Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thực trạng học sinh cá biệt, từ đó tìm ra các giải pháp tối ưu nhất để giáo dục những học sinh cá biệt để các em ngày càng tiến bộ hơn

Giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt là một trong những nhiệm vụ thiết yếu trong nhà trường THCS, hạn chế được những đối tượng HS yếu về mặt đạo đức là góp phần vào chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Thế nhưng thực tế trong các trường THCS hiện nay một bộ phận học sinh cá biệt dường như trường nào cũng có, lớp nào cũng có và năm nào cũng có.

Sau nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp và quan sát một cách có hệ thống về học sinh cá biệt ở các lớp ở bậc THCS, bản thân tôi gặp không ít đối tượng học sinh cá biệt nhưng mỗi em một vẻ cá biệt khác nhau, đòi hỏi trong quá trình giáo dục phải có nhiều sáng tạo mới có hiệu quả được.

 Qua tìm tòi học hỏi ở đồng nghiệp, tham khảo phương pháp giáo dục trên các tạp chí giáo dục, trên truyền hình, vận dụng vào quá trình công tác chủ nhiệm lớp, bản thân tôi cũng rút ra được một vài kinh nghiệm. Trong phạm vi đề tài này tôi xin được trao đổi với các bạn đồng nghiệp, mong muốn được góp một phần nhỏ bé của mình tạo nguồn dồi dào về biện pháp giáo dục học sinh góp phần nâng cao hơn nữa thực chất, chất lượng giáo dục hiện nay.

 

doc11 trang | Chia sẻ: thuhong87 | Lượt xem: 6016 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thực trạng học sinh cá biệt, từ đó tìm ra các giải pháp tối ưu nhất để giáo dục những học sinh cá biệt để các em ngày càng tiến bộ hơn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
em quả là một vần đề không đơn giản, nếu GVCN thiếu tế nhị một xíu thì khó mà có thể gần gũi với các em được, chẳng hạn thường xuyên phê bình, dùng nhiều lới xúc phạm đến các em ... đều có thể làm tổn thương đến mối quan hệ này. Hơn nữa vì các em thường xuyên vi phạm nên các em càng lẩn tránh tiếp xúc với giáo viên nhất là giáo viên chủ nhiệm lớp.
	Để thấy được hết cá tính của học sinh, GVCN cần tạo đựơc mối quan hệ gần gũi với các em, thật sự là chỗ dựa đáng tin cậy nhất sau cha mẹ của các em. Chú ý khi giao tiếp với các em ta phải luôn cởi mở, chân tình, vui vẻ dễ cảm hóa được các em, khi có được mối quan hệ tốt các em sẽ thổ lộ những tâm tư tình cảm với GVCN mà không một chút ngần ngại. Những lời khuyên răn dạy bảo của chúng ta sẽ có tác dụng lớn đối với các em.
	Ví dụ: Em Hứa Anh Hào - học sinh lớp 9/2 do tôi chủ nhiệm là một học sinh học rất yếu, em thường xuyên không thuộc bài cũ và điểm rất kém ở các bài kiểm tra, em chán nản và có ý định bỏ học nhưng vì gia đình ép nên em đành phải đi học. Em tỏ ra lầm lì ít nói, mặc cảm với bạn bè, với thầy cô, xa lánh mọi người, nhất là đối với tôi em lại càng lẩn tránh hơn.
