Tham luận Tạo hứng thú học tập cho học sinh trong tiết dạy Ngữ văn

Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn hiện nay đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Phương pháp dạy học đổi mới chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho học sinh ham thích môn học. Điều 24, luật giáo dục (do Quốc hội khoá X thông qua) cũng đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn.

Từ nhiều năm nay, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát triển hứng thú học văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ văn là làm sao gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Ai đó đã nói rằng: “Dù có dắt ngựa đến bờ sông cũng không thể bắt nó uống nước được”. Vấn đề học tập của trẻ cũng vậy. Dù có bắt được chúng ngồi ngay ngắn học tập nhưng nếu không thích thú, trẻ không thể học tốt được. Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở THCS nhiều năm, tôi nhận thấy muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài việc truyền đạt kiến thức, tôi nghĩ rằng mình cần phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động; học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Từ đó mới phát huy thực sự tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh.

 Tôi xin đề cập đến một số biện pháp nhằm khơi gợi hứng thú học tập của học sinh trong tiết học Ngữ văn ở THCS nói chung và tiết học Ngữ văn trường học mới nói riêng.

 

doc5 trang | Chia sẻ: Hải Thượng | Ngày: 04/05/2023 | Lượt xem: 688 | Lượt tải: 0Download
Bạn đang xem tài liệu "Tham luận Tạo hứng thú học tập cho học sinh trong tiết dạy Ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THAM LUẬN 
TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH TRONG TIẾT DẠY NGỮ VĂN
A- ĐẶT VẤN ĐỀ
 Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn hiện nay đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Phương pháp dạy học đổi mới chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho học sinh ham thích môn học. Điều 24, luật giáo dục (do Quốc hội khoá X thông qua) cũng đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn.
Từ nhiều năm nay, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát triển hứng thú học văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ văn là làm sao gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Ai đó đã nói rằng: “Dù có dắt ngựa đến bờ sông cũng không thể bắt nó uống nước được”. Vấn đề học tập của trẻ cũng vậy. Dù có bắt được chúng ngồi ngay ngắn học tập nhưng nếu không thích thú, trẻ không thể học tốt được. Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở THCS nhiều năm, tôi nhận thấy muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài việc truyền đạt kiến thức, tôi nghĩ rằng mình cần phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động; học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Từ đó mới phát huy thực sự tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh.
 Tôi xin đề cập đến một số biện pháp nhằm khơi gợi hứng thú học tập của học sinh trong tiết học Ngữ văn ở THCS nói chung và tiết học Ngữ văn trường học mới nói riêng.
II- CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ VẬN DỤNG
A. Biên pháp tạo hứng thú trong tiết dạy văn
1 - Tạo hứng thú cho học sinh thông qua việc tạo tâm thế học văn. 
 1.1. Thế nào là tạo tâm thế cho học sinh trong học văn.
	“Tạo tâm thế” cho học sinh trong giờ đọc - hiểu văn bản Văn học thực chất là việc giáo viên tạo cho HS một tư thế vững vàng, một tâm lý thoải mái, một xúc cảm, hứng thú và một tâm hồn đam mê khi tiếp cận một tác phẩm văn học cụ thể. Vì Văn học là môn học gắn với cái đẹp. Học Ngữ văn là học cách khám phá cái đẹp của tự nhiên, cái đẹp của xã hội và của con người, cái đẹp của sự sáng tạo nên không chỉ dùng lí trí mà quan trọng hơn là phải giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp ấy bằng cả tâm hồn và sự rung động của trái tim.
