SKKN Phó hiệu trưởng chỉ đạo sử dụng phương pháp trò chơi nhằm dạy học môn Tự nhiên và Xã hội có hiệu quả
Cơ sở lí luận của vấn đề.
Việc áp dụng phương pháp trò chơi vào dạy học môn Tự nhiên và Xã hội chính là việc giáo viên khơi dậy hứng thú, niềm say mê học tập tạo không khí sôi nổi cho một giờ học. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải xác định rõ yêu cầu bài dạy cần đạt. Trên cơ sở đó xác định cần đưa trò chơi vào lúc nào? Nếu giáo viên không tổ chức tốt thì trò chơi không những không gặt hái được kết quả như mong muốn mà còn bị phản tác dụng gây sự hỗn độn không cần thiết. Thực tế ở trường Tiểu học nơi tôi đang quản lí có hai lớp 3. Trong quá trình dạy học mỗi giáo viên đều tích cực đổi mới phương pháp để đạt mục tiêu giờ dạy cao nhất. Song qua dự giờ thăm lớp tôi nhận thấy có giờ dạy đã tổ chức đến 3 hoạt động khác nhau mà giờ học vẫn tẻ nhạt, chán nản. Các câu hỏi thảo luận nhóm thường bị lặp kém hiệu quả. Mỗi khi báo cáo kết quả thảo luận học sinh không những không đưa ra được kiến thức theo yêu cầu mà nội dung báo cáo có phần dập khuôn, xáo rỗng. Bên cạnh đó có giờ giáo viên đưa tới 3 trò chơi vào giảng dạy kết quả là cả một giờ học không khí lúc nào cũng tràn ngập tiếng cười, tiếng reo hò. Song chính vì trạng thái tâm lí bị kích thích quá ngưỡng làm cho sự nhận thức của học sinh không đạt được hiệu quả như mong muốn. Học sinh không nắm được kiến thức trọng tâm của bài.
ụ điền các từ cho trước vào chỗ trống cho hợp nghĩa. - Khi đó học sinh đọc thầm nội dung đoạn văn bản trên và các từ cần điền khi có hiệu lệnh bắt đầu học sinh sẽ ghi nhanh từ tương ứng với số chỉ vị trí của từ đó (Ví dụ: số 12, học sinh ghi: 1 - 12; với từ mùa xuân, học sinh ghi 4 - mùa xuân...) vào bảng con. Sau thời gian 2-3 phút giáo viên hô hết giờ, học sinh đọc đồng thanh từ tương ứng. - Giáo viên khen học sinh làm đúng. (Sau khi kết thúc cuộc chơi học sinh có được các thông tin về năm, tháng và mùa ở đất nước ta). 4.2.2. Nhóm 2: Các trò chơi mang tính chất củng cố nội dung bài hoặc khởi động tạo sự liên hệ nhẹ nhàng giữa bài cũ vào bài. - Khi dạy xong một bài Tự nhiên - Xã hội để giúp các em khắc sâu về nội dung kiến thức bài học song không mang tính chất tự luận, giảng giải hay nhắc lại. Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: Trò chơi này sẽ có tác dụng giúp cho các em hiểu sâu, nhớ lâu, khó quên bài. *Trò chơi: Hoa nào đẹp. * Mục tiêu: - Củng cố tên các bộ phận của các cơ quan trong cơ thể người hoặc các Châu lục và Đại dương của Trái đất. Sự khác biệt giữa làng quê, đô thị... - Rèn kĩ năng xếp hình và khả năng nhanh nhạy óc phản xạ tốt. * Chuẩn bị: - Nhiều miếng bìa cắt hình cánh hoa trên mỗi cánh có ghi tên hoặc hình vẽ các cơ quan khác nhau trong cơ thể người như: Mũi, Phế quản, Phổi...