	Thấy vậy tôi tìm cách gần gũi em bằng cách: Trong tuần học thứ 5 em không thuộc bài 2 lần đều bị điểm 1 và giáo viên bộ môn ghi tên vào sổ đầu bài. Lẽ ra như các tuần trước, những em không thuộc bài thì bị phê bình trước lớp, buộc viết bản cam kết, nhưng để có thể gần gũi em tôi không phê bình việc không thuộc bài cũ mà trong tiết sinh hoạt này tôi chỉ chú ý đến việc phê bình các em còn mất trật tự trong tiết học, tôi tìm cách tuyên dương em: (bạn Hào là một học sinh học rất yếu, tuy vậy bạn rất có tinh thần tập thể, trong các tiết học bạn đều nghiêm túc lắng nghe thầy cô giảng bài, không gây ảnh hưởng đến các bạn khác..., đặc biệt là bạn đi học rất đều). Sau lần tuyên dương ấy em Hào có một thái độ khác, tôi nhận thấy em có mong muốn gần gũi với mọi người hơn. Thế là trong buổi lao động tôi tìm cách tâm sự cùng em, dần dần mối quan hệ giữa tôi và em ngày thêm gần gũi, lúc đó em mới thật sự thổ lộ hết mong muốn của mình. Em tâm sự với tôi rằng: “Em học yếu, đó là điều em luôn mặc cảm, việc học đối với em như một gánh nặng, gia đình em chẳng ai giúp được gì cho em, , nhà lại ở cách xa các bạn, điều kiện gia đình lại khó khăn, cha em thì đã mất chỉ còn lại một mình mẹ phải bươn chảy nuôi 3 anh em của em, em muốn nghỉ học phụ giúp mẹ, em nghĩ em học yếu quá, có học cho lắm sau này cũng chẳng làm được việc gì. Hơn nữa việc nghỉ học ở nhà phụ tiếp mẹ thì sẽ có cuộc sống tự do hơn...” 
	Biết được tâm tư, nguyện vọng của em, tôi động viên em học, trong các giờ học tôi thường xuyên quan tâm em nhiều hơn, trao đổi với GVBM tạo điều kiện tốt hơn để em tự tin trong học tập, phân công các em học sinh giỏi ở gần nhà đến giúp đỡ, ở lớp - tôi phân hai em học sinh khá - giỏi, nhiệt tình ngồi cạnh để quan tâm nhiều đến em hơn. Dần dần em tự tin hơn, em được nhiều người quan tâm, em nỗ lực cố gắng và đã có những tiến bộ rõ nét, học kỳ I vừa qua em đạt học lực trung bình, hạnh kiểm khá, em hứa trong học kỳ II em sẽ nổ lực trong học tập và tiếp tục rèn luyện chắc chắn em sẽ được lên lớp và có hạnh kiểm tốt.
 	Trường hợp Em Hồng Nhi là một HS nằm trong một hoàn cảnh đặc biệt, cha mẹ đi làm ăn xa, gởi em ở nhà dì để ăn học, cha mẹ vất vả vì công việc, không có thời giờ để quan tâm nhiều đến em. Hồng Nhi theo bạn, bỏ học, đánh lộn, chơi điện tử, chạy xe không đội nón bảo hiểm, nhậu nhẹt với bạn xấu.
	Sau khi theo dõi và tìm hiểu phân tích hoàn cảnh của Hồng Nhi, tôi gặp riêng em sau gìơ học cuối cùng của ngày thứ sáu - cả lớp đã ra về tôi gọi em ở lại để khuyên nhủ em, trước mặt tôi em rất ngoan ngoãn không có biểu hiện gì. Tôi bắt đầu từ việc hỏi thăm gia đình em, cha mẹ em thế nào? hiện nay có thường xuyên điện thoại hỏi thăm em không, có gởi tiền về choi em không? Thầy nghe nói cha mẹ em ở thành phố làm việc cực khổ lắm, bây giờ thế nào rồi... trước sự quan tâm chân tình của thầy giáo chủ nhiệm với bản tính lương thiện của trẻ em- Hồng nói chuyện với tôi chân tình. Khi thấy em không ngần ngại gì trong tâm sự cùng tôi, tôi bắt đầu gợi ý nhắc nhở từng vi phạm của em, chú ý trong các vi phạm của em tôi đều đưa em vào thế bị lôi kéo theo bạn mà hư. Tôi dùng tình cảm của người anh, người chú, người cha để tâm sự cùng em: Em là niềm an ủi duy nhất đối với cha mẹ - cha mẹ là chỗ dựa duy nhất của em, cha mẹ tần tảo nuôi em ăn học là muốn em trở thành người tốt, bao vất vả nặng nhọc cha mẹ đều gánh chịu để em được có điều kiện tốt mà học tập bằng bạn bằng bè, thế mà vừa rồi thầy nghe cha mẹ rất buồn, khi biết em theo các bạn bỏ học, đánh nhau... em không thương cha mẹ sao? Nói đến đây, tôi thấy đôi mắt em chớp chớp, rưng rưng... Tôi đã cảm hoá được em, từ đó tôi thường xuyên trao đổi với em, mỗi lần trao đổi riêng, tôi đều tìm cách khen ngợi những tiến bộ của em.
