Tiểu luận Nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm văn "Tập viết đoạn đối thoại cho học sinh Lớp 5"

Dạy học là một nghệ thuật, dạy học còn là một quá trình hết sức quan trọng. Đặc biệt, bậc tiểu học là một bậc nền tảng có vai trò quan trọng, tạo những cơ sở ban đầu rất cơ bản bền vững về trí thức, hình thành những đường nét phát triển nhân cách, giúp trẻ có thể tiếp tục học lên bậc học cao hơn.

 Tiếng Việt ở trường tiểu học được dạy và học thông qua tám phân môn (hay bảy loại bài học) khác nhau: Học vần, tập đọc, tập viết, chính tả, luyện từ và câu, kể chuyện, tập làm văn. Phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong việc dạy và học tiếng Việt xét trên hai phương diện:

- Phân môn Tập làm văn tận dụng các hiểu biết và kĩ năng về tiếng Việt do các phân môn khác rèn luyện hoặc cung cấp đồng thời góp phần hoàn thiện chúng. Để làm được một bài văn nói hoặc viết, học sinh phải hoàn thiện cả bốn kĩ năng nói, đọc, viết, nghe ; phải vận dụng các kiến thức về tiếng Việt. Trong quá trình vận dụng này, các kĩ năng và kiến thức đó được hoàn thiện và nâng cao dần.

- Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh kĩ năng sản sinh văn bản (nói và viết). Nhờ vậy tiếng việt không chỉ là một hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ sinh động trong quá trình giao tiếp, tư duy, học tập. Nói cách khác, phân môn Tập làm văn đã góp phần hiện thực hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học tiếng Việt là dạy học sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh học sinh lĩnh hội các tri thức khoa học.

 

doc28 trang | Chia sẻ: duycoi179 | Lượt xem: 10060 | Lượt tải: 3Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm văn "Tập viết đoạn đối thoại cho học sinh Lớp 5"", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó tiết làm văn miệng nhất thiết phải bố trí trước tiết làm văn viết. Quan niệm này quá nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa bài làm văn miệng và bài làm văn viết dự trên quan hệ giữa khẩu ngữ và bút ngữ. Song nó lại không chú ý đến đặc điểm, hoàn cảnh giao tiếp có thể dùng từng dạng lời nói trên. Vì thế không thấy đặc điểm, yêu cầu riêng mang tính chất độc lập tương đối của bài làm miệng đối với bài làm viết và ngược lại. Bài làm miệng không phải chỉ có nhiệm vụ chuẩn bị cho bài làm viết mà nó còn có nhiệm vụ rèn lời độc thoại cho học sinh theo yêu cầu cuẩ đầu bài.
	Cũng từ các hiểu biết về các dạng nói, chúng ta cần có sự suy nghĩ đến một số vấn đề đang đặt ra trong dạy Tập làm văn hiện nay như: rèn luyện lời độc thoại, làm sao có loại đề đưa học sinh vào các hoàn cảnh giao tiếp để rèn luyện lời đối thoại, có phải tất cả các kiểu bài tập làm văn đều cần có bài làm miệng và bài làm viết? (ví dụ, kiểu bài viết thư có nên có bài làm miệng không?).
1.4.Ngữ pháp văn bản và sự ứng dụng vào dạy học Tập làm văn.
	Ngữ pháp văn bản mới được giới thiệu rộng rãi ở nước ta trong vòng hơn một chục năm. Ở đây, ta không nhắc lại những hiểu biết cơ bản của ngữ pháp văn bản mà chú ý đến sự vận dụng các hiểu biết này vào Tập làm văn.
	Để tạo nên một văn bản cần tạo nên sự liên kết cả về hai mặt: liên kết nội dung và liên kết hình thức.