(hay các Châu lục và Đại dương, các hoạt động, công trình kiến thiết của làng quê, đô thị...). - Chuẩn bị 4 bìa hình tròn làm nhị hoa trong đó ghi: Cơ quan hô hấp, cơ quan tuần hoàn, cơ quan bài tiết nước tiểu, cơ quan thần kinh (hoặc 2 miếng bìa ghi các Châu lục, các Đại dương, 2 miếng bìa ghi làng quê, đô thị...) - Nam châm băng dính dán sẵn vào các tấm bìa * Cách chơi: - Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm (hoặc 2 nhóm tuỳ theo số lượng bộ nhị và cánh hoa chuẩn bị được). - Giáo viên nêu yêu cầu: Hoa nào đẹp là trò chơi yêu cầu các đội phải tìm các cánh hoa sao cho phù hợp với nhị hoa rồi ghép lại thành bông hoa đẹp. - Luật chơi: Sau khi giáo viên hô bắt đầu thì tất cả học sinh thứ 1 của mỗi nhóm chạy lên lựa chọn nhị hoa cho nhóm mình. Tiếp đó học sinh chạy về cuối hàng của nhóm để học sinh thứ 2 chọn cánh...Trò chơi cứ thế tiếp tục cho đến khi cánh hoa cuối cùng được gắn. Đội nào gắn đẹp, nhanh đúng là đội thắng cuộc. * Trò chơi được áp dụng cho các bài: Bài 17-18: Ôn tập và kiểm tra: Con người và sức khoẻ Bài 20: Họ nội, họ ngoại. Bài 66: Bề mặt Trái Đất. Bài 69 -70: Ôn tập và kiểm tra kì II - Tự nhiên. Ví dụ ở bài 66: Bề mặt Trái Đất * Chuẩn bị: - 2 bộ cánh hoa ghi tên các Châu lục: Á, Âu, Phi, Mĩ, Đại dương. - 2 bộ cánh hoa ghi tên các Đại dương là: Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương. - 2 bộ nhị hoa gồm: 2 nhị các Châu lục, 2 nhị các Đại dương. * Cách chơi: - Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm - Giáo viên phổ biến luật chơi và nêu yêu cầu chơi. - Học sinh gắn cánh hoa vào nhị hoa. - Giáo viên bình chọn nhóm thắng cuộc. Kết thúc trò chơi học sinh được củng cố khắc sâu về các Châu lục và Đại dương và câu thành ngữ: Năm châu bốn biển. * Trò chơi: Tôi là ai? * Mục tiêu: Củng cố tên các con vật, cây cối hoặc các loài hoa các thành viên trong họ nội, họ ngoại. Học sinh gọi được tên của sự vật hoặc người đó. * Chuẩn bị: Từ 5 - 7 vương miện. Mỗi vương miện có dán 1 băng chữ ghi sẵn tên của người hoặc sự vật đó. * Cách chơi: - Giáo viên nêu yêu cầu: Tôi là ai là trò chơi yêu cầu các em đặt câu hỏi giúp bạn đeo vương miện nhận ra mình là ai. - Luật chơi: Giáo viên chọn từ 5 -7 học sinh lên bảng đứng thành hàng. Giáo viên treo những vương miện cho học sinh song lưu ý không được để học sinh nhìn thấy dòng chữ trên vương miện. Các học sinh bên dưới xung phong gợi ý cho bạn, ai gợi ý mà bạn đeo vương miện không nhận ra mình hoặc không gợi ý được sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. (Lưu ý: Giáo viên căn cứ vào nội dung bài học để có số lượng vương miện và dòng chữ trên vương miện phù hợp). Ví dụ: Bài 20: Họ nội họ ngoại * Chuẩn bị: 5 vương miện có các dòng chữ: Ông nội, bà ngoại, dì, chú, bố. * Cách chơi: - Giáo viên nêu vấn đề: Chơi trò chơi: "Tôi là ai" - Giáo viên phổ biến luật chơi: Học sinh dưới gợi ý giúp cho học sinh đeo vương miện nhận ra mình là ai và nói được tên mình. Ai không gợi ý được hoặc gợi ý mà bạn đeo vương miện nói sai tên mình là người thua cuộc. - Giáo viên đeo vương miện cho 5 học sinh (lưu ý 5 học sinh này không được nhìn thấy dòng chữ của vương miện). - Sau khi giáo viên hô: "Trò chơi bắt đầu" thì chỉ định học sinh gợi ý: Ví dụ: + Với bạn đeo vương miện "ông nội". ?/ Bạn đang đóng vai một người đàn ông sinh ra bố của bạn. Học sinh đeo vương miện nói: Tớ biết tớ đang đóng vai "ông nội". + Với bạn đeo vương miện "dì". ?