SKKN Thiết kế và sử dụng sơ đồ trong dạy học phần Địa lí tự nhiên, Địa lí dân cư Việt Nam – chương trình Lớp 12
Yêu cầu và kỹ thuật xây dựng sơ đồ
Mỗi sơ đồ sử dụng trong quá trình dạy học Địa lí cần đảm bảo:
- Tính khoa học: nội dung sơ đồ phải bám sát nội dung của bài học, các mối quan hệ phải là bản chất, khách quan chứ không phải do người xây dựng sắp đặt. Sơ đồ phải sử dụng phù hợp với nội dung, kiểu bài và đối tượng cần nghiên cứu. Sơ đồ phải đảm bảo tính lôgic, chính xác mặt kiến thức.
- Tính sư phạm: sơ đồ phải có tính khái quát hóa cao, qua sơ đồ học sinh có thể nhận thấy ngay các mối quan hệ khách quan, biện chứng giữa các đối tượng và hiện tượng Địa lí.
- Tính thẩm mĩ: bố cục của sơ đồ phải hợp lí, cân đối, nổi bật trọng tâm và các nhóm kiến thức, có thể dùng màu sắc để làm rõ và dùng hình ảnh để minh họa bổ sung thêm cho kiến thức trong sơ đồ.
Khi thiết kế sơ đồ, giáo viên cần nghiên cứu nội dung chương trình giảng dạy, lựa chọn ra những bài, những phần có khả năng áp dụng phương pháp sơ đồ có hiệu quả nhất. Tiếp theo giáo viên phân tích nội dung bài dạy, tìm ra những khái niệm cơ bản, khái niệm gốc cần truyền đạt, hình thành. Việc xây dựng sơ đồ có thể khái quát qua những bước sau:
- Bước 1: Lựa chọn nội dung, đơn vị kiến thức trong bài học có thể xây dựng sơ đồ phù hợp. Phần kiến thức được chọn phải cơ bản, tối thiểu và vừa đủ, mã hóa các kiến thức đó một cách ngắn gọn, cô đọng, xúc tích nhưng phải phản ánh được nội dung cần thiết (có thể sử dụng hình tượng trưng).
- Bước 2: Thiết lập sơ đồ với những nội dung đã lựa chọn ở bước 1.
- Bước 3: Hoàn thiện, kiểm tra lại tất cả các công việc đã thực hiện. Điều chỉnh sơ đồ phù hợp với nội dung bài học đảm bảo tính thẩm mĩ và khái quát, dễ hiểu.
Đối với sơ đồ cấu trúc:
- Phù hợp với nội dung kiến thức lớn, bao gồm nhiều đơn vị kiến thức nhỏ, cần có sự khái quát hóa. Với đặc điểm này, nên sơ đồ cấu trúc thường được sử dụng trong phần khởi động giới thiệu bài mới, trong quá trình học bài mới hoặc kiểm tra kiến thức bài cũ.
- Sơ đồ cấu trúc thường có dạng hình tháp, cấu tạo gồm có các đỉnh và các cạnh. Đỉnh là đơn vị kiến thức lớn nhất, có thể là một khái niệm, một thuật ngữ, một địa danh trên lược đồ (hoặc bản đồ), hoặc thậm chí là kí hiệu tượng hình/tượng trưng.nhưng đó phải là nội dung chính, tổng quát. Cạnh là các đơn vị kiến thức cụ thể, chi tiết; càng nhiều đơn vị kiến thức thì chân tháp càng rộng. Các cạnh nối với đỉnh bởi các đoạn thẳng (có hướng hoặc vô hướng), hoặc biểu hiện tượng trưng hình dáng của sự vật, hiện tượng.