	Sự liên kết nội dung, dù là liên kết chủ đề hay liên kết lôgic, tạo sự nhất quá của văn bản về nội dung. Đây là một trong nhiều phẩm chất tạo nên giá trị của văn bản, tạo nên tác động mạnh mẽ của văn bản đối với người nghe hoặc người đọc. Dạy Tập làm văn không thể không luyện tập kĩ năng này cho học sinh nhằm bảo đảm bài viết hoặc nói của các em là một khối thống nhất, không đầu Ngô mình Sở. Điều cần chú ý là gần đây kĩ năng liên kết nội dung ít được các thầy cô giáo đầu tư thời gian. Để kuyện tập kĩ năng này, sự phân tích mối quan hệ giữa các đề mục trong dàn bài, giữa các đoạn văn trong bài văn có ý nghĩa quan trọng. Sự phân tích vừa nêu sẽ chỉ ra các đoạn văn trong bài, các mục trong dàn bài có sự liên kết với nhau như thế nào. Công việc này có thể tiến hành trong tiết làm dàn bài hay trong tiết trả lời . Hiện tại khi trả bài, việc chữ lỗi sai về từ, câu đôi khi lẫn lướt việc phân tích mối liên kết nội dung của bài băn. Điều đó cần được khác phục.
	Ngữ pháp văn bản còn chỉ ra cả một hệ thống các biện pháp liên kết hình thức trong văn bản. Sự phong phú của các liên kết hình thức giúp ích nhiều cho các nhà giáo. Có thể vận dụng các hiểu biết này trong tiết trả bài để chỉ ra những lỗi của học sinh khi viết câu và đoạn.
	Một ứng dụng khác của ngữ pháp văn bản là vận dụng lý luận về quá trình sản sinh văn bản vào việc xác lập hệ thống kĩ năng làm văn. Theo ngữ pháp văn bản, quy trình sản sinh một văn bản liên kết gồm 4 giai đoạn: định hướng, lập chương trình biểu đạt, hiện thức hóa chương trình biểu đạt và kiểm tra. Vận dụng vào nhà trường, mỗi giai đoạn được thực hiện nhờ một số kĩ năng. Giai đoạn định hướng gồm kĩ năng phân tích đề, giai đoạn lập chương trình biều đạt có các kĩ năng tìm ý, lập dàn ý, giai đoạn hiện thực hóa chương trình đòi hỏi vận dụng các kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn. Giai đoạn kiểm tra cần đến các kĩ năng trong giai đoạn phát hiện lỗi và phát hiện lối. Qua phân tích cho thấy các kĩ năng trong giai đoạn định hướng hiện còn sơ sài, chưa phản ánh hết các mối quan hệ của văn bản với các nhân tố ngoài văn bản. Việc tìm hiểu đề hiện nay mới xoay quanh các câu hỏi: đề yêu cầu viết về cái gì? Trong phạm vi nào?bằng thể loại gì? Các câu hỏi này mới cho thấy hiện thực được nói tới trong văn bản. Còn các nhân tố nhân vật giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp và mục đích giao tiếp của văn bản chưa được đặt ra khi học sinh chuẩn bị làm bài. Vì thế trong mục II A2, ta đã nói đến một kĩ năng mới, kĩ năng xác định mục đích bài văn.
	Để làm rõ đề xuất, trước tiên cần xem xét lại cách ra đề hiện nay. Các đề bài tập làm văn hiện nay được ra rất chung chung, trong đó chỉ nêu rõ đề tài và kiểu bài. Muốn làm bài theo các đề này muốn xác định mục đích cơ bản của bài văn, học sinh phải thực hiện một thao tác quan trọng: chuyển đề bài chung của cả lớp thành đề riêng của cá nhân mình. Đứng trước đề bài hãy tả cái cặp sách của em ở lớp 4, học sinh phải biến đổi đề tài trên thành đề tài riêng của từng em, ví dụ có em nêu đề bài sau: “Cặp của em đã bị hỏng. Hãy tả chiếc cặp đó cho bố mẹ em biết để xin mua chiếc cặp mới”. Có em lại nêu đề bài “Em mới được bố mẹ mua cho một chiếc cặp. Em hãy tả chiếc cặp đó cho bạn bè biết”. Rõ ràng các đề bài riêng của từng em đã thực hiện việc cá thể hóa bài văn, vì nó quy định rõ: mục đích của bài văn là gì, nhân vật đọc bài văn là ai, hoàn cảnh viết bài văn như thế nào. Ở đề bài của em học sinh thứ nhất, bài văn phải làm sao thuyết phục bố mẹ mua cho em chiếc cặp mới vì cặp cũ bị hỏng rồi. Nhân vật giao tiếp (tức người đọc bài văn) là bố mẹ em chứ không phải thầy cô giáo. Và hoàn cảnh viết bài văn lúc chiếc cặp đã hỏng. Đề bài của em học sinh thứ hai có mục đích là giới thiệu chiếc cặp mới cho bạn. Nhân vật giao tiếp (tức người đọc bài văn) là bạn em. Và hoàn cảnh viết bài văn là lúc em có chiếc cặp mới. các yếu tố trên sẽ quyết định cách lựa chọn chi tiết, từ ngữ và giọng điệu bài miêu tả. Từ đầu bài chung đến đầu bài riêng, học sinh phải qua thao tác cá thể hóa đầu bài. Các em phải trả lời các câu hỏi: bài văn viết ra nhằm mục đích gì? Cho ai đọc? Trong hoàn cảnh giao tiếp nào? (theo nghi thức hay tự do, hoàn cảnh không gian và thời gian...). Từ trước đến nay nhà trường chưa đưa kĩ năng này vào giảng dạy. Đó là một thiếu sót. Đã đến lúc chúng ta phải khắc phục thiếu sót này.
