SKKN Một số biện pháp rèn thói quen vệ sinh cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi tại lớp 2 tuổi D7 trong trường mầm non Xuân Lai
Một số cháu mới đến trường, lớp nên chưa quen nề nếp vệ sinh, chế độ sinh hoạt ở trường và một số cháu còn quá nhỏ.
Một số cháu được cha mẹ cưng chiều quá mức, thường làm giúp trẻ nên khả năng tự phục vụ của trẻ trong hoạt động vệ sinh còn hạn chế.
Một số phụ huynh ch¬ưa quan tâm đến việc rèn luyện thói quen vệ sinh cho trẻ.
Công tác phối hợp với phụ huynh của một số giáo viên còn hạn chế.
Một số cháu mới đến trường, lớp nên chưa quen nề nếp vệ sinh, chế độ sinh hoạt ở trường và một số cháu còn quá nhỏ.
Một số cháu được cha mẹ cưng chiều quá mức, thường làm giúp trẻ nên khả năng tự phục vụ của trẻ trong hoạt động vệ sinh còn hạn chế.
Một số phụ huynh ch¬a mẹ trẻ quan tâm đến việc rèn luyện thói quen vệ sinh cho trẻ.
Công tác phối hợp với phụ huynh của một số giáo viên còn hạn chế.
* Về phụ huynh:
Đa số cha mẹ của trẻ đi làm kinh tế xa, làm công nhân tại các khu công nghiệp không có thời gian gần gũi chăm sóc con phần lớn đều nhờ cậy ông bà .
* Về cơ sở vật chất:
Đồ dùng đồ chơi tự tạo còn ít, chưa phong phú về chủng loại, đồ dùng theo thông tư 02 của Sở giáo dục đào tạo cấp phát không được đầy đủ cho các lớp.
-Cơ sở vật chất của nhà trường tuy mời nhưng chưa đủ phòng chức năng đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cuả trẻ
Nội dung Trang PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1 3 PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 4 1. Thực trạng việc tổ chức“ Một số biện pháp rèn thói quen vệ 4 sinh cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi tại lớp 2 tuổi D7 trong trường mầm non Xuân Lai” a. Ưu điểm........................... .................................. 4 b. Hạn chế và nguyên nhân......................................... 5 6 2. Các biện pháp rèn thói quen vệ sinh cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi tại lớp 2 tuổi D7 trong trường mầm non Xuân Lai” a, Biện pháp 1: Chuẩn bị môi trường và điều kiện vật chất tối 7 - 8 thiểu cần thiết cho hoạt động vệ sinh b, Biện pháp 2:Tự học tập, bồi dưỡng về kỹ năng thực hành 9 thao tác chăm sóc - vệ sinh cho trẻ. c, Biện pháp 3: Giáo dục vệ sinh cho trẻ thông qua các hoạt 12 - 15 động giáo dục vệ sinh cho trẻ thông qua hoạt động vệ sinh: d, Biện pháp 4: Giáo dục vệ sinh thông qua các hoạt động trong 15 - 16 ngày e, Biện pháp 5: Tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền và 16 - 20 phối hợp với phụ huynh trong công tác rèn thói quen vệ sinh cho trẻ. 3. Kết quả 21 4. Kết luận 22 5. Kiến nghị, đề xuất 22 3 PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ Sinh thời Bác Hồ nói: “Không sạch sẽ thì bẩn, bẩn thỉu sinh bệnh tật”. Bác luôn yêu cầu và kêu gọi: “Mọi người phải chú ý giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khỏe”. Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng và nhà nước ta đã không ngừng quan chăm sóc thế hệ trẻ vì trẻ em là mầm non tương lai của đất nước, là thế hệ kế tục và phát triển sự nghiệp của cha ông. Trẻ em phát triển tốt nhờ vào rất nhiều yếu tố nhưng quan trọng nhất là yếu tố vệ sinh phòng bệnh vì trẻ em nói chung và trẻ mầm non nói riêng là lứa tuổi dễ mắc bệnh nhất vì cơ thể trẻ trong giai đoạn này sức đề kháng còn yếu. Vì vậy công tác chăm sóc và giáo dục vệ sinh cho trẻ nhà trẻ là một việc rất quan trọng và cần thiết giúp trẻ có nề nếp, thói quen vệ sinh , phòng tránh bệnh tật, tăng cường sức khỏe, hình thành những kỹ năng sống cơ bản đầu tiên, góp phần tạo nguồn nhân lực có chất lượng trong tương lai. Là một giáo viên phụ trách lớp 24-36 tháng tuổi, người trực tiếp giảng dạy và chăm lo cho các cháu từng bữa ăn, giấc ngủ tôi nhận thức sâu sắc về trách nhiệm của mình cũng như tầm quan trọng của việc rèn thói quen vệ sinh cho trẻ tại nhóm lớp mình phụ trách. Chính vì vậy tôi luôn canh cánh trong lòng và tự hỏi mình: Làm sao? Làm như thế nào? Và cần phải làm những gì? để rèn cho trẻ cho trẻ thói quen vệ sinh một cách tốt nhất. Xuất phát từ lý do trên tôi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp rèn thói quen vệ sinh cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi tại lớp 2 tuổi D7 trong trường mầm non Xuân Lai” 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Trẻ mẫu giáo 2 Tuổi D7 trường mầm non Xuân Lai 3. Giới hạn phạm vi: - Thời gian nghiên cứu: Từ đầu tháng 10 năm 2021 5 Một số cháu mới đến trường, lớp nên chưa quen nề nếp vệ sinh, chế độ sinh hoạt ở trường và một số cháu còn quá nhỏ. Một số cháu được cha mẹ cưng chiều quá mức, thường làm giúp trẻ nên khả năng tự phục vụ của trẻ trong hoạt động vệ sinh còn hạn chế. Một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc rèn luyện thói quen vệ sinh cho trẻ. Công tác phối hợp với phụ huynh của một số giáo viên còn hạn chế. Một số cháu mới đến trường, lớp nên chưa quen nề nếp vệ sinh, chế độ sinh hoạt ở trường và một số cháu còn quá nhỏ. Một số cháu được cha mẹ cưng chiều quá mức, thường làm giúp trẻ nên khả năng tự phục vụ của trẻ trong hoạt động vệ sinh còn hạn chế. Một số phụ huynh cha mẹ trẻ quan tâm đến việc rèn luyện thói quen vệ sinh cho trẻ. Công tác phối hợp với phụ huynh của một số giáo viên còn hạn chế. * Về phụ huynh: Đa số cha mẹ của trẻ đi làm kinh tế xa, làm công nhân tại các khu công nghiệp không có thời gian gần gũi chăm sóc con phần lớn đều nhờ cậy ông bà . * Về cơ sở vật chất: Đồ dùng đồ chơi tự tạo còn ít, chưa phong phú về chủng loại, đồ dùng theo thông tư 02 của Sở giáo dục đào tạo cấp phát không được đầy đủ cho các lớp. -Cơ sở vật chất của nhà trường tuy mời nhưng chưa đủ phòng chức năng đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cuả trẻ * Nguyên nhân của hạn chế: 7 * Môi trường vật chất Môi trường cho trẻ hoạt động trong phòng, nhóm lớp: Giáo viên xây dựng góc “Rèn kỹ năng sống cho trẻ” với các hình ảnh mang nội dung giáo dục vệ sinh dưới dạng mở để trẻ được thỏa sức lựa chọn những hình ảnh đúng - sai theo khả năng nhận thức của trẻ. Làm