- Trong khi thiết kế phải hình thành rõ mạch chính, mạch nhánh của sơ đồ, mối quan hệ nhân quả, mối quan hệ tác động hoặc sự liên kết các đơn vị kiến thức trên sơ đồ.
trong nhóm, các thành viên đều suy nghĩ tập trung vào một vấn đề chung cần giải quyết, tránh được hiện tượng lan man và đi lạc chủ đề. Mọi thành viên đều đóng góp ý kiến và cùng nhau xây dựng nên sơ đồ tư duy của cả nhóm. Chỉ cần nhìn vào sơ đồ tư duy, bất kỳ thành viên nào của nhóm cũng có thể thuyết trình được nội dung bài học. Sơ đồ tư duy cung cấp cho ta cái nhìn chi tiết và cụ thể. Khi mọi người tập trung vào chủ đề ở giữa thì bộ não của mỗi thành viên đều hướng tới trọng tâm tạo nên sự đồng thuận tập thể, cùng hướng tới một mục tiêu chung và định hướng được kết quả. Như vậy sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học nhóm đã phát huy được tính sáng tạo, tối đa hoá khả năng của mỗi cá nhân đồng thời kết hợp sức mạnh cá nhân thành sức mạnh tập thể để có thể giải quyết được các vấn đề một cách hiệu quả. Sơ đồ tư duy tạo cho mỗi thành viên cơ hội được giao lưu học hỏi và phát triển chính mình một cách hoàn thiện hơn. v Sự kết hợp giữa dạy học bằng sơ đồ với dạy học theo nhóm có thể diễn ra theo các bước như sau: Bước 1: Giáo viên nêu vấn đề và xác định nhiệm vụ nhận thức cho HS, có thể là lập sơ đồ của cả một bài học hay của một phần bài học Bước 2: Giáo viên phân chia học sinh trong lớp theo các nhóm nhỏ, có thể chia nhóm ngẫu nhiên hay chia nhóm chủ định tùy thuộc vào mức độ nhận thức và trình độ của học sinh. Số lượng thành viên trong nhóm tùy thuộc vào nội dung kiến thức cần trình bày bằng sơ đồ là ít hay nhiều (một phần hay toàn bộ bài học). Việc giao nhiệm vụ cho từng nhóm cũng có thể tiến hành theo nhiều cách: + Nhóm đồng việc: Các nhóm lập sơ đồ cùng một nội dung kiến thức bằng nhiều hình thức khác nhau. + Nhóm chuyên sâu: Một bài học có thể xây dựng sơ đồ. Gáo viên có thể chia các nhóm xây dựng các sơ đồ tư duy với nội dung khác nhau. Ví dụ có thể chia lớp làm 6 nhóm, hai nhóm cùng lập sơ đồ của một nội dung kiến thức trong bài, sau đó giáo viên nhận xét, so sánh hai nhóm với nhau. - Bước 3: Mỗi nhóm cử ra một nhóm trưởng và thư kí. Nhóm trưởng có nhiệm vụ phân công, tổng kết các ý kiến đóng góp và thuyết trình trước lớp, thư kí có nhiệm vụ ghi chép lại quá trình làm việc và sản phẩm cuối cùng. Trong hoạt động nhóm, nhóm trưởng có vai trò hết sức quan trọng nhằm dẫn dắt buổi thảo luận đi đúng hướng, khuyến khích mọi thành viên tham gia và tránh tranh cãi cá nhân để đúc rút và tổng kết cuối cùng. Vì thế, việc chọn nhóm trưởng có thể do giáo viên gợi ý, thường là các học sinh khá giỏi trong lớp, có khả năng làm việc và tư duy logic. - Bước 4: Các nhóm tiến hành thảo luận, có thể thảo luận chung toàn nhóm hoặc làm việc cá nhân sau đó tổng hợp kết quả. - Bước 5: Đại diện nhóm lên trình bày kết quả trước lớp, các nhóm khác tranh luận, đặt câu hỏi và giáo viên là người đánh giá, tổng kết, rút ra kết luận cuối cùng. (Hình ảnh đại diện các nhóm trình bày kết quả trước lớp) (Hình ảnh đại diện các nhóm trình bày kết quả trước lớp) 7.1.5.3. Sử dụng sơ đồ kết hợp với phương pháp đàm thoại Phương pháp đàm thoại là phương pháp mà giáo viên khéo léo đặt hệ thống câu hỏi để học sinh trả lời nhằm gợi mở cho học sinh sáng tỏ những vấn đề mới, tự khai phá tri thức mới bằng việc tái hiện những tài liệu đã học hoặc từ kinh nghiệm tích