1.5.Các kiến thức về loại thể và tác phẩm văn học và sự ứng dụng vào dạy Tập làm văn.
	Các kiến thức về thể loại và tác phẩm văn học đã được trang bị trong môn lí luận văn học. Để có thể dạy tốt các bài tập làm văn ở tiểu học, giáo viên cần vận dụng các tri thức về miêu tả, về kể chuyện (trong đó có các hiểu biết về cốt truyện, chi tiết, nhân vật (cách biểu hiện ngoại hình và nội tâm), về ngôi trong một truyện kể..., về truyện ngắn, truyện dài, về đề tài, chủ đề, tư tưởng, về kết cấu, về ngôn ngữ...Chính các tri thức này góp phần chỉ ra nội dung luyện tập khác nhau của các kĩ năng. Nói cách khác, dựa trên các hiểu biết về lý luận văn học, người giáo viên mới hiểu rõ tính đặc thù của từng kĩ năng trong từng kiểu bài văn. Dạy tìm ý cho văn miêu tả là dạy cách quan sát và ghi chép các nhận xét hoặc hồi tưởng lại các nhận xét đã có. Để làm được điều này, giáo viên phải hướng dẫn để học sinh biết cách vận dụng các giác quan để quan sát, biết cách lựa chọn vị trí và thời gian quan sát, biết cách liên tưởng hoặc tưởng tượng khi nhận xét sự vật... Có hiểu biết về cốt truyện, về ngôi kể, về kết cấu mới có thể hiểu và hướng dẫn được các tiết tìm ý và lập dàn ý trong văn kể chuyện (thực chất là xây dựng cốt truyện, lựa chọn kết cấu và ngôi kể cho câu truyện...)
	Thời gian qua khi xác định cơ sở của phương pháp dạy Tập làm văn ở tiểu học, người ta ít chú ý đến cơ sở lí luận văn học. Đây thực sự là một thiếu sót vì ở tiểu học chủ yếu học các kiểu bài theo phong cách nghệ thuật. Như trên đã trình bày, thiếu sót này có liên quan đến việc nhận thức vị trí của môn học.
2. Cơ sở thực tiễn:
	Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này, tôi đã tiến hành điều tra tìm hiểu trường TH Minh Diệu A.
Trường TH Minh Diệu A thuộc xã Minh Diệu, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu. Trường có tất cả 17 lớp, có 493 học sinh. Với 33 cán bộ, giáo viên, nhân viên được đào tạo qua các hệ như sau:
Tốt nghiệp cử nhân tiểu học: 12 giáo viên.
Đang theo học lớp cử nhân: 7 giáo viên.
Cao đẳng tiểu học: 10 giáo viên.
Trung học sư phạm: 2 giáo viên.
Sơ cấp: 1 giáo viên.
Chất lượng năm học qua là:
*Học lực:
	+ Trên chuẩn: 28%.
	+ Đạt chuẩn: 70%.
	+ Chưa đạt: 2%.