	Một trường hợp khác, gia đình kinh tế khá giả, cha mẹ lo làm nông ( ruộng nhiều), lo việc đồng áng không quan tâm đến việc học tập của con em, như gia đình em Nhất. Nhất là một học sinh học khá từ những năm tiểu học, lên THCS Nhất theo bạn bè hay bỏ học, được cha mẹ thường xuyên cho tiền nên Nhất tha hồ chơi điện tử, thường xuyên bỏ học ... Với Nhất tôi dùng biện pháp khác tôi theo dõi em nhiều hơn, hễ em có vi phạm gì là tôi biết ngay và mỗi lần trao đổi với em tôi đều đưa ra những chi tiết rất chính xác, ví dụ chiều nay em bỏ học tiết 2, 3 đi chơi điện tử ở quán.... với em..., sáng thứ ba em xin nghỉ học với lý do đau bụng nhưng thầy biết em chơi điện tử với bạn Lý lớp 9/1. Tất cả việc làm của em thầy đều biết, em biết vì sao thầy biết nhiều về em như vậy không? em biết vì sao thầy quan tâm tới em nhiều không? Cha, mẹ bận bịu công việc cốt tạo sự nghiệp và cũng là tạo điều kiện để em ăn học, lo cho tương lai của em, nhiều bạn gia đình vất vả mà các bạn vẫn cố gắng học tốt như bạn Khởi, bạn Ngân, bạn Gái, ... còn em có điều kiện tốt mà không lo học tập. Chơi bời với các bạn thời gian rồi sẽ chán, em có thể chơi cả đời được không? nếu bây giờ không lo học thì sau này em có thể làm được gì? rồi cha mẹ em sẽ ra sao? có xấu hổ với mọi người vì đã có một đứa con như em không? Dần dần Nhất thấy được cái sai của mình và Nhất cũng đã sửa đổi.
	Biện pháp giáo dục bằng tập thể :
	Ở tuổi các em, bạn bè có một vị trí rất lớn trong mối quan hệ xã hội của các em, thường ở lứa tuổi này các em chưa ý thức được việc nào là cần thiết hơn, chính vì thế đa phần trong quan hệ với thầy cô giáo các em thường có biểu hiện bao che cho nhau, nhất là những khi đề cập tới các đối tượng học sinh cá biệt, mặc dù biết việc làm của bạn là sai, tuy vậy khi hỏi đến phần lớn các em đều trả lời một câu chung nhất( không biết) - đối với những em có quan hệ gần gũi với HS cá biệt, cũng có thể các em ngại không dám nói ra sự thật vì sợ sự đe doạ của các bạn... Nhưng phải nói rằng tất cả những suy nghĩ, những việc làm của các em cá biệt thì chính các em học sinh cùng lớp, cùng khối là biết rõ nhất.
	Về vấn đề này GVCN cần khéo léo trong cách điều tra, có thể là điều tra bằng cách giao nhiệm vụ theo dõi tìm hiểu cho ban cán sự lớp hoặc một đối tượng HS đáng tin cậy nhất nào đó và sẽ trao đổi với các em bằng cách bảo mật thông tin. Thường thì những em này sẽ cung cấp cho chúng ta nguồn tin chính xác nhất.