lũy được từ cuộc sống; giúp học sinh củng cố, mở rộng, đào sâu kiến thức, hệ thống hóa tri thức đã tiếp thu được. Căn cứ vào mục đích sư phạm và tính chất nhận thức của người học, có thể chia ra nhiều loại đàm thoại như đàm thoại gợi mở, đàm thoại củng cố, đàm thoại kiểm tra, đàm thoại tái hiện, đàm thoại giải thích minh họa, đàm thoại tìm tòi phát hiện Nhưng phương pháp thường được giáo viên sử dụng nhiều trong các giờ học là phương pháp đàm thoại gợi mở. Phương pháp đàm thoại nếu được sử dụng khéo léo sẽ có tác dụng kích thích tính tích cực độc lập sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng năng lực diễn đạt các vấn đề khoa học bằng lời nói, bồi dưỡng hứng thú học tập làm không khí lớp học sôi nổi. Khi kết hợp việc sử dụng sơ đồ với phương pháp đàm thoại, điều quan trọng nhất là việc đặt câu hỏi và tổ chức, điều khiển việc trả lời của học sinh; đặc biệt đối với học sinh lớp 12 thì cần phải có những câu hỏi giải quyết mâu thuẫn giữa các sự vật hiện tượng, câu hỏi vận dụng trong các tình huống khác nhau. 7.1.5.4. Sử dụng sơ đồ kết hợp với phương pháp khai thác bản đồ, biểu đồ v Đối với môn Địa lí, bản đồ được coi là yếu tố thiết yếu, là điểm khởi đầu và kết thúc khi học tập và nghiên cứu Địa lí. Về mặt phương pháp, bản đồ được coi là phương tiện trực quan giúp học sinh khai thác, củng cố tri thức và phát triển tư duy trong quá trình học tập. Khi sử dụng bản đồ kết hợp với sơ đồ trong dạy học Địa lí, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh thực hiện theo hai cách: - Cách 1: Giáo viên có thể yêu cầu học sinh lập một sơ đồ dựa vào kiến thức SGK hoặc hiểu biết của bản thân về vấn đề đang được học, sau đó trong quá trình giáo viên chuẩn xác kiến thức và bổ sung, sửa chữa sơ đồ thì có thể minh họa bằng việc cho học sinh đọc bản đồ treo tường hoặc bản đồ trong SGK hay Atlat Địa lí. - Cách 2: Để phát huy tính tích cực của học sinh trong việc chủ động tiếp thu kiến thức, kĩ năng Địa lí, đồng thời rèn luyện cho các em kĩ năng làm việc với bản đồ như hiểu, đọc, vận dụng bản đồ thì giáo viên có thể yêu cầu học sinh quan sát bản đồ trước, từ đó lập một sơ đồ với những gì các em quan sát được. Sau cùng, giáo viên sẽ là người giúp các em chuẩn xác lại kiến thức và thành lập được sơ đồ hoàn chỉnh theo ý tưởng của các em. Hình ảnh học sinh trình bày sơ đồ tư duy kết hợp với nhận xét bản đồ v Bên cạnh sử dụng bản đồ thì việc hiểu và phân tích các biểu đồ cũng rất cần thiết trong quá trình hình thành kĩ năng cho học sinh. Thường thường, giáo viên thường cho học sinh sử dụng các loại biểu đồ với hai hình thức: - Thứ nhất: sử dụng các biểu đồ có sẵn trong sách giáo khoa, yêu cầu học sinh phân tích, nhận xét và giải thích các hiện tượng thể hiện trong biểu đồ. Với hình thức này, giáo viên vừa có thể dùng biểu đồ làm phương tiện minh họa cho kiến thức cần khắc sâu. - Thứ hai: giáo viên có thể yêu cầu học sinh xử lí số liệu và xây dựng các biểu đồ. Cùng một bảng số liệu, tùy theo yêu cầu kiến thức mà có thể xây dựng nhiều loại biểu đồ khác nhau. Hình thức này thường được giáo viên sử dụng trong các tiết học thực hành, các bài kiểm tra trên lớp hoặc bài tập về nhà. Sau khi đã xây dựng được biểu đồ, học sinh căn cứ vào biểu đồ và bảng số liệu để đưa ra bảng nhận xét, phân tích thích hợp. 7.1.6. Sử dụng sơ đồ trong kiểm tra, đánh giá 7.1.6.1. Sử dụng sơ đồ trong kiểm tra bài cũ Thời gian kiểm tra