*Hạnh kiểm:
	+ Thực hiện đầy đủ: 100%.
	.
	Trên đây là những thuận lợi nhưng song song bên cạnh đó còn có một số khó khăn, hạn chế sau:
	Đa số dân sống bằng nghề nông, cuộc sống eo hẹp, vất vả quanh năm, quanh quẩn với ruộng đồng và điều kiện đi kại gặp nhiều khó khăn. Trường thuộc vùng sâu vùng xa, sông ngòi chằng chịt, trình độ dân trí thấp, việc quan tâm, chăm sóc, nhắc nhở học sinh còn nhiều hạn chế.
	Qua quá trình rìm hiểu điều tra thực tiễn về hiện trạng giảng dạy, giờ Tập làm văn nói chung ở tiểu học và lớp 5 nói riêng, bằng các hình thức và phương pháp khác nhau: dự giờ, bài trắc nghiệm, phương pháp phỏng vấn, quan sát, Tôi đã thu được một số vấn đề đáng lưu ý:
a. Quan điểm của giáo viên về dạy phân môn Tập làm văn:
	Nhìn chung giáo viên tiểu học đều coi trọng giờ dạy phân môn Tập làm văn.
	Nhưng qua thực tế điều tra cho thấy tất cả hai đối tượng giáo viên và học sinh còn hạn chế trong việc rèn luyện kĩ năng viết, nói. Giáo viên do trình độ không đồng đều, khả năng vận dụng phương pháp mới chưa cao.
	Thông thường khi dạy bài Tập làm văn giáo viên thường có thói quen hướng cho học sinh tìm hiểu và thực hiện theo các yêu cầu của sách giáo khoa, mà không hướng dẫn học sinh phát huy thêm tính tư duy, sáng tạo cho từng học sinh trong lớp. Vả lại còn lựa chọn những nội dung, yêu cầu nhẹ nhàng để dạy.
b. Cách tiến hành dạy phân môn Tập làm văn:
	Qua tìm hiểu thực tiễn giáo viên dạy các lớp 4, lớp 5 đều dựa vào các yêu cầu của sách giáo khoa và từng bài cụ thể mà tiến hành dạy theo trình tự các yêu cầu có sẵn.
c. Những phương pháp giáo viên thường sử dụng trong dạy Tập làm văn:
	Hiện nay, ở trường tiểu học đã sử dụng nhiều phương pháp dạy học tiến bộ như: phương pháp vấn đáp, phương pháp gợi mở, phương pháp trực quan, phương pháp luyện tập, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp sắm vai (đóng vai), Mặc dù phương pháp đã có nhiều cải tiến nhưng nhìn chung giáo viên chưa phối hợp nhịp nhàng các phương pháp trong giảng dạy, còn bám vào sách giáo khoa nhiều và sử dụng một cách máy móc, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh trong giờ học Tập làm văn.
d. Đánh giá kết quả giờ dạy:
	Qua tìm hiểu và dự giờ ở lớp 5 nhìn chung việc dạy Tập làm văn được dạy theo trình tự sau:
1.Kiểm tra bài cũ:
Tùy theo nội dung bài mà giáo viên nêu câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời.
2.Bài mới:
Giới thiệu bài: Từng tiết dạy mà giáo viên giới thiệu bài phù hợp với nội dung dạy, có khi đi thẳng vào vấn đề.
Hướng dẫn: Giáo viên dựa vào yêu cầu của sách giáo khoa mà tiến hành tiết dạy theo trình tự đã có sẵn.
3.Củng cố:
Giáo viên nhận xét chung giờ học, nhắc nhở lại nội dung giờ đã học.
4.Dặn dò – Nhận xét:
Dặn dò học sinh chuẩn bị bài tiết sau.
Nhận xét tiết học (ưu – khuyết điểm).
e. Kết luận:
	Qua thời gian tiến hành tìm hiểu, điều tra thực tiễn, tôi rút ra được một số kết luận sau:
Giờ Tập làm văn có vị trí rất quan trọng ở Tiểu học vì nó tập hợp tất cả 4 kĩ năng học tiếng Việt là nghe, nói, đọc, viết.
