SKKN Làm thế nào để gây hứng thú cho học sinh trong giờ lịch sử và việc liên hệ một số vấn đề thời sự ở Lớp 12
Thứ nhất :Nhiều giáo viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc
đổi mới phương pháp dạy học lịch sử và hướng đổi mới là phát huy tính tích
cực, độc lập nhận thức của học sinh trong học tập. Để thực hiện điều này, một số
giáo viên đã vận dụng kết hợp các phương pháp dạy học, trong đó có biện pháp
“hỏi – đáp” nhưng không ít giáo viên chưa nhận thức được điều này.4
Thứ hai: Một số giáo viên nhận thức được điểm mấu chốt của đổi mới
phương pháp dạy học là phải thay đổi quan niệm cũ trước đây: chuyển từ vai trò
thầy làm trung tâm sang trò làm trung tâm của quá trình dạy học. Giáo viên là
người hướng dẫn, điều khiển quá trình nhận thức của học sinh. Muốn vậy, phải
phát huy các năng lực nhận thức độc lập, phát triển tính tích cực học tập của các
em. Song về biện pháp phát huy tính tích cực trong nhận thức của các em thì
chưa tốt. Thường giáo viên quan niệm rằng, đặt nhiều câu hỏi là đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng tích cực. Vì vậy, giờ học biến thành giờ “hỏi – đáp”
quá căng thẳng, khô khan, làm học sinh không hứng thú học tập. Bởi vì, hỏi –
đáp chỉ là một cách, muốn phát huy cách dạy học này phải kết hợp với các
phương pháp khác, đặc biệt là phương pháp bộ môn.
Thứ ba: Không ít giáo viên, nhất là giáo viên ở các vùng nông thôn, vùng
sâu, vùng xa ít được cập nhật thông tin khoa học, chưa nhận thức được tầm
quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay và chưa hiểu rõ nội
dung của công việc này. Vì vậy trong giờ học lịch sử, thầy làm việc là chủ yếu,
trò thụ động ghi chép còn khá phổ biến. Thậm chí, hiện tượng đọc chép còn tràn
lan. Mặt khác, một số giáo viên tuy nhận thức được vấn đề của đổi mới phương
pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng nhưng lại lấy nguyên nhân
học sinh yếu kém không thể vận dụng các biện pháp đổi mới nhằm phát huy tính
tích cực của học sinh được, cũng chỉ đọc chép, nhồi nhét kiến thức cho học sinh,
cho nên không rèn luyện cho các em năng lực độc lập chiếm lĩnh kiến thức và
trang bị phương pháp học tập tốt. Đây là một thực tế đáng buồn hiện nay, dẫn tới
tình trạng học sinh không thích học môn lịch sử.
Thứ tư: Hiện nay SGK lịch sử đã được biên soạn theo tinh thần đổi mới,
được sử dụng đại trà. Thực tiễn sử dụng SGK mới ở trường phổ thông cho thấy
phương pháp dạy học của giáo viên chưa theo kịp việc đổi mới nội dung của
sách. Bài viết trong sách trình bày ngắn gọn có tính gợi mở thì giáo viên chưa có
đủ độ sâu về kiến thức để hướng dẫn học sinh tìm ra những kiến thức chìm trong
sách (ví như: nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của sự kiện, đánh giá nhân
vật ). Kênh hình tăng lên so với sách cũ rất nhiều làm đa dạng nhận thức và bài
học sinh động hơn, học sinh học tập nhẹ nhàng hơn, song nhiều giáo viên chưa
hiểu hết nội dung kênh hình, hiệu quả sử dụng chưa cao. Vẫn còn nhiều giáo
viên quan niệm: hỏi thật nhiều là đổi mới, cho nên chỉ sử dụng câu hỏi mà
không khai thác hết các nguồn kiến thức khác.5
Thứ năm: Ở các trường phổ thông hiện nay, giáo viên chỉ tập trung vào các
giờ lên lớp, chưa quan tâm đến các hoạt động ngoài lớp.
Thứ sáu : Trong giảng dạy lịch sử hiện nay có nhiều vấn đề thời sự nóng
hổi phải được lồng ghép để giáo dục cho học sinh ,nhiều vấn đề “mở” phải nêu
ra để cho học sinh được phát huy hết tính chủ động tìm tòi của mình để kích
thích sự say mê học tập của các e đối với bộ môn cũng như hiểu biết chính xác
của học sinh về các vấn đề thời sự đang diễn ra tác động đến lịch sử
Như vậy, việc học sinh không thích học lịch sử, chưa tích cực trong hoạt
động học tập nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ phương pháp dạy học của giáo
viên. Vì vậy, việc đề xuất các biện pháp sư phạm giúp học sinh phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học lịch sử là vấn đề cấp thiết.
là đổi mới phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực. Vì vậy, giờ học biến thành giờ “hỏi – đáp” quá căng thẳng, khô khan, làm học sinh không hứng thú học tập. Bởi vì, hỏi – đáp chỉ là một cách, muốn phát huy cách dạy học này phải kết hợp với các phƣơng pháp khác, đặc biệt là phƣơng pháp bộ môn. Thứ ba: Không ít giáo viên, nhất là giáo viên ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa ít đƣợc cập nhật thông tin khoa học, chƣa nhận thức đƣợc tầm quan trọng của việc đổi mới phƣơng pháp dạy học hiện nay và chƣa hiểu rõ nội dung của công việc này. Vì vậy trong giờ học lịch sử, thầy làm việc là chủ yếu, trò thụ động ghi chép còn khá phổ biến. Thậm chí, hiện tƣợng đọc chép còn tràn lan. Mặt khác, một số giáo viên tuy nhận thức đƣợc vấn đề của đổi mới phƣơng pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng nhƣng lại lấy nguyên nhân học sinh yếu kém không thể vận dụng các biện pháp đổi mới nhằm phát huy tính tích cực của học sinh đƣợc, cũng chỉ đọc chép, nhồi nhét kiến thức cho học sinh, cho nên không rèn