bài cũ lúc đầu giờ không có nhiều chỉ khoảng 5 - 7 phút nên yêu cầu của giáo viên thường không quá khó, không đòi hỏi nhiều sự phân tích, so sánh để trả lời câu hỏi. Giáo viên thường yêu cầu học sinh tái hiện lại một phần nội dung bài học và chấm điểm tùy vào mức độ thuộc bài của học sinh. Cách làm này vô tình để nhiều học sinh rơi vào tình trạng học vẹt, đọc thuộc lòng mà không hiểu. Sử dụng sơ đồ vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học sinh đối với bài học cũ. (Hình ảnh học sinh đang trình bày bài cũ bằng sơ đồ tư duy và vở ghi của học sinh chuẩn bị trong quá trình ôn bài ở nhà) 7.1.6.2. Kiểm tra kết quả sau một quá trình học tập (kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết, kiểm tra học kì) Trong cách thức ra đề và đánh giá học sinh của giáo viên vẫn còn một số hạn chế như: vẫn nặng về câu hỏi mang tính chất học thuộc lòng, giáo điều và yêu cầu học sinh tái hiện kiến thức đã được giáo viên cho ghi chép trước đó, nếu có kiến thức mở rộng thì thường suy nghĩ của học sinh bị bó hẹp do thời gian còn hạn chế và thậm chí có em không viết kịp trong thời gian 45 phút. Điều này dẫn đến các em cảm thấy quá tải trong các bài kiểm tra và vì thế khi đánh giá học sinh qua các bài kiểm tra này thường chưa thấy hết được khả năng của các em mà mới chỉ đánh giá phiến diện một phần. Khi sử dụng sơ đồ để kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh trong cả một quá trình, giáo viên vừa có thể đánh giá khả năng ghi nhớ kiến thức của học sinh, vừa thấy được tư duy sáng tạo của các em, khả năng tư duy logic, mức độ hiểu và phân tích các vấn đề địa lí qua cách các em thiết kế sơ đồ theo cách hiểu của mình. (Hình ảnh học sinh trình bày sơ đồ tư duy để ôn tập chuyên đề “Vấn đề sử dụng và bảo vệ tự nhiên”- bài 14+15) (Hình ảnh học sinh trình bày sơ đồ tư duy để ôn tập chuyên đề “Địa lí dân cư” bài 16+17+18) Ví dụ: Giáo viên có thể đặt ra câu hỏi “Hãy Trình bày và giải thích ý nghĩa của vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ nước ta bằng Sơ đồ tư duy?”. Để trả lời câu hỏi này đòi hỏi học sinh cần nhớ, hiểu và phân tích kiến thức đã học trong bài 2: “Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ”. Nếu giáo viên yêu cầu học sinh viết ra bảng thông thường, có thể các em sẽ mất thời gian và gặp rắc rối trong việc diễn đạt. Nếu bài học có nhiều kiến thức, giáo viên có thể yêu cầu 2 hoặc 3 học sinh vẽ sơ đồ tư duy, mỗi em vẽ một nhánh. Trong trường hợp không có nhiều thời gian, giáo viên có thể yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ tư duy ở nhà, khi lên lớp nộp lại cho giáo viên và trình bày ngắn gọn trước lớp. 7.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến - Sáng kiến được áp dụng ở trường THPT Nguyễn Viết Xuân trong dạy học môn Địa lí 12, chủ đề Địa lí tự nhiên và Địa lí dân cư Việt Nam. - Sáng kiến có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên trong giảng dạy môn Địa lí 12 ở các trường THPT, học sinh có thể nghiên cứu để hình thành kĩ năng, phương pháp học tập tốt hơn thông qua sơ đồ. - Có thể vận dụng cách thiết kế sơ đồ vào việc giảng dạy các chuyên đề khác của chương trình Địa lí 12, (như: địa lí các ngành kinh tế, địa lí các vùng kinh tế, địa lí địa phương), hoặc nhân rộng cho chương trình Địa lí 10, 11. 