   	Để tạo được tâm thế cho trò thì trước hết giáo viên phải biết tạo cho mình một tâm trạng thoải mái, nhẹ nhàng, một tình cảm thân thiện, gần gũi hoà đồng với học trò. Muốn vậy, giáo viên vừa phải căn cứ vào mỗi bài dạy để tìm ra hình thức “tạo tâm thế” phù hợp, vừa phải biết nén lòng quên đi những vướng bận lo toan, nhọc nhằn của cuộc sống đời thường, giấu đi những giọt nước mắt, những nỗi buồn. Bước lên bục “văn” với các em là chúng ta phải có cảm giác bước vào một thế giới hoàn toàn mới lạ, tràn đầy hưng phấn, thiết tha với sứ mệnh thiêng liêng, cao cả là người đưa đường, mở cửa dẫn các em hoà vào vương quốc của cái đẹp, để được cười, được khóc không chỉ cho mình mà cho cả giai cấp mình, dân tộc mình, cho những thân phận, số phận đau khổ trên trái đất, giống như những lời thơ của tác giả Việt Nga:
“Giờ văn nụ cười, nước mắt
 Nghẹn ngào, thanh thản đan xen
Thầy đau nỗi niềm dâu bể
 Trò day dứt cùng thế nhân”.
   	Như thế trong suốt giờ Văn, người thầy phải biết quên mình để sống với Văn, với học trò, để cùng các em say sưa đi vào lĩnh hội tri thức một cách có hiệu quả. Người dạy Văn không chỉ là nhà khoa học, nhà sư phạm mà còn là một nghệ sĩ trên bục giảng.
    	Thông thường trong một tiết đọc - hiểu văn bản, không phải lúc nào HS cũng có thể tập trung chú tâm vào bài học, đặc biệt là những tác phẩm dài và khó. Song tôi đã thu hút, hướng HS vào bài học bằng cách kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới, đặt ra những câu hỏi có vấn đề, liên tưởng, so sánh mở rộng vấn đề trong bài học, phát huy khả năng sáng tạo của HS qua giao bài tập, trực tiếp kiểm tra, đánh giá
2 - Tạo hứng thú cho học sinh thông qua hoạt động đọc diễn cảm. 
 2.1 Đọc diễn cảm trong dạy văn. 
 Con đường đi vào tác phẩm văn học nhất thiết là từ đọc. Đọc là một hình thức đặc thù có tính đặc thù của nhận thức văn học.Đọc sẽ kích thích quátrình tâm lý cảm thụ, tri giác tưởng tượng , xúc cảm, đưa người đọc vào thế giới của tác phẩm tạo nên trạng thái tâm lý cần có cho người đọc, người nghe.
 Thực tế có nhiều giáo viên thất bại trong giờ dạy văn vì chưa phát huy được sức mạnh của nghệ thuật đọc diễn cảm, giờ học khô khan thiếu cảm xúc nặng về diễn giải. Vì vậy mà đọc diễn cảm gắn bó trong suốt quá trình giảng văn làm cho giờ giảng văn trở thành một công việc tâm tình , một cuộc trao đổi thực sự về cuộc sống không còn là một cuộc lí luận về chính trị.
 Đọc tác phẩm văn học là đọc cho sáng rõ ý nghĩ, tình cảm thái độ của nhà văn. Bằng sức mạnh riêng của việc đọc diễn cảm, người giáo viên dẫn dắt học sinh vào thế giới của tác phẩm văn học một cách dễ dàng, phù hợp với qui luật cảm thụ văn học. Hướng dẫn học sinh đọc đúng giọng điệu của nhà văn là thể hiện được cung bậc cảm xúc của tác giả, tính đối thoại nội tâm trong ngôn ngữ tác phẩm.
 	2.2- Các hoạt động đọc diễn cảm trong dạy văn.
 a. Đọc diễn cảm của thầy.
Việc đọc diễn cảm của thầy có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc hướng dẫn học sinh xâm nhập cảm thụ tác phẩm văn học, người thầy xâm nhập vào tác phẩm qua việc cảm thụ và đọc diễn cảm. Từ những kiến thức có được, thầy giáo lựa chọn những kiến thức cần thiết cho sự hiểu đúng và sự thể hiện tác phẩm hay đoạn văn, bài thơ mà mình sẽ đọc. Khi đọc người thầy phải cố gắng để đạt được mức tối đa mức độ đọc . Như vậy người thầy phải có sự chuẩn bị kỹ ở nhà để trên lớp trước học sinh người thầy sẽ là một chuẩn mực cho học sinh, thầy phải đọc đúng, đọc hay, thật diễn cảm, bộc lộ được cảm xúc của nhà văn . Người thầy có thể có nhiều hình thức hướng dẫn học sinh đọc : Đọc mẫu, hướng dẫn học sinh đọc , vừa đọc, vừa bình, vừa tóm tắt tác phẩm, đọc phân vai
 	b. Đọc diễn cảm của trò.
 Trong giờ học văn người học sinh cần phải có kiến thức về nghệ thuật đọc. Thông qua đọc, học sinh có thể dễ dàng tìm hiểu được giá trị của tác phẩm văn học. Học sinh ở THCS có tâm lý dễ tiếp thụ, dễ xúc cảm, hồn nhiên và dễ tin.Tư duy của học sinh mang tính cụ thể và hiểu nên dễ cho việc đọc diễn cảm đồng thời giúp cho người thầy dễ khêu gợi những cảm xúc của các em, kích thích các em đọc một cách thích thú.
 Là trả lại hoàn toàn đúng nội dung văn bản. Đọc đúng là giải quyết kỹ năng , năng lực ngôn ngữ cho học sinh, là không được sai văn bản, là quá trình tri giác chính xác văn bản.
 	3 - Tạo hứng thú cho học sinh bằng đàm thoại
 3.1 Đàm thoại là gì?
 Phương pháp đàm thoại là pp mà GV căn cứ vào nội dung bài học khéo léo đặt ra câu hỏi, để HS căn cứ vào kiến thức đã có kết hợp với sự hướng dẩn của GV qua các thiết bị giảng dạy để làm sáng tỏ vấn đề
 3.2 Các dạng đàm thoại.