Trong giờ Tập làm văn, giáo viên cần sử dụng và phải phối hợp nhịp nhàng các phương pháp, để gây hứng thú học tập cho học sinh, phát huy tính sáng tạo cho học sinh.
Chương 2: Đề xuất và điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy học bài tập viết đoạn đối thoại:
I/. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong giờ Tập làm văn tập viết đoạn đối thoại (Lớp 5).
	Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học. Tôi nhận thấy thực tế dạy học chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu dạy học Tập làm văn ở Tiểu học. Cần phải đổi mới phương pháp dạy học để góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục Tiểu học, phát triển năng lực, sở trường của học sinh, rèn luyện học sinh trở thành những người lao động chủ động, sáng tạo. Vì thế để khắc phục những hạn chế, phát hiện những ưu điểm, tôi xin đưa ra một số biện pháp với mong muốn là có thể nâng cao hiệu quả của tiết Tập làm văn.
1.Công tác chuẩn bị của giáo viên:
a.Rèn luyện kĩ năng phân tích chương trình và sách giáo khoa để thấy được vị trí của bài học trong hệ thống và mức độ, yêu cầu của bài trong mạch kiến thức và kĩ năng cần đạt được trong giờ Tập làm văn. Từ đây, nắm được mục tiêu, yêu cầu của giờ Tập làm văn để lựa chọn nội dung , phương pháp. Giáo viên phải nắm vững kiến thức, tinh thông về nghề nghiệp thì kết quả giảng dạy đạt kết quả cao. Giáo viên tìm thấy mọi điều cần dạy trong sách giáo khoa. Nhưng phải biết lựa chọn và xác định trọng tâm của bài dạy và có phương pháp hợp lý với từng bài học, từng đối tượng học sinh.
b.Gv phải thấu hiểu và nắm chắc nội dung bài học, giúp học sinh xác định mục đích, yêu cầu, nội dung và phương pháp dạy bài Tập làm văn.
c.Chuẩn bị đồ dùng trực quan thiết thực phục vụ cho tiết dạy cũng như sử dụng chúng một cách có hiệu quả. Việc chuẩn bị và sử dụng đồ dùng trực quan đúng lúc sẽ kích thích được sự chú ý của học sinh ngay từ đầu, làm cho tiết học thêm phần sinh động.
2.Sử dụng, phối hợp các phương pháp dạy học phân môn Tập làm văn.
	Giáo viên cần sử dụng nhiều phương pháp một cách linh hoạt để hỗ trợ cho việc giảng dạy đạt kết quả, không có phương pháp nào là vạn năng, mỗi phương pháp có điểm mạnh và điểm yếu của nó. Giáo viên cần nắm vững đặc điểm, yêu cầu của từng phương pháp để vận dụng một cách linh hoạt. Sử dụng nhiều phương pháp làm cho lớp học thêm sinh động, học sinh tiếp thu bài dễ dàng, nhanh chóng và khắc sâu kiến thức.
II/. Đề xuất và điều chỉnh nội dung và phương hướng dạy học các bài tập viết đoạn đối thoại.
	Việc dạy học phân môn Tập làm văn, đặc biệt là dạy các bài: Tập viết đoạn đối thoại cần điều chỉnh một số điểm, để phù hợp với tình hình thực tế của học sinh và cũng để giúp học sinh phát huy hơn trong quá trình học tập.
	Thông thường các bài Tập làm văn Tập viết đoạn đối thoại đều có theo trình tự:
Đọc đoạn trích của truyện.
Viết loại đoạn đối thoại theo các gợi ý.
Phân vai đọc diễn cảm hoặc diễn thử màn kịch.
Để tiết dạy phân môn Tập làm văn các bài Tập viết đoạn đối thoại của chương trình tiểu học (lớp 5) có hiệu quả. Chương trình cần điều chỉnh như sau:
Các câu hỏi yêu cầu trong bài
Điều chỉnh nội dung và phương pháp
Lý do
Câu 1: Đọc đoạn trích của truyện.
-Giữ nguyên nội dung và phương pháp.
-Vì phần này phù hợp với học sinh.