	Sau khi nắm được thông tin, phân tích tình hình, tôi hướng dẫn các em gần gũi và giúp đỡ bạn, nên tạo được quan hệ tốt và nhất là tạo cho những em cá biệt có niềm tin với mình. Phải nói rằng trong quan hệ bạn bè các em sẽ bộc lộ rõ cá tính không e ngại. Tôi thường xuyên giữ mối quan hệ với các em này tìm hiểu những khó khăn khi phải thuyết phục HS cá biệt để tháo gở khó khăn cho các em, thường xuyên cung cấp biện pháp xử lý kịp thời những biến động của các đối tượng và động viên các em, tạo cho các em có niềm tin thuyết phục, giúp đỡ học sinh cá biệt tiến bộ.
	Trong biện pháp này cũng có thể dùng cách (lấy độc trị độc). Qua các hoạt động của lớp, GVCN cần theo dõi kỹ, qua từng hoạt động các em có những biểu hiện như thế nào: say mê, hứng thú, nhiệt tình, tích cực hay qua loa chiếu lệ, đùn đẩy, ...Hoạt động này em thích dẫn đến nhiệt tình, hoạt động kia không thích thì né tránh..
	Từ việc theo dõi trên GVCN có biện pháp phát huy sở trường của từng em lấy đó làm đòn bẩy để tiến hành ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực khác nảy sinh ở các em.
	Ví dụ: Em Trần Huỳnh Trí, Tiêu Minh Khoa là học sinh thường xuyên nói chuyện riêng trong lớp, khi ban cán sự lớp phê bình là em hăm doạ đánh bạn. Để vừa ngăn chặn được sự mất đoàn kết trong lớp đồng thời xây dựng nề nếp tiết học tốt tôi phân em làm lớp phó kỷ luật - giao nhiệm vụ theo dõi các bạn đồng thời trước lớp tôi quy định những em cán sự lớp phải luôn gương mẫu đi đầu trong mọi hoạt động, nếu vi phạm thì hình thức kỷ luật sẽ nặng hơn. Khi nhận chức danh lớp phó lao động Khoa rất thích, còn Trí thì là tổ trưởng, tuần đầu tiên Khoa và Trí có tiến bộ nhưng vẫn còn một vài lần bị phê bình là nói chuyện riêng, cuối tuần nhận xét tình hình chung của lớp tôi cho các em phát biểu phê bình vai trò trách nhiệm của Khoa và Trí. Sau đó tôi nhận xét chung."Tuy rằng trong tuần qua bạn Khoa và bạn Trí vẫn còn sai sót - có vi phạm kỷ luật, nhưng so với các tuần trước nề nếp của lớp ta tuần này tiến bộ hơn và bản thân Khoa và Trí cũng có tiến bộ, vì sự tiến bộ của lớp ta có thể xí xoá cho bạn và cho bạn cơ hội để khẳng định vai trò của mình ở tuần học tiếp theo". Về sau Khoa và Trí đã ý thức được trách nhiệm của mình và không còn vô kỷ luật như trước nữa. 
	Đối với những đối tượng thích gây rối tập thể, nghịch ngợm (lớp bị phê bình là niềm vui của các em)... Đối với đối tượng này tôi dùng cách đẩy mạnh các hoạt động của lớp để các em thấy được những việc làm của mình không có tác dụng gì khi cả lớp đều có chung một sự quyết tâm nỗ lực vươn lên, làm cho các em bị tách ra khỏi tập thể, không thể gây rối tập thể được và vô hiệu hoá những hành động nghịch ngợm của các em. Không làm hại được tập thể lại bị tách ra khỏi tập thể, các em tự khắc thấy mình như bị hụt hẫng, xấu hỗ. Từ đó chính các em có mong muốn được sống chung trong một tập thể đoàn kết. Khi các đối tượng này thấy được những lỗi lầm của mình, GVCN lớp cần động viên HS trong lớp gần gũi khích lệ để các em hoà nhập với tập thể.
	Kết hợp với phụ huynh học sinh:
	Có thể trao đổi qua các cuộc họp phụ huynh học sinh chung của lớp, GVCN báo cáo kết quả rèn luyện của từng em và có thể mời phụ huynh các đối tượng này ở lại để trao đổi riêng, tránh sự mặc cảm của phụ huynh.