 a. Đàm thoại tái hiện.
 GV đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu HS nhớ lại kiến thức đã biết và trả lơì dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Đó là hình thức được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa kiến thức đã học với kiến thức sắp học hoặc khi cần củng cố kiến thức vừa mới học.
 b. Đàm thoại gợi mở.
 GV dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để dẫn dắt HS từng bước phát hiện ra bản chất của vấn đề tính quy luật của vấn đề đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết.
4 - Tạo hứng thú cho học sinh bằng việc ứng dụng CNTT: 
 4.1 Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Ngữ văn
  Ứng dụng CNTT không đồng nhất với đổi mới phương pháp dạy học (PPDH). CNTT chỉ là phương tiện tạo thuận lợi cho triển khai PPDH tích cực, chứ không phải là điều kiện đủ của PPDH này. Để một giờ học có ứng dụng CNTT là một giờ học phát huy tính tích cực của HS, thì điều kiện tiên quyết là việc khai thác CNTT phải đảm bảo các yêu cầu và tính đặc trưng của PPDH tích cực mà GV lựa chọn. 
4.2 Ứng dụng công nghệ thông tin đối với từng dạng bài
 - Sử dụng công nghệ thông tin để cung cấp kiến thức về tác giả tác phẩm là rất tốt.
 Ví dụ: Khi dạy Lão Hạc chúng ta có thể cung cấp cho học sinh những hiểu biết về nhà văn Nam Cao, tác phẩm nổi tiếng của ông.
 - Sử dụng công nghệ chiếu những đoạn văn cần phân tích.
 Ví dụ khi phân tích nhân vật lão Hạc ta sử dụng máy chiếu để chiếu đoạn văn miêu tả lão Hạc “lão cố làm ra vẻ vui vẻ nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão mà oà lên khóc. Bây giờ thì tôi không xót xa năm quyển sách của tôi quá như trước nữa. Tôi chỉ ái ngại cho lão. Tôi hỏi cho có chuyện: 
 - Thế nó cho bắt à? 
 Mặt lão đột nhiên co rúm lại. những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...”
 - Ứng dụng công nghệ thông tin giúp học sinh nắm vững và kể được nội dung câu chuyện đối với các văn bản ở lớp 6
 5- Tạo hứng thú cho học sinh bằng việc tổ chức các trò chơi:
 5.1 Tổ chức trò chơi trong dạy Ngữ văn 
 Trò chơi trong văn học hay còn gọi là sân chơi lành mạnh bổ ích. Đó là việc tổ chức cho học sinh thi trả lời bằng những hoạt động vui chơi giải trí nhằm giáo dục toàn diện học sinh và củng cố rèn luyện kĩ năng phát triển óc tư duy linh hoạt sáng tao.
 5.2 Thiết kế nội dung trò chơi:
	Như đã xác định mục đích, ý nghĩa của trò chơi, chúng ta nên tổ chức trò chơi vào phần củng cố bài là hợp lý nhất. Vì vậy, nội dung trò chơi phải nhằm củng cố, khắc sâu trọng tâm của bài dạy. Xây dựng nội dung của trò chơi phải đảm bảo những yêu cầu sau:
	- Đảm bảo yêu cầu phổ cập: nghĩa là đa phần các bài tập trong trò chơi phải có mức độ vừa phải, đủ để học sinh bình thường có thể giải quyết được trong thời gian ngắn. Đồng thời, có nhiều bài tập để nhiều học sinh tham gia.
	- Có yếu tố sáng tạo: trong trò chơi nên có 01 bài tập (hoặc 01 ý) trở lên có nội dung sáng tạo. Để giải quyết những bài tập này học sinh phải vận dụng những kiến thức một cách có hệ thống hơn, linh hoạt hơn, sáng tạo hơn.
	- Nội dung trò chơi phải được phân cách thành những yêu cầu, những đơn vị kiến thức, mỗi bài tập đó với từng cá nhân học sinh.
	- Nội dung trò chơi nên thể hiện trong nhiều dạng bài tập, nhiều hình thức thể hiện khác nhau (tùy theo mỗi dạng bài dạy, mỗi tiết dạy, mỗi khối lớp). Ví dụ điền vào chỗ trống, ô trống, dùng vạch nối tương ứng để tạo thành cặp liên kết đúng, điền trắc nghiệm đúng sai, điền kết quả v.v
 Khi thiết kế nội dung một trò chơi ta có thể lấy nội dung bài học hoặc một bài tập thuộc trọng tâm bài trong sách giáo khoa. Sau đó, bằng sự “chế biến” của mình chúng ta sẽ có nhiều đơn vị kiến thức, nhiều bài tập tương tự ở mức độ phổ cập.
IV- NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN BỎ NGỎ
Trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu tôi thấy rằng nói về phương pháp dạy học Văn trong nhà trường là một vấn đề rất rộng lớn mà trong phạm vi một tham luận không thể nào nói hết được. Để tạo hứng thú học tập cho học sinh khi học hình ở THCS có rất nhiều những biện pháp khác nhau mà mỗi người giáo viện có thể áp dụng . 

File đính kèm:

  • doctham_luan_tao_hung_thu_hoc_tap_cho_hoc_sinh_trong_tiet_day_n.doc
Sáng Kiến Liên Quan