Câu 2: Dựa theo nội dung của đoạn trích trên, em hãy cùng các bạn trong nhóm viết tiếp một số lời đối thoại để hoàn chỉnh màn kịch theo gợi ý.
-Nội dung và phương pháp giữ nguyên nhưng cần điều chỉnh thêm là sau khi học sinh làm việc theo nhóm dựa vào gợi ý viết hoàn chỉnh màn kịch thì cần quy định cho học sinh phân vai đọc lại chứ không phải để đến sang câu hỏi 3 mới yêu cầu phân vai đọc.
-Vì sau khi học sinh hoàn thành màn kịch theo nhóm, phân vai trình bày lại sẽ giúp học sinh nắm vững các lời đối thoại và thuộc lời đối thoại.
Câu 3; Phân vai đọc lại (hoặc diễn thử) màn kịch trên.
-Nội dung này cần điều chỉnh lại là yêu cầu học sinh phân vai diễn lại.
-Vì phần đọc phân vai đã thể hiện ở phần trên. Diễn lại phần này sẽ giúp học sinh hưng phấn hơn, tự tin hơn và thể hiện được phần thành công tiết dạy.
Chương 3: Thực nghiệm dạy học:
I/. Mô tả giờ dạy:
Việc lựa chọn phương pháp giảng dạy cho phù hợp với nội dung của từng hoạt động trong một bài giảng là khâu quan trọng nhất. Vì tùy thuộc vào nội dung của từng phần mà giáo viên lựa chọn biện pháp thực hiện sao cho thích hợp trong bài giảng của mình để làm sao đạt được mục đích cuối cùng của giờ học.
Trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5, tập 2, xin chọn phân môn Tập làm văn bài tập viết đoạn đối thoại để soạn và dạy thực nghiệm.
Quy trình dạy phân môn Tập làm văn bài tập viết đoạn đối thoại lớp 5 như sau:
A-Ổn định tổ chức:
Kiểm tra sĩ số.
Hát ngắn.
B-Kiểm tra bài cũ:
Giáo viên: Yêu cầu học sinh nêu lại dàn ý của bài văn miêu tả đồ vật.
Giáo viên: Kiểm tra đồ dùng học tập của học sinh đã chuẩn bị ở nhà như: quạt giấy, nón lính, mũ quan.
C-Bài mới:
1.Giới thiệu bài:
Giáo viên: mượn từ đối thoại giải nghĩa từ để giới thiệu bài và một số màn kịch đã học ở lớp 4,5.
2.Hướng dẫn học sinh luyện tập.
*Hoạt động 1:
Giáo viên: Cho học sinh đọc lại yêu cầu đoạn trích của truyện Thái sư Trần Thủ Độ.
Giáo viên: Giải nghĩa từ: Thái sư, câu đương, phú nông.
*Hoạt động 2: 
Giáo viên: Cho học sinh nêu yêu cầu 2, giáo viên hướng dẫn, gợi ý học sinh trả lời từng câu gợi ý để hướng học sinh vào biết cách viết đoạn đối thoại.
Hướng dẫn học sinh chia phần gợi ý thành 2 phần để luyện viết.
Yêu cầu học sinh thực hành viết theo nhóm và phân vai trong thời gian viết để khi hoàn thành trên phiếu học tập và trình bày lại.
*Hoạt động 3:
Giáo viên: Yêu cầu học sinh tự phân vai và diễn lại màn kịch.
3.Củng cố - Dặn dò:
Giáo viên: Nhận xét phần diễn kịch và nhận xét chung tiết học, yêu cầu học sinh viết lại đoạn đối thoại.
Để hoàn thành tốt tiết dạy, dưới đây là nội dung giáo án mà tôi tiến hành dạy thực nghiệm.
Giáo án dạy thực nghiệm
Môn: Tập làm văn
Tiết: 50
Bài: Tập viết đoạn đối thoại
II/. Kết quả giờ dạy:
	Sau khi tiến hành dạy thực nghiệm lớp 5C. Tôi đã thu được kết quả như sau: (Thể hiện ở phiếu làm bài của học sinh).
Đa số học sinh trong lớp đều thực hiện hết được đoạn đối thoại theo các gợi ý.
Biết phối hợp phân vai được tốt lại đoạn đối thoại.