8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến Để sáng kiến này được vận dụng rộng rãi vào thực tiễn cần có sự phối kết hợp giữa các tổ chức trong nhà trường: 9.1. Đối với Ban giám hiệu - Tăng cường đề xuất đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất (đồ dùng tối thiểu: sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu tham khảo..., đồ dùng dạy học hiện đại: màn hình, máy chiếu, phòng học bộ môn...) để giáo viên và học sinh được dạy học trong điều kiện tốt nhất. - Tổ chức tham quan, bồi dưỡng kiến thức thực tế cho học sinh, tạo hứng thú học tập và tăng cường khả năng tự học của học sinh, phát triển năng lực tư duy theo lãnh thổ. - Chỉ đạo quyết liệt hơn nữa việc đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh, tạo điều kiện để học sinh được rèn luyện các năng lực: tự học, giải quyết vấn đề, sáng tạo, hợp tác, sử dụng hình vẽ, sơ đồ, tranh ảnh, video, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông... 9.2. Đối với giáo viên - Cần nắm vững lí thuyết về sơ đồ và các nguyên tắc khi thiết kế và sử dụng nó, điều đó mới có thể giúp chúng ta tránh được những sai sót trong quá trình hướng dẫn học sinh thực hiện. - Phải nắm vững chương trình học, có kiến thức chuyên môn và thực tế để tích hợp, khái quát tạo thành sơ đồ. - Giáo viên phải vận dụng thường xuyên và linh hoạt vào các bài cụ thể để đạt được hiệu quả dạy học cao nhất. Luôn phát huy tối đa năng lực tự học, tự lĩnh hội kiến thức của học sinh và sức sáng tạo của các em để học sinh học tập tích cực, chủ động. Đó là cơ sở để đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực và phù hợp với xu thế hiện nay. - Không ngừng trau dồi kiến thức và kĩ năng, đặc biệt là khả năng ứng dụng và sử dụng thành thạo công nghệ thông tin, kĩ năng sử dụng các trang thiết bị dạy học hiện đại.... - Trong quá trình soạn giáo án, việc xây dựng sơ đồ và nội dung lên lớp là công việc rất quan trọng. Tùy vào mục đích bài học cũng như mục đích dạy mà giáo viên thiết kế sơ đồ một cách hợp lí, khoa học. - Giáo viên cần duy trì sử dụng sơ đồ thường xuyên hơn để học sinh làm quen với PPDH mới, giúp học sinh có được tư duy mạch lạc, logic tránh bị động. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần phải tránh tình trạng lạm dụng sơ đồ quá mức và tránh mang tính hình thức. - Cần chú trọng phần hướng dẫn học sinh tự học qua hệ thống câu hỏi. - Tạo điều kiện để học sinh được tham gia vào quá trình kiểm tra, đánh giá. Lắng nghe ý kiến phản hồi từ học sinh để điều chỉnh hoạt động Dạy - Học. 9.3. Đối với học sinh Để phương pháp sử dụng sơ đồ trong dạy học Địa lí có hiệu quả thì một mình sự nỗ lực của giáo viên thôi chưa đủ. Mà bên cạnh đó cần phải có sự cố gắng của học sinh. Do vậy yêu cầu đặt ra với người học là: - Người học phải trở thành chủ thể của hành động, tích cực, tự giác, chủ động đón nhận tri thức mới. - Người học phải thực sự hoạt động để không chỉ tiếp thu tri thức, kĩ năng của bộ môn mà quan trọng hơn hết là tiếp thu được cách học. - Có ý thức, năng lực tự thiết kế sáng tạo các sơ đồ trên lớp, trong việc học tập ở nhà và trong ôn tập, hệ thống kiến thức một cách thuần thục. - Vận dụng linh hoạt kiến thức về sơ đồ để áp dụng trong nhiều môn học khác nhau chứ không bó hẹp trong phạm vi môn Địa lí. 