	Có thể trao đổi qua việc đến thăm gia đình học sinh. Thường học sinh cá biệt thì lại có phụ huynh cá biệt; một là không quan tâm đến việc học của con em, hoặc không dám đối diện với sự thật về những sai phạm của con mình... thường những phụ huynh này ít tham gia vào các cuộc họp chung kể cả những lúc có giấy mời riêng cùng không đến. Đối với đối tượng này GVCN cần nhiệt tình hơn, có thể đến thăm gia đình để tìm hiểu điều kiện sinh hoạt của gia đình và nắm được tình hình của các em ở nhà, thường những đối tượng này họ ngại nói những điều sai của con em họ vì thế tôi tổng hợp những điểm tốt mà các em có được dù đó chỉ là một việc không đáng kể để khen ngợi các em, sau đó tôi lồng một vài khuyết điểm của các em; tránh nêu hoàn toàn hoặc một loạt khuyết điểm thì phụ huynh sẽ có sự mặc cảm, hoặc nảy sinh sự tiêu cực, buông xuôi, ngại nói ra những điều mà ta cần tìm hiểu, trao đổi.
	Có thể trao đổi bằng phiếu liên lạc. Ở lớp tôi quy định mỗi em có một sổ liên lạc giữa phụ huynh HS và GVCN lớp. Để tránh trường hợp các em giả mạo việc nhận xét vào sổ, đầu năm tôi yêu cầu phụ huynh ghi đầy đủ thông tin và ký tên vào sổ, nộp cho GVCN, hằng tuần có việc cần thiết liên hệ với phụ huynh, GVCN sẽ ghi vào sổ để các em đem về trình với phụ huynh vào ngày thứ bảy và nộp lại cho GVCN vào thứ hai. Cách làm này cũng có thể thường xuyên trao đổi với phụ huynh và kịp thời giáo dục, chấn chỉnh những sai phạm của các em.
	Kết hợp giáo dục qua giáo viên bộ môn:
	Như phần trình bày nguyên nhân trên, một phần biểu hiện cá biệt của các em là do quan hệ giữa giáo viên và học sinh chưa tốt, có em có những phản kháng đối với những hành động quá đáng của một vài giáo viên. ví dụ như có GV dùng những lời quá nặng nề trong việc nhận xét HS không thuộc bài cũ, không hiểu được bài hay có những biểu hiện áp đặt, thiếu công bằng ... Để xác định chính xác cá biệt của HS từ nguyên nhân này hay không, tôi thăm dò hỏi tất cả giáo viên dạy bộ môn của lớp để có biện pháp giáo dục thích hợp và cũng từ đó tôi có thể góp ý ngay với GV trong việc cần phải tôn trọng và công bằng trong đối xử với HS .
	Cũng có thể do tính cách cá biệt của các em, ở mỗi môn học em có một biểu hiện cá biệt khác nhau, tôi tổng hợp các ý kiến để xác định nguyên nhân cơ bản. 
	Từ việc trao đổi trên tôi tìm ra những ưu điểm của các em để động viên đồng thời lồng vào từng chút một những khuyết điểm của các em để nhắc nhở khắc phục.
	Ví dụ: em Lý Chành Đa là một học sinh cá biệt của lớp tôi chủ nhiệm năm học 20015- 2016
	Các môn học thuộc lĩnh vực tự nhiên em học khá tốt, nhưng các môn đòi hỏi học bài thì em học rất yếu, thậm chí môn Tiếng Anh em đạt điểm kém. Em luôn đem đến sự phiền tói cho lớp như thường xuyên nói chuyện trong giờ học, bỏ học đi chơi điện tử, coi đá bóng, chơi bi da, có hôm bỏ nhà đi chơi rồi ngủ ở nhà bạn... Cha mẹ em phiền hà, nhà trường cũng rất phiền hà.
	Đối với đối tượng này tôi theo dõi thật sát đồng thời cứ mỗi lần không thuộc bài tôi cho em viết một bản kiểm điểm, cam kết với giáo viên bộ môn và cam kết với lớp. Sau đó tôi trao đổi với GVBM về tính cách cá biệt của em đồng thời mong muốn có sự kết hợp giáo dục bằng cách thường xuyên kiểm tra bài em, nhất là trong tiết học luôn gọi em phát biểu trước lớp ưu tiên chọn những câu hỏi tương đối dễ để em trả lời được và thường xuyên khen để khích lệ em, nên bỏ qua lỗi nhỏ của các em.