/Bạn đang đóng vai một người đàn bà là em của mẹ. Tớ đóng vai "dì" phải không bạn? Đúng rồi!....... + Trò chơi cứ thế tiếp tục cho đến hết 5 vương miện. - Kết thúc trò chơi: Giáo viên hỏi? ?/ Trong số các vị đến đây ai là người của họ ngoại. - Bạn đeo vương miện "dì" và "bà ngoại" cùng nói "là tôi" ?/ Còn các vị còn lại thuộc họ nào? (họ nội) à Giáo viên kết thúc bài. * Trò chơi: Nhuỵ hoa nói gì? * Mục tiêu: Củng cố nội dung bài học (Ví dụ: Các hoạt động trong nhà trường, các bộ phận của cây, lá, hoa, quả, thú, chim, các đại dương, châu lục trên trái đất...) * Chuẩn bị: - Một bông hoa các cánh hoa và nhị hoa ghi tên các hoạt động hoặc bộ phận của sự vật có trong bài cần củng cố. - Nhị hoa ghi: Hoạt động nội khoá, hoạt động ngoại khoá; hoa; quả... (tuỳ nội dung mỗi bài). * Cách chơi: - Giáo viên nêu vấn đề: Nhuỵ hoa nói gì là trò chơi yêu cầu các em dựa vào lời gợi ý của giáo viên hãy đoán từ ẩn trong mỗi cánh hoa và nhị hoa. - Luật chơi: Giáo viên đưa bông hoa, học sinh chọn cánh hoa để giáo viên đưa câu gợi ý. Sau khi có câu gợi ý học sinh nói cánh hoa ẩn chứa từ gì. Đúng cánh hoa mở - sai cánh hoa vẫn khép kín. Bạn khác lại tiếp tục đoán ... Cứ thế tiếp tục cho đến hết. Học sinh chỉ được yêu cầu mở nhuỵ hoa khi đã mở hết cánh hoặc mở được hơn số cánh. Kết quả cuộc chơi: Học sinh sẽ được 1 bông hoa với toàn thể nội dung kiến thức trọng tâm của bài. * Trò chơi này áp dụng cho các bài: Bài 1: Hoạt động thở và cơ quan hô hấp. Bài 6: Máu và cơ quan tuần hoàn. Bài 7: Hoạt động tuần hoàn. Bài 10: Hoạt động bài tiết nước tiểu. Bài 12: Cơ quan thần kinh. Bài 24, 25: Một số hoạt động ở trường. Bài 26: Không chơi các trò chơi nguy hiểm. Bài 27, 28: Tỉnh (T.phố) nơi bạn đang sống. Bài 29: Các hoạt động thông tin liên lạc. Bài 30: Hoạt động nông nghiệp. Bài 31: Hoạt động công nghiệp và thương mại. Bài 40: Thực vật. Bài 45: Lá cây. Bài 47: Hoa. Bài 48: Quả. Bài 52: Cá. Bài 53: Chim. Bài 54, 55: Thú. Ví dụ: Khi dạy bài: "Một số hoạt động ở nhà trường" (tiết 2) * Chuẩn bị: . Một bông hoa 5 cánh (các từ được che lại bởi 5 màu) Xanh - Cánh 1: Đồng diễn thể dục. Đỏ - Cánh 2: Tham quan. Tím - Cánh 3: Biểu diễn văn nghệ. Vàng - Cánh 4: Trồng cây. Trắng - Cánh 5: Chăm sóc nghĩa trang . Một nhị hoa ghi: Hoạt động ngoại khoá * Cách chơi: - Cuối tiết học giáo viên đưa bông hoa ?/ Bông hoa gồm mấy cánh? - Giáo viên nêu yêu cầu: Trò chơi Nhuỵ hoa nói gì yêu cầu các em chọn cánh hoa. Sau câu gợi ý của cô các em sẽ đoán từ ẩn chứa ở mỗi cánh hoa: Cánh hoa chỉ được mở ra khi các em đoán đúng. Nếu cánh hoa chưa mở các em khác có quyền đoán tiếp. Khi số cánh mở được lớn hơn 3 các em có quyền đoán nhị hoa. Trò chơi bắt đầu: - Học sinh chọn cánh hoa Ví dụ: Cánh màu xanh. Giáo viên gợi ý: Vào các buổi sáng Thứ 3 - Thứ 5 hàng tuần trong giờ ra chơi các em thường làm công việc này. Học sinh trả lời: Đồng diễn thể dục à cánh hoa mở. Sau khi đã mở hết 5 cánh hoa. - Giáo viên gợi ý nhị hoa: Đây là một ngữ chỉ các hoạt động do nhà trường tổ chức có ở trong