏ có quả nhọn như gai, hay bám vào quần áo) thì học sinh mới viết đúng từ “cỏ xước”. Chính vì thế nên những em không nắm được nghĩa của từ, nghe hiểu từ còn hạn chế thì dẫn đến viết sai. Ttrước lúc viết từ khó GV cho học sinh nêu nghĩa của từ bằng cách mô tả sơ lược, tìm từ cùng nghĩa, gần nghĩa hoặc đặt câu với từ đó.
 6.1.8/ Chú ý phát hiện và sửa lỗi chính tả kịp thời cho học sinh trong tất cả các hoạt động học tập.
 Trong dạy học tất cả các môn , các tiết học, khi học sinh viết bảng con trong lớp, làm bài tập, chơi trò chơi,... Khi GV chấm bài, xem vở học sinh cần luôn chú ý thực hiện và sửa lỗi chính tả kịp thời cho học sinh, rèn cho các em ý thức viết đúng chính tả. 
 Ví dụ : Khi chấm bài xong GV nêu ra những lỗi phổ biến trong bài, rồi cho HS tự nêu cách chữa, sau đó ghi vào sổ tay để ghi nhớ.
 6.1.9/ Chấm chữa lỗi bài chính tả.
 Trong bước soát lại bài viết (sử dụng bài viết ở bảng đen) giáo viên đưa ra mẫu đúng một số từ có vấn đề chính tả. Yêu cầu học sinh phân tích âm tiết đúng rồi đối chiếu với chữ mình và tự chữa (nếu sai). Đối với những em mắc lỗi, giáo viên có thể gọi và hỏi: Trong bài viết em đã mắc những lỗi nào? Những lỗi đó thường gặp ở bộ phận nào của tiếng?Dần dần năng lực kiểm tra và tự chữa của học sinh được hình thành.
 Tiếp theo, GV gọi một em mắc lỗi nhiều lên bảng đọc lại và viết lại cho đúng một trong các từ đã sai, lớp nhận xét đúng, sai và chữa lại hoàn chỉnh.
 Khi chấm bài chính tả GV dùng bút mực đỏ gạch chân những lỗi mắc phải và học sinh về nhà tự chữa lại cho đúng vào vở (Giáo viên có kiểm tra).
 Ngoài các biện pháp trên, GV cần phải chú ý một số điều quan trọng sau đây :
 - Phải tổ chức luyện tập thường xuyên về chính tả.
 - Phải phân loại các lỗi chính tả để tìm cách khắc phục thích hợp từng loại.
 - Phải phối hợp sinh động giữa phương pháp dạy có ý thức với phương pháp không có ý thức, phương pháp tích cực và phương pháp tiêu cực.
 ** Một số bài minh hoạ:
 1. Một số ví dụ về bài khó và cách dạy
 a) Bài: (Nghe –viết) “Người tìm đường lên các vì sao” Tuần 13 – TV4 tập 1- trang 126.
 *Nội dung : Bài tập (2).a) Tìm các tính từ :
 - Có hai tiếng đều bắt đầu bằng l. M: lỏng lẻo
 - Có hai tiếng đều bắt đầu bằng n. M: nóng nảy
 *Những khó khăn:
 - Học sinh phải thực hiện theo hai yêu cầu :
 + Một là: Từ tìm được thuộc loại tính từ.
 + Hai là: Cả hai tiếng đều bắt đầu bằng l hoặc n. Như vậy từ này có thể là từ ghép hoặc từ láy.
 Qua bài tập này tôi thấy học sinh sẽ rất lúng túng, dễ nhầm lẫn, khó tìm được từ phù hợp cả hai yêu cầu trên.
 Nguyên nhân là do vốn từ của học sinh còn hạn chế.
 * Để giúp học sinh làm tốt bài tập này giáo viên có thể hướng dẫn học sinh như sau:
 - Giúp học sinh phân tích nắm vững yêu cầu của bài tập.
 - Giúp học sinh chữa một phần của bài tập làm mẫu.
 - Tổ chức cho học sinh làm theo nhóm để trao đổi học tập lẫn nhau.
 - Đại diện nhóm báo cáo kết quả.
 - Các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
 b) Bài :”Những hạt thóc giống” ; Phân biệt l/n, en/eng: Tuần 5
 *Nội dung : Bài tập (3). Giải những câu đố sau:
 a) Tên con vật chứa tiếng bắt đầu bằng l / n.
Mẹ thì sống ở trên bờ
Con sinh ra lại sống nhờ dưới ao.
Có đuôi bơi lội lao xao
Mất đuôi tức khắc nhảy nhao lên bờ.
 (Là con gì?)
 * Khó khăn :
 Học sinh sẽ lúng túng, khó tìm được con vật phù hợp với yêu cầu của câu đố. Học sinh có thể hiểu được nội dung câu đố, đoán được là con cá nhái nhưng không tìm được tiếng bắt đầu bằng l hoặc n. Do vốn hiểu biết về tự nhiên của các em còn hạn chế.
 * Cách dạy :
 - Cho học sinh đọc yêu cầu và nội dung câu đố.
 - Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích tìm hiểu từng dòng thơ của câu đố.
 - Cho HS trao đổi trong nhóm tìm lời giải.
 - Cho học sinh trình bày kết quả bằng hình thức thi đua: Ghi nhanh lời giải lên bảng.
 - Tổ chức cho HS nhận xét, rút ra lời giải đúng.
 Nếu HS thảo luận, trao đổi trong nhóm mà không tìm được lời giải thì giáo viên dùng câu hỏi gợi ý như sau:
 + Con gì sống trên bờ nhưng đẻ trứng dưới nước? (ếch nhái).
 + Trứng nở ra thành con gì? (nòng nọc). Đây là vấn đề học sinh cần phải phát huy vốn hiểu biết của mình về cuộc sống tự nhiên để có câu trả lời đúng.
 Sau cùng giáo viên giải thích thêm cho học sinh hiểu và giáo dục lòng yêu thiên nhiên. 
 c) Bài : “ Chiếc áo búp bê”; Phân biệt s/x, ât/âc – Tuần 14.
 * Nội dung : BT2 và BT3 trang 136 Tiếng Việt 4 – tập 1.
 Bài (2). Điền vào ô trống:
 a) Tiếng bắt đầu bằng s hay x? (Để hoàn chỉnh đoạn văn). 
 b) Tiếng chứa vần ât hay âc? (Để hoàn chỉnh đoạn văn).
 Bài (3).Thi tìm các tính từ:
 a) Chứa tiếng bắt đầu bằng s hoặc x.
 b) Chứa tiếng có vần âc hoặc ât.
 * Những khó khăn:
 - Học sinh dễ nhầm lẫn và rất khó làm vì bài tập gồm hai yêu cầu: Một là, thuộc từ loại tính từ. Hai là, tiếng có chứa âm, vần cho trước.
 *Cách dạy: Giáo viên có thể giúp học sinh hoàn thành hai bài tập qua các bước sau :
 - Giáo viên giúp học sinh phân tích tìm hiểu yêu cầu của BT.
 - Giúp học sinh làm một phần của BT.
 - Tổ chức cho học sinh làm theo nhóm để trao đổi học tập lẫn nhau.
 - Đại diện nhóm báo cáo kết quả.
 - Các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
 Đối với BT3, sau khi HS nhận xét xong giáo viên có thể bổ sung thêm một số tính từ.
 Ví dụ : a) siêng năng, sảng khoái, sáng suốt, sành sỏi,
 b) xấc xược, lấc cấc, vất vả, chất phác, ngất ngưỡng
III/ PHẦN KẾT LUẬN:
 1. Những vấn đề chính đã được giải quyết:
 Trên đây là đề tài sáng kiến, tôi đã phân tích những cơ sở lí luận và cơ sở thực tiển của đề tài đó là một số vấn đề ngôn ngữ học liên quan đến đề tài, các ưu điểm về chương trình SGK, nội dung và phương pháp dạy học chính tả lớp 4. Thực trạng dạy học chính tả lớp 4 trên cơ sở những vấn đề đã được trình bày, tôi nêu một số kinh nghiệm dạy chính tả phù hợp với học sinh lớp 4 ở đơn vị trường TH Phong Tân. Đó là các kinh nghiệm khai thác nội dung dạy học lựa chọn các hình thức dạy học và khai thác các đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung bài học, phù hợp với đối tượng học sinh cụ thể. Tôi đã phân tích những kinh nghiệm này qua ví dụ minh hoạ. Những biện pháp này đã được chúng tôi sử dụng trong thực tiển và bước đầu thu được kết quả tích cực.
 2. Một số kiến nghị:
 - Cần đưa ra những quy ước cụ thể tiện dùng và thống nhất cho từng trường hợp viết hoa.
- Đề nghị các cấp quản lý tăng cường các tài liệu tham khảo về phân môn dạy chính tả.
- Tổ chức các buổi tập huấn chuyên môn về chuyên đề dạy học chính tả theo chương trình cải cách hiện hành.
- Nên để cho các thầy cô giáo được chủ động tự lựa chọn hoặc thay đổi nội dung phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình dạy.
- Cho phép giáo viên được sử dụng giáo án cũ để có thời gian nghiên cứu đầu tư vào tiết dạy (có bổ sung, chọn lọc cái mới cái hay) nhằm đáp ứng hiệu quả cho giờ dạy.
* * *
Sau một thời gian nghiên cứu, tuy đã hoàn thiện, xong trong khoảng thời gian nghiên cứu có hạn, việc làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm đối với tôi vẫn còn lung túng, vì vậy việc làm còn rất nhiều hạn chế. Nội dung của đề tài SKKN khó tránh khỏi những thiếu sót, chưa cập nhật kịp thời những thông tin mới. Tôi rất mong được sự góp ý trân thành của quý thầy cô tập thể nhà trường. Xin cảm ơn!
Phong Tân, ngày 01/03/2012.
Người viết SKKN
Trương Vũ Phương

File đính kèm:

  • docskkn (phuong) th phong tan.doc
Sáng Kiến Liên Quan