	Với biện pháp trên qua một học kỳ em Sự đã tiến bộ rõ rệt cuối năm học em đã đạt được danh hiệu học sinh tiên tiến	.
	Kết hợp với các ban ngành, các bộ phận trong và ngoài nhà trường:
	 Kết hợp với tổ chức Đội thiếu niên:
	Đây là tổ chức chuyên về mảng giáo dục hạnh kiểm HS. Tổ chức này có ban chỉ huy liên chi đội, có đội sao đỏ thường xuyên theo dõi các hoạt động của toàn trường và từng lớp học, có một tổng phụ trách Đội chuyên trách tổ chức các hoạt động Đội và kịp thời xử lý những vi phạm của HS, hơn thế nữa có phong trào thi đua làm đòn bẩy nên thường các biện pháp luôn đạt hiệu quả giáo dục cao.
	Một số GVCN lớp ngại trong việc khai báo những sai phạm của HS lớp mình vì sợ ảnh hưởng đến kết quả thi đua của lớp, nhưng với tôi việc kết hợp với tổ chức Đội là một biện pháp giáo dục có hiệu quả rất cao trong công tác giáo dục hạnh kiểm HS.
	Đối với đội cờ đỏ: tôi yêu cầu các em ghi lại tên của tất cả những em vi phạm - có như vậy thì tôi mới kịp thời có được thông tin và xử lý dứt điểm những vi phạm đựơc.
	Đối với các em ban chỉ huy liên chi đội - đội phát thanh măng non: Tôi thường xuyên cung cấp những cá nhân điển hình của lớp đưa vào các bản tin hằng ngày để tuyên dương khen ngợi, khích lệ tinh thần các em.
	Với tổng phụ trách Đội: tôi thường xuyên giữ mối quan hệ chặt chẽ. Tôi thường xuyên kết hợp các biện pháp giáo dục theo kiểu vừa đấm vừa xoa: đối với những đối tượng học sinh cá biệt tôi sử dụng biện pháp cứng rắn bên cạnh đó tôi nhờ tổng phụ trách đội động viên, những em tôi dùng biện pháp mềm mỏng thuyết phục tôi lại nhờ TPT đội có biện pháp cứng rắn hơn, cũng có lúc kết hợp cả hai cùng chung biện pháp, ở những lúc này thì chúng tôi kết hợp chặt chẽ hơn về khâu theo dõi và các luồng thông tin về đối tượng học sinh cá biệt.
	Đề nghị TPT Đội tham mưu với chính quyền nhà trường và công an xã phối hợp tổ chức giáo dục các đối tượng học sinh cá biệt.
	Đối với bộ phận chuyên môn: 
	Tôi đề nghị nhà trường thành lập lớp phụ đạo cho HS yếu, GVCN có trách nhiệm vận động để các em tham gia hoc, thường xuyên theo dõi, động viên. Bộ phận chuyên môn theo dõi và có đề nghị xử lý những em không tham gia đầy đủ các buổi học cũng như vô kỷ luật trong khi tham gia học.
	4. Thực nghiệm và kết quả thực hiện: 
Trong năm học: 2016-2017 này, đầu năm khi nhận lớp chủ nhiệm, lớp tôi có 3 em trong đối tượng học sinh cá biệt, lớp tôi là một lớp có phong trào học tập yếu của khối 9.