Học sinh hăng hái tham gia diễn lại màn kịch và diễn được một cách tự nhiên và thuộc được lời đối thoại.
Từ kết quả đạt được của tiết học mỗi học sinh còn được thực hiện lại bài tập trắc nghiệm, và cũng thu được kết quả sau:
*Thu chấm 10 bài và thu được kết quả:
Tổng số bài: 10 bài.
Bài làm trên chuẩn: 9 bài 90%.
Bài làm đạt chuẩn: 1 bài 10%.
C. PHẦN KẾT LUẬN
	Qua thực tế dạy phân môn Tập làm văn, giáo viên đã sử dụng một số biện pháp, phương pháp phù hợp linh hoạt ở đề tài nêu ra. Nó không đòi hỏi phải tốn nhiều công sức mà chỉ thể hiện ở sự chịu khó nghiên cứu, đưa ra các nội dung bài soạn sao cho phù hợp và thực hiện tiết dạy một cách linh hoạt theo nội dung bài soạn.
	Áp dụng các biện pháp và phương pháp trong quá trình dạy bài Tập viết đoạn đối thoại sẽ tạo nên sự gần gũi giữa giáo viên và học sinh, tạo cho các em lòng tự tin học tập, làm cho lớp thêm phần sinh động. Học sinh hứng thú học tập, tư duy phát triển, hạn chế được số học sinh không tự viết được đoạn đối thoại, quỹ thời gian dành cho tiết học được giáo viên sử dụng triệt để tạo điều kiện tốt để học sinh học tốt môn tiếng Việt đặc biệt là phân môn Tập làm văn, góp phần nâng cao chất lượng môn học. Đó cũng là điều kiện để học sinh học tốt các môn học khác có trong chương trình, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của lớp, của trường.
	Tuy đề tài đã hoàn thành nhưng chắc chắn rằng vẫn còn nhiều thiếu sót, vẫn mong góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng rèn luyện kĩ năng tập viết đoạn đối thoại ở trường tiểu học. Tôi đã mạnh dạn bằng vốn hiểu biết ít ỏi của mình đề xuất một vài ý kiến nhỏ chung quanh vấn đề: Rèn kĩ năng Tập viết đoạn đối thoại những ý kiến đề xuất ấy được thể hiện qua giờ dạy thực nghiệm.
	Muốn có một giờ dạy Tập làm văn tốt, có hiệu quả cần phải đạt các yêu cầu sau:
Luôn luôn học hỏi đồng nghiệp, tự bồi dưỡng kiến thức của mình để nâng cao trình độ chuyên môn.
Giáo viên soạn lại bài Tập làm văn ở sách giáo khoa, vở bài tập thành một phiếu học tập để vừa tận dụng những bài tập tích cực và phù hợp với nội dung bài, phù hợp với trình độ học sinh của lớp dạy.
Chuẩn bị tốt các đồ dùng dạy học phù hợp với tiết học.
Trong giờ học phải lấy học sinh làm trung tâm trong các hoạt động, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh tham gia tích cực, sử dụng triệt để phiếu học tập để phát huy tính tích cực của học sinh.
Biện pháp và phương pháp lúc nào cũng là công cụ, yếu tố con người là quyết định. Cụ thể hóa lòng nhiệt tình, lòng yêu nghề, mến trẻ và năng lực của giáo viên sẽ làm cho giờ dạy ở Tiểu học nói và giờ dạy Tập làm văn nói riêng đạt hiệu quả cao.
Đề tài này được hoàn thiện, song do năng lực bản thân còn hạn chế và thời gian nghiên cứu có hạn, nên chắc chắn những vấn đề đưa ra còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự tận tình những hướng dẫn của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp, để đề tài được hoàn thiện hơn, nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm văn Tập viết đoạn đối thoại cho học sinh lớp 5 nói riêng, học sinh Tiểu học nói chung.
Xin chân thành cảm ơn! 
Minh Diệu , ngày 27 tháng 7 năm 2015
 Người viết
 Lê Thị Thuý

File đính kèm:

  • docSKKN_tap_lam_van_lop_5.doc
Sáng Kiến Liên Quan