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến Việc sử dụng sơ đồ vào dạy học đã được tôi tiến hành thực nghiệm trên đối tượng là học sinh lớp 12 tại trường THPT A năm học 2018 – 2019. - Lớp thực nghiệm: 12D1, 12D2, 12D5 tổng số 120 học sinh: sử dụng phương pháp sơ đồ hóa kiến thức trong quá trình dạy học. - Lớp đối chứng: 12D3, 12D4, 12A1 tổng số 124 học sinh: sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống trong quá trình dạy học. Kết quả dựa trên các bài kiểm tra theo định hướng phát triển năng lực có sự phân hóa như sau: Kết quả Lớp Giỏi Khá Trung bình Yếu Số lượng (HS) Tỉ lệ (%) Số lượng (HS) Tỉ lệ (%) Số lượng (HS) Tỉ lệ (%) Số lượng (HS) Tỉ lệ (%) Thực nghiệm 18 15 62 51,7 40 33,3 0 0 Đối chứng 7 5,6 45 36,4 69 55,6 3 2,4 Như vậy, tỉ lệ học sinh khá/giỏi ở lớp thực nghiệm cao hơn; trong khi tỉ lệ học sinh trung bình và yếu thấp hơn ở các lớp đối chứng. 10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả - Qua những nghiên cứu bước đầu về sơ đồ và những ứng dụng linh hoạt của sơ đồ trong giảng dạy - học tập môn Địa lí, qua thực tiễn kinh nghiệm giảng dạy, tôi nhận thấy việc sử dụng sơ đồ là một phương pháp học tập mới có tính khả thi cao, đem lại những hiệu quả tích cực, góp phần quan trọng vào việc rèn luyện năng lực tự học cho học sinh. Đây là một trong những yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học Địa lí ở trường phổ thông. - Những mặt đã đạt được của đề tài: + Nghiên cứu được cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc thiết kế và sử dụng sơ đồ trong dạy và học môn Địa lí 12 - chương trình cơ bản. + Thiết kế và sử dụng sơ đồ cụ thể theo từng bài học trong chuyên đề “Địa lí tự nhiên” và “Địa lí dân cư”- chương trình lớp12. + Chất lượng dạy học được cải thiện đáng kể, tỉ lệ khá, giỏi tăng lên, tỉ lệ trung bình giảm đi. + Sử dụng sơ đồ kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực, có tính khả thi cao đã góp phần đổi mới phương pháp dạy học. + Giáo viên có điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình dạy học. Việc sử dụng thành thạo phần mềm MM, kết hợp với việc trình chiếu, tăng cường tranh ảnh trong dạy học phù hợp thức của học sinh, giúp học sinh hiểu được nội dung bài học và thiết kế được sơ đồ một cách nhanh chóng, hiệu quả, mang lại hứng thú trong giờ học và nâng cao chất lượng giáo dục. 10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân v Sau khi giảng dạy phần “Địa lí tự nhiên” và “Địa lí dân cư “ với phương pháp sử dụng sơ đồ, tôi đã lấy ý kiến của học sinh các lớp 12D1, 12D2, 12D5 thông qua phiếu điều tra xã hội học (Phụ lục). Kết quả như sau: - Đa số học sinh sôi nổi, hứng thú với việc sử dụng sơ đồ trong quá trình học tập. Sử dụng sơ đồ giúp học sinh dễ dàng xác định được kiến thức trọng tâm và ghi nhớ kiến thức hiệu quả, bền lâu hơn. - Học sinh được tiếp cận nhiều với các phương tiện hỗ trợ dạy học, phát huy khả năng nghiên cứu tài liệu, tổng hợp kiến thức (tư liệu, hình ảnh, máy chiếu) - Học sinh phát huy được tinh thần học tập và làm việc theo nhóm. - Học sinh hào hứng, sôi nổi, được làm việc nhiều hơn trong giờ học nên tiết học không nhàm chán nặng nề mà hấp dẫn. Kết quả tổng hợp trên phiếu điều tra như sau: Tiêu chí Số phiếu đồng ý Tỉ lệ Sử dụng sơ đồ rất cần thiết và phù hợp 75/88 85,2% Dễ tiếp thu nội dung và hiểu bản chất hiện tượng 72/88 81,8% Có khả năng phân tích so sánh, đối chiếu 70/88 79,5% Rèn các kỹ năng khai thác kênh hình 75/88 85,2% Hình thành một số kỹ năng mềm 65/88 73,8% Tạo hứng thú học tập 75/88 85,2% Phần ý kiến trao đổi thêm của học sinh: hầu hết học sinh đều có nguyện vọng được tiếp tục học tập bằng phương pháp sơ đồ ở những nội dung khác của chương trình Địa lí. v Ngoài ra, việc vận dụng sáng kiến của tôi trong thực tiễn giảng dạy trong năm học vừa qua tại nhà trường đã nhận được sự phản hồi tích cực từ phía lãnh đạo nhà trường và các đồng nghiệp thông qua các buổi dự giờ thăm lớp và hội giảng chào mừng ngày 20/11. 