các cánh hoa. - Học sinh trả lời: Hoạt động ngoại khoá. Học sinh đọc đồng thanh: "Hoạt động ngoại khoá". Giáo viên kết thúc bài. * Ghép chữ vào hình * Mục tiêu: Củng cố kiến thức đã học trong bài về một số hệ cơ quan trong cơ thể hoặc các miền khí hậu trên Trái đất ... * Chuẩn bị: - Sơ đồ câm 3 bộ về cơ quan vừa học hoặc lược đồ câm của Trái đất, thềm lục địa, Đại dương ... - Các tấm phiếu rời ghi tên các bộ phận của cơ quan hoặc các đới khí hậu, các Châu lục, Đại dương ... * Cách chơi: - Giáo viên yêu cầu: Thi ghép chữ vào hình. - Luật chơi: + Giáo viên treo sơ đồ (lược đồ) câm lên bảng + Phát mỗi nhóm một bộ phiếu rời (số lượng học sinh chơi phụ thuộc từng bài có số bộ phận cơ quan nhiều hay ít). + Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm. Khi có hiệu lệnh bắt đầu học sinh ghép nhanh chữ vào sơ đồ câm. Đội nào nhanh là đội thắng cuộc. * Trò chơi được áp dụng cho các bài sau: Bài 6: Máu và cơ quan tuần hoàn. Bài 7: Hoạt động tuần hoàn. Bài 10: Hoạt động bài tiết nước tiểu. Bài 12: Cơ quan thần kinh. Bài 59: Trái đất và quả địa cầu. Bài 65: Các đới khí hậu. Bài 66: Bề mặt Trái Đất. Ví dụ: Bài 7: Hoạt động tuần hoàn. * Mục tiêu: Củng cố kiến thức đã học về 2 vòng tuần hoàn. * Chuẩn bị: . Sơ đồ câm về 2 vòng tuần hoàn (2 sơ đồ) . 2 bộ phiếu rời ghi tên các lại mạch máu của 2 vòng tuần hoàn. * Cách chơi: . Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm. Mỗi nhóm có một số người chơi phụ thuộc vào số lượng các phiếu rời sẽ dán vào sơ đồ câm. . Giáo viên nêu yêu cầu: Ghép chữ vào hình là trò chơi yêu cầu các em ghép tên vào đúng vị trí trong sơ đồ. . Giáo viên phổ biến luật chơi: Mỗi học sinh trong một nhóm chơi được phát một tấm phiếu. Khi giáo viên hô bắt đầu khi học sinh 1 lên gắn phiếu của mình vào sơ đồ. Gắn xong học sinh đó trở lại vị trí cuối hàng để học sinh 2 lên gắn. Cứ thế cho đến khi gắn xong. Đội nào gắn đẹp nhanh đúng là đội thắng cuộc. . Học sinh chơi gắn chữ vào hình. Sau cuộc chơi giáo viên cho học sinh nhắc lại tên các loại mạch máu của 2 vòng tuần hoàn và kết thúc bài. * Trò chơi: Phân nhóm nhanh. * Mục tiêu: Nhận ra các loại cây (hoa, quả, cá ...) cùng đặc điểm giống nhau hoặc phân được đúng người họ nội, họ ngoại. * Chuẩn bị: . Phiếu ghi sẵn lên các cây (hoa, quả ...) hoặc chức danh người trong cùng dòng họ có gắn sẵn băng dính hoặc nam châm. . Kẻ sẵn bảng ghi đặc điểm cấu tạo, chức phận cần phân loại. * Cách chơi: . Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm. Phát phiếu cho mỗi nhóm, số lượng học sinh chơi bằng số lượng phiếu. . Giáo viên nêu yêu cầu: Phân nhóm nhanh là trò chơi yêu cầu các em phân loại cây (hoa, quả ...) theo cách mọc, cấu tạo của thân (màu sắc, hương vị của hoa...) hoặc chức phận của người trong họ nội, ngoại. . Luật chơi: Khi giáo viên hô bắt đầu học sinh 1 lên gắn phiếu vào bảng kẻ sẵn, học sinh 1 gắn xong về cuối hàng để học sinh 2 gắn ... cứ thế tiếp tục cho đến hết ... . Giáo viên làm trọng tài để phân nhóm thắng thua. Nhóm nào gắn nhanh, chính xác là nhóm thắng cuộc. * Trò chơi này được vận dụng dạy ở các bài. Bài 40: Thực vật. Bài 41, 42: Thân cây. Bài 43, 44: Rễ cây. Bài 45: Lá cây. Bài 46: Hoa. Bài 47: Quả. Bài 52: Cá. Bài 53: Chim. Bài 56, 57: Thực hành đi thăm thiên nhiên. Ví dụ ở bài 41: Thân cây. * Mục tiêu: Phân loại theo cấu tạo và cách mọc của cây. * Chuẩn bị: - Giáo viên kẻ bảng sau lên bảng lớp Cấu tạo Cách mọc Thân gỗ Thân thảo Đứng Bò Leo - Giáo viên chuẩn bị 2 bộ thẻ ghi: Xoài, ngô, trầu không, hướng dương, dưa hấu, bí ngô, kơ nia, cau, tía tô, hồ tiêu, bàng, rau ngót, dưa chuột, mây, bưởi, cà rốt, rau má, lá lốt, phượng vĩ, hoa cúc. * Cách chơi: - Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm phát cho học sinh mỗi em một thẻ. - Giáo viên phổ biến luật chơi. - Giáo viên làm trọng tài điều khiển cuộc chơi. - Học sinh các nhóm gắn xong giáo viên yêu cầu học sinh chữa bài theo đáp án sau: Cấu tạo Cách mọc Thân gỗ Thân thảo Đứng Xoài, kơ nia, cau, bàng, rau ngót, phượng vĩ, bưởi. Ngô, hướng dương, tía tô, hoa cúc. Bò Bí ngô, rau má, lá lốt, dưa hấu Leo Mây Trầu không, hồ tiêu, dưa chuột. * Trò chơi "Làm theo cô nói không làm theo cô làm". * Mục tiêu: - Học sinh phản ứng nhanh. - Rèn sự nhanh tay nhanh mắt. * Tiến hành: - Giáo viên nêu yêu cầu: Làm theo cô nói không làm theo cô làm là: Khi cô nói A cô làm B các em phải làm là A ai làm theo B là thua cuộc. - Luật chơi: Khi giáo viên hô bắt đầu thì học sinh làm theo hiệu lệnh của giáo viên không được bắt chước hành động của giáo viên. Ai làm sai sẽ thua cuộc. * Trò chơi này được áp dụng cho các bài sau: Bài 1: Hoạt động thở và cơ quan hô hấp. Bài 14: Hoạt động thần kinh. Ví dụ với bài 14: Hoạt động thần kinh - Sau khi học sinh học xong bài giáo viên cho học sinh chơi trò chơi: Làm theo tôi nói không làm theo tôi làm. - Giáo viên quy ước: + Giáo viên nói "con thỏ" giơ 2 tay lên đầu. + Giáo viên nói "ăn cỏ" để tay miệng. + Giáo viên nói "uống nước" lấy tay cái đặt lòng bàn tay trái. + Giáo viên nói "chui hang" để tay vào vành tai. . Giáo viên cho học sinh thực hành thao tác con thỏ, ăn cỏ, uống nước, chui hang. . Giáo viên cho học sinh chơi: Giáo viên hô con thỏ - thao tác của giáo viên cho tay lên vành tai ai làm theo giáo viên là thua cuộc. Cứ thế trò chơi tiếp tục khoảng 2 phút thì dừng. 4.2.3. Một số điều lưu ý khi vận dụng dạy phương pháp trò chơi vào dạy môn Tự nhiên - Xã hội ở lớp 3 * Để phương pháp trò chơi thực sự có hiệu quả trong giờ học Tự nhiên - Xã hội. Giáo viên cần lựa chọn trò chơi hay và hiệu quả nhất cho mỗi bài dạy. Trong một tiết giáo viên chỉ nên tổ chức một trò chơi. Đặc biệt đối với trò chơi khám phá kiến thức giáo viên cần tổ chức cho tối thiểu học sinh được tham gia. Cần phối hợp linh hoạt liên hoàn giữa phương pháp truyền thống hiện đại và trò chơi để tiết học sôi nổi sinh động và sâu sắc. 4.3. Chỉ đạo dạy thực nghiệm Chọn 2 lớp 3A và lớp 3B có trình độ tương đương trong khối. . Lớp 3B là lớp đối chứng (31 học sinh) . Lớp 3A là lớp thực nghiệm. (32 học sinh) * Đồng chí dạy thực nghiệm sẽ tiến hành dạy trên lớp 3A bắt đầu từ tuần 1 cho đến tuần 26. . Cả 52 tiết Tự nhiên - Xã hội đều sử dụng phương pháp trò chơi. . Mỗi tiết sử dụng 1 trò chơi. . Trò chơi khám phá nội dung kiến thức bài học được tổ chức hơn số học sinh tham gia. 5. Kết quả đạt được Sau gần một năm chỉ đạo giáo viên áp dụng vào dạy thực nghiệm trên lớp 3B, cứ hai tuần tôi lại quan sát thăm lớp tiết dạy Tự nhiên và Xã hội một lần. Tôi nhận thấy học sinh rất hứng thú say mê học tập. Đồng chí dạy thực nghiệm báo cáo lại: Chưa có hiện tượng nào ngủ gật trong giờ (mặc dù trước đây những trường hợp đó đều có thể có) học sinh bước vào giờ học với tâm trạng thoải mái, thích thú. - Để kiểm tra kết quả thực nghiệm tôi đã tiến hành trắc nghiệm cả về tâm lí sự cảm nhận về giờ học và chất lượng đạt được khi học phân môn này. 5.1. Kết quả trắc nghiệm tâm lí Phiếu trắc nghiệm tâm lí Đánh dấu "x" vào trước ý em cho là đúng. 1. Em có thích học môn Tự nhiên - Xã hội không? Có Không 2. Giờ học Tự nhiên - Xã hội là. Một giờ học sôi nổi. Một giờ học tẻ nhạt vì phải thực hiện tuần tự các lệnh theo yêu cầu SGK. Một giờ học mà em thích nhất vì em cảm thấy thoải mái (học mà chơi, chơi mà học). Kết quả thu được: Nội dung Kết quả 3B 3A SL % SL % 1. Có thích học môn Tự nhiên - Xã hội Không thích học môn Tự nhiên - Xã hội 5 20 20 80 25 0 100 0 2. Giờ học Tự nhiên - Xã hội là Một giờ học sôi nổi. Một giờ tẻ nhạt vì phải thực hiện tuần tự các lệnh trong sách giáo khoa. Một giờ mà em thích nhất vì em cảm thấy thoải mái học mà chơi, chơi mà học 4 21 1 6 84 4 25 0 25 100 100 100 5.2. Kết quả kiểm tra chất lượng Thời gian: 5 phút Đề bài: 1. Chọn các từ trong ngoặc đơn điền vào chỗ ...... cho phù hợp. (Chất thải, ô nhiễm, mầm bệnh) Phân và nước tiểu là .......................... của quá trình tiêu hoá và bài tiết. Phân và nước tiểu có mùi hôi thối, chứa nhiều .................................... và gây ................................ môi trường xung quanh. 2. Điền Đ vào trước câu trả lời đúng chữ S vào (ô trống) trước câu trả lời sai. Để phòng cháy khi đun nấu chúng ta phải: Tắt bếp khi sử dụng xong. Không trông coi khi đun nấu. Để những thứ dễ cháy ở gần bếp. Kết quả thu được. Lớp Số HS trả lời đúng 6 ý Số HS trả lời đúng từ 5ý Số HS trả lời đúng 3-4 ý Dưới 3 ý SL % SL % SL % SL % 3A 8 32 5 20 11 44 1 4 3B 13 42 10 40 2 8 0 0 Với gần một năm chỉ đạo giáo viên áp dụng phương pháp trò chơi vào dạy học phân môn Tự nhiên và Xã hội. Tôi nhận thấy: - Giờ học mà giáo viên dạy vận dụng phương pháp trò chơi đã đem đến cho học sinh sự say mê học tập. Mất hẳn sự trầm lắng. - 100% số học sinh đều thích học môn Tự nhiên và Xã hội. Từ kết quả trên tôi có thể khẳng định rằng việc chỉ đạo giáo viên vận dụng phương pháp trò chơi vào dạy học môn Tự nhiên và Xã hội là một hướng đúng mở ra triển vọng tốt đẹp cho phương pháp dạy Tự nhiên và Xã hội nói chung và dạy các môn học ở Tiểu học nói riêng. 6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng Trong quá trình nghiên cứu và chỉ đạo giáo viên vận dụng phương pháp trò chơi vào dạy học môn Tự nhiên và Xã hội tôi nhận thấy. * Đối với người quản lí, chỉ đạo chuyên môn: - Trước hết người quản lý cần phải hiểu rõ được nội dung mục tiêu cần đạt được của mỗi môn học, của từng lớp học và đặc thù của từng phân môn ấy. - Nắm được đặc điểm tâm sinh lí của từng lứa tuổi học sinh Tiểu học. - Có biện pháp chỉ đạo kiên quyết, đúng hướng. Kiểm tra sát sao và đôn đốc kịp thời. Động viên giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy hiện đại vào dạy học. Đặc biệt ưu tiên cho 3 phương pháp thực hành, trực quan - quan sát và trò chơi. * Đối với giáo viên: - Trước hết người giáo viên phải tâm huyết với nghề luôn tìm tòi học hỏi cập nhật vấn đề mới của xã hội. - Khơi dậy lòng say mê thích học hỏi của học sinh làm cho học sinh cảm thấy thực sự yêu trường, yêu thích học tập không nên gò ép các em theo một khuôn thước nhất định. Biết trân trọng sự sáng tạo của học sinh. - Phối hợp tốt các phương pháp dạy học hiện đại và truyền thống vào dạy học. Ưu tiên cho phương pháp trò chơi song khi sử dụng phương pháp này mỗi giáo viên cần lưu ý: + Trò chơi phải góp phần thực hiện mục tiêu bài dạy + Trò chơi phải được chuẩn bị kĩ phù hợp với đối tượng học sinh cả về thẩm mĩ và nội dung. + Không nên tổ chức kéo dài trò chơi sẽ ảnh hưởng tới mạch kiến thức. Cần biết tổ chức cho khéo trò chơi học tập cần mang đúng nghĩa học mà chơi, chơi mà học. Tránh sự thái quá. + Trò chơi chỉ áp dụng với mỗi bài 1 lần. Nếu là trò chơi khám phá kiến thức nội dung bài cần được số lượng học sinh tham gia. + Tránh hiện tượng chỉ có một nhóm học sinh khá giỏi tham gia. PHẦN 3 : KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận. Trong quá trình chỉ đạo giáo viên vận dụng phương pháp trò chơi vào dạy môn Tự nhiên - Xã hội tôi nhận thấy đây là phương pháp đặc biệt quan trọng bởi nó phù hợp với tâm lí của học sinh. Nó là con đường giúp các em đến với tri thức ngắn nhất. Vì "chơi mà học - học mà chơi" là một hoạt động mang tính tự nguyện không gò ép tạo cho các em được sống là chính mình được tìm tòi, được khám phá ... Và đây chính là một nét mới - một nét độc đáo trong quá trình dạy học của mỗi giáo viên. 2. Khuyến nghị - Đề nghị huyện đưa chuyên đề ra hội thảo để phân tích ưu nhược từ đó có thể vận dụng chỉ đạo thực hiện dạy - học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3 ở trong huyện. - Khi vận dụng các phương pháp vào dạy học mỗi giáo viên cần có cho mình một hướng đi riêng cần có sự sáng tạo và linh hoạt trong suốt quá trình giảng dạy. - Các bậc quản lí ở các trường cần quan tâm đến tâm lí của học sinh, tâm trạng của chúng khi học các môn học khác nhau. Từ đó có sự định hướng cho mỗi giáo viên có những bước chuyển mình cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Trên đây là kinh nghiệm của tôi trong việc " Sử dụng phương pháp trò chơi nhằm dạy - học môn Tự nhiên và Xã hội ở lớp 3 có hiệu quả ". Với thời gian vận dụng chưa dài nên có thể sáng kiến của tôi chưa thực sự sâu rộng. Rất mong có sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn và từng bước áp dụng vào thực tế. Tôi xin trân trọng cảm ơn
File đính kèm:
- skkn_pho_hieu_truong_chi_dao_su_dung_phuong_phap_tro_choi_nh.doc