tốt công tác vệ sinh môi trường nề nếp của lớp. Các cháu ở lớp mẫu thời gian rất dài, nếu cô sắp xếp đồ dùng gọn gàng, sạch sẽ, mọi sinh hoạt của lớp có nề nếp làm cho lớp học vui tươi đầm ấm. Tất cả những cái đó ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thói quen cho trẻ. Lớp học sạch đẹp cháu không nỡ vứt rác bừa bãi, cháu không vứt đồ chơi lung tung, khi mọi thứ trong lớp điều được sắp xếp theo đúng chỗ quy định. 9 Để đảm bảo đồ dùng phục vụ cho hoạt động vệ sinh cho trẻ ngay từ đầu năm học tôi đã thống kê đồ dùng, dụng cụ của lớp để kịp thời tham mưu với nhà trường bổ sung thêm đồ dùng, dụng cụ vệ sinh đảm bảo cho trẻ hoạt động. 2.2. Biện pháp 2: Tự học tập, bồi dưỡng về kỹ năng thực hành thao tác chăm sóc - vệ sinh cho trẻ. Bản thân tôi luôn xác định muốn rèn luyện cho trẻ nhà trẻ, bé có thói quen trong việc giữ gìn vệ sinh cá nhân thì việc làm đầu tiên là cô giáo phải có kiến thức chuẩn xác về kĩ năng thực hành , chính vì điều đó mà bản thân tôi luôn tìm tòi học hỏi các tài liệu có liên quan đến vấn đề vệ sinh để áp dụng vào dạy trẻ. Giáo viên phải nắm được yêu cầu rèn luyện và kỹ năng thực hành cho trẻ. Thói quen vệ sinh cần rèn luyện. Ngoài những thói quen vệ sinh ở lớp , giáo viên cần rèn luyện thêm cho các cháu những thói quen vệ sinh sau: Trẻ tự rửa mặt, rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, chải đầu, đánh răng. Có ý thức giữ vệ sinh nơi công cộng, tôn trọng người khác như: không nhổ bậy, không vứt rác ra lớp học, nơi công cộng, biết sử dụng nước sạch.. Trẻ tự mặc quần áo, biết đòi hỏi người lớn phải cho mình ăn mặc gọn gàng sạch sẽ. Biết gấp cất trải nệm, gối. Biết giữ nhà cửa, đồ dùng đồ chơi gọn gàng sạch sẽ. Biết giúp cô lau bàn ghế, rửa đồ chơi, xếp lại giá đồ chơi gọn gàng ngăn nắp. Khi ra nắng biết đội mũ nón và biết mặc áo mưa khi trời mưa. Trẻ bắt đầu hình thành vững chắc các quy tắc vệ sinh cá nhân và nếp sống văn minh. Cô cũng cần nắm được các kỹ năng cần rèn cho trẻ như: 11 Bước 4: Dùng đầu ngón tay của bàn tay này miết vào kẽ giữa các ngón của bàn tay kia và ngược lại. Bước 5: Chụm 5 đầu ngón tay của tay này cọ vào lòng bàn tay kia bằng cách xoay đi, xoay lại. Bước 6: Xả cho tay sạch hết xà phòng dưới nguồn nước sạch. Lau khô tay bằng khăn hoặc giấy sạch. 13 tổ chức theo từng nhóm nhỏ từ 8 – 10 trẻ vào các thời điểm làm vệ sinh cá nhân, trước khi ăn cơm, trước khi ngủ trưa Trong quá trình tổ chức tiết học vệ sinh cá nhân, giáo viên có thể sử dụng các dụng cụ trực quan như tranh ảnh hoặc các dụng cụ vệ sinh cá nhân (vật thật) để giúp trẻ dễ dàng nắm được cách thức thực hiện, có hứng thú với việc thực hiện hành vi văn hoá vệ sinh. Các cháu nhà trẻ bé tuy còn nhỏ nhưng cũng có khả năng tiếp thu được những kiến thức thông thường vì vậy cô cần phải hướng dẫn cho các cháu biết những điều cần thiết của từng yêu cầu vệ sinh và những tác hại của việc không thực hiện đúng yêu cầu đó, lời hướng dẫn của cô phải đơn giản, rõ ràng, chính xác, dễ hiểu. Để thực hiện tốt hoạt động vệ sinh thì cô