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu Số TT Tên tổ chức/ cá nhân Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 1 Học sinh lớp 12D1 Trường THPT Nguyễn Viết Xuân Địa lí tự nhiên, địa lí dân cư Việt Nam 2 Học sinh lớp 12D2 Trường THPT Nguyễn Viết Xuân Địa lí tự nhiên, địa lí dân cư Việt Nam 3 Học sinh lớp 12D5 Trường THPT Nguyễn Viết Xuân Địa lí tự nhiên, địa lí dân cư Việt Nam Vĩnh Tường, ngày 12 tháng 2 năm 2020 Thủ trưởng đơn vị/ Chính quyền địa phương (Ký tên, đóng dấu) Vĩnh Tường, ngày 14 tháng 2 năm 2020 CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ Phạm Thị Hòa Vĩnh Tường, ngày 10 tháng 2 năm 2020 Tác giả sáng kiến (Ký, ghi rõ họ tên) Trương Thị Dung TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Đình Châu, “Sử dụng Bản đồ tư duy- Một biện pháp hiệu quả hỗ trợ học sinh học tập”, tạp chí Giáo dục, kì 2, tháng 9- 2009. 2. Đặng Văn Đức và các tác giả khác: “ Áp dụng phương pháp dạy học tích cực trong môn Địa lí”, Nxb Đại học Sư phạm, 2003. 3. Lê Đức Hải, “ Phát triển tư duy học sinh trong giảng dạy Địa lí kinh tế”, Nxb Giáo dục, 1993. 4. Bùi Văn Tiến(2010), “ Thiết kế và sử dụng phiếu học tập trong dạy-học Địa lý”, sáng kiến kinh nghiệm, trường THPT Buôn Ma Thuật. 5. Nguyễn Đạt Thành(2013), “ Sử dụng Atlat trong giảng dạy Địa lý tự nhiên 12”, sáng kiến kinh nghiệm, trường THPT Chu Văn An. 6. Lê Thị Diễm Hương(2014), “ Ứng dụng CNTT trong soạn giảng giáo án điện tử để nâng cao hiệu quả dạy học Địa lí 12 THPT”, sáng kiến kinh nghiệm, trường THPT số 2 Bát Xát. 7. Đinh Thị Thanh Huyền(2014), “ Rèn một số kỹ năng thành lập biểu đồ môn Địa lí cho học sinh lớp 12 trường THPT Ba Vì”, sáng kiến kinh nghiệm, trường THPT Ba Vì. PHỤ LỤC PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN CỦA HỌC SINH VỀ PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ LỚP 12 Họ và tên: ................................................................................................... Lớp: ............................................................................................................. Trường: ....................................................................................................... Xin em vui lòng cho biết ý kiến cá nhân bằng cách tích vào cột sau (đồng ý hoặc không đồng ý)! 1. Theo em việc giáo viên sử dụng các sơ đồ trong dạy học Địa lí có cần thiết và phù hợp không? Mức độ Đồng ý Không đồng ý Rất cần thiết và phù hợp Cần thiết và phù hợp Không cần thiết, không phù hợp 2. Theo em, khi nội dung bài học được sơ đồ hóa so với không sử dụng sơ đồ thì có thấy ưu điểm hơn hẳn là gì? Tiêu chí Đồng ý Không đồng ý Có thể khái quát nhanh được nội dung cần học Dễ nhận biết, đối chiếu, so sánh Rèn kỹ năng sử dụng kênh hình Gây hứng thú hơn trong buổi học Rèn kỹ năng bản đồ, biểu đồ, tranh ảnh Rèn kỹ năng hợp tác nhóm, thuyết trình... 3. Em có mong muốn nguyện vọng gì khi học tập bộ môn Địa lí bằng phương pháp sơ đồ Tôi xin chân thành cảm ơn sự hợp tác và giúp đỡ của các em học sinh!
File đính kèm:
- skkn_thiet_ke_va_su_dung_so_do_trong_day_hoc_phan_dia_li_tu.doc