	Qua áp dụng các biện pháp giáo dục trên, học kỳ I vừa qua lớp tôi đã có những tiến bộ có thể thống kê trên số học sinh 24 em như sau:
Hạnh kiểm
Học lực
Ghi chú
Tốt
Khá
TB
Yếu	Yêú
Gioỉ
Khá
TB
Yêú
Khảo sát đầu năm
15
8
1
2
7
10
5
Cuối HKI
21
3
0
6
11
6
1
PHÂN III: KẾT LUẬN 
1. Những kết luận về nội dung, ý nghĩa, hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: 
	Qua sự cố gắng nỗ lực của bản thân, năm qua trong công tác chủ nhiệm tôi luôn vận dụng linh hoạt các biện pháp trên và cũng đã thu được kết quả rất khả quan 
	Các lớp được tôi chủ nhiệm các em đều tham gia tốt các hoạt động của trường của Liên đội và luôn được đánh giá cao, nhiều năm lớp đạt danh hiệu xuất săc và bản thân tôi được hội đồng thi đua nhà trường công nhận là giáo viên chủ nhiệm giỏi
	Không có hiện tượng HS phải đưa ra hội đồng kỷ luật nhà trường.
	Quan hệ thầy trò, bạn bè ngày càng được thắt chặt.
	Uy tín nhà giáo được nâng cao, tạo được niềm tin trong phụ huynh học sinh.
	Qua quá trình thực hiện tôi rút ra được một số kinh nghiệm như sau: 	Muốn giáo dục tốt các đối tượng HS cá biệt giáo viên chủ nhiệm cần phải:
	Điều tra nắm rõ nguyên nhân của các hiện tượng cá biệt.
	Nắm rõ tâm lý của từng đối tượng để đề ra biện pháp thích hợp.
	Khi tiến hành các biện pháp giáo dục cần tránh việc nêu tất cả những khuyết điểm ra cùng một lúc hay non nóng muốn giải quyết được tất cả những sai phạm của các em cùng một lúc mà nên phân thời gian và chọn ra những sai phạm mang tính cấp bách hay cơ bản thì giải quyết trước.
	Không yêu cầu quá cao, nên có sự thông cảm chia xẻ với các em.
	Luôn tạo mối quan hệ gần gũi, cảm hoá các em.
	GVCN cần biết kết hợp được nhiều tác nhân phối hợp giáo dục.
2. Đề xuất và kiến nghị 
Lãnh đạo các cấp chính quyền có hướng tích cực hơn về mặt giáo dục học sinh cá biệt .
Tăng cường tiết ngoại khóa về giáo dục đạo đức học sinh 
Nhà trường kết hợp với chính quyền để giáo dục học sinh cá biệt 
Tổng phụ trách đội, Ban giám hiệu, phụ huynh kết hợp với giáo viên chủ nhiệm để cùng giáo dục các em .
 Lâm Kiết, ngày 06 tháng 02 năm 2017
	 Người viết chuyên đề
Xét duyệt của tổ trưởng chuyên môn
.
 Huỳnh Đa Rinh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách giáo dục thời đại
Báo thiếu niên tiền phong
Báo hoa học trò
Báo dân trí
Tài liệu từ internet
X) MỤC LỤC:
I) TÊN ĐỀ TÀI :Trang 2
II/ ĐẶT VẤN ĐÊ: ........................................................................................Trang 2
III/ CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................................Trang 2
IV) CƠ SỞ THỰC TIỄN ..............................................................Trang 3
V) NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN GIÁO DỤC :...Trang 6
	1/ Biện pháp giáo dục bằng tâm lý: ....................................................Trang 6
	2/ Biện pháp giáo dục bằng tập thể : ................................................Trang 9
	3/ Kết hợp với phụ huynh học sinh: .................................................Trang 11
	4/ Kết hợp giáo dục qua giáo viên bộ môn: ......................................Trang 12
	5/ Kết hợp với các ban ngành trong và ngoài nhà trường: ................Trang 13
VI) KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...................................................................Trang 14
VII) KẾT LUẬN : . .............................................................................Trang 16
VIII) ĐỀ NGHỊ...........................................................................................Trang 16
IX) TÀI LIỆU THAM KHẢO.Trang 17
X) MỤC LỤC :...........................................................................................Trang 18
XI) PHIẾU ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI :.........................................................Trang 19
****////*****////****

File đính kèm:

  • docSKKN mot so bien phap GD HS ca biet o lop 91 truong THCS Lam Kiet_12449402.doc
Sáng Kiến Liên Quan