phải chuẩn bị tốt lời hướng dẫn và động tác mẫu. Các cháu có thể thực hiện các công việc tự phục vụ bản thân vì vậy đối với những việc có thể làm mẫu được cô cần chuẩn bị tốt lời hướng dẫn và làm thành thạo động tác mẫu, vừa làm vừa giải thích, cô có thể tập truớc cho một cháu để cháu đó làm mẫu cho các cháu khác làm theo. Nhắc nhở các cháu thực hiện thường xuyên. Muốn hình thành một thói quen vệ sinh ngoài việc làm cho trẻ hiểu được ý nghĩa có kỹ năng cần phải làm cho trẻ được thực hành thường xuyên, có như vậy mới ăn sâu vào nếp sống của trẻ. Hành động sẽ trở thành thói quen khi đứa trẻ có nhu cầu từ bên trong. Ví dụ: Cháu Thu Trang sau khi ăn xong nếu cháu không uống nước thì cháu thấy rất khó chịu và không chịu đi ngủ. Lồng ghép vào các hoạt động học có chủ đích: Trong quá trình tổ chức các hoạt động học tập cho trẻ, thông qua những môn học, bài học cụ thể như: Khám phá khoa học; Khám phá xã hội; Làm quen với tác phẩm văn học Giáo viên có thể tiến hành tích hợp nội dung giáo dục thói quen văn hoá vệ sinh cho trẻ. Tuy nhiên khi tiến hành lồng ghép giáo viên cần chú ý đảm bảo tính tự nhiên, hợp lý, khách quan của tri thức môn học; đảm bảo tính hệ thống, trọn vẹn 15 Mục đích: Củng cố cho trẻ biết cách giữ gìn vệ sinh các bộ phận cơ thể: mắt, mũi, miệng, tay, chân.. Chuẩn bị:Tranh to và màu sắc đẹp “ Mẹ đang tắm cho em bé” Một số câu hỏi để hỏi khi trẻ xem tranh Một búp bê để minh hoạ. Tiến hành: Đọc cho trẻ nghe bài thơ “Yêu mẹ” Cô hỏi trẻ ở nhà ai thường tắm cho các con? Cô cho trẻ xem tranh “Mẹ đang tắm cho em bé” và hỏi trẻ: Tranh vẽ gì đây các con? Mẹ đang làm gì? Bé đang làm gì? Sau đó cô kể cho cháu nghe câu chuyện theo sự sáng tạo của cô. Có thể kể như sau: Hôm qua chủ nhật, Băng ở nhà chơi với chị, trời nắng mà tay chân bị bẩn , mẹ tắm cho Băng, Băng thích lắm. Mẹ lần lượt gội đầu, rửa mặt, kỳ cọ tay chân và toàn thân một cách nhẹ nhàng bằng nước mát rượi. Hay ở hoạt động khám phá khoa học đề tài “Tìm hiểu một số loại quả” cô giáo dục trẻ trước khi ăn phải biết rửa tay, rửa hoa quả, gọt vỏ trước khi ăn và biết bỏ rác đúng nơi quy định. 2.4. Biện pháp 4: Giáo dục vệ sinh thông qua các hoạt động trong ngày Tổ chức cho trẻ luyện tập trực tiếp, thường xuyên trong sinh hoạt hàng ngày: Trẻ lứa tuổi mầm non có đặc điểm mau nhớ, chóng quên, vì vậy mỗi hành vi văn hoá vệ sinh đã hình thành cho trẻ cần phải được luyện tập củng cố một cách thường xuyên. Cho trẻ thực hành thường xuyên trong các thời điểm sinh hoạt hàng ngày (khi đón, trả trẻ, khi tổ chức cho trẻ ăn, ngủ, chơi học..), đó là cách luyện tập tốt nhất để giúp trẻ biến những kỹ năng đã hình thành trở thành kỹ xảo, thói quen. Ví dụ khi tổ chức cho trẻ ăn cô giáo hướng dẫn trẻ rửa tay, lau miệng trước và sau khi ăn; dạy trẻ trước khi ăn phải mời mọi người, khi ăn phải nhai kỹ, không được ngậm thức ăn trong miệng, không được dùng tay bốc thức ăn, không vừa ăn vừa nói chuyện; Trong giờ
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_ren_thoi_quen_ve_sinh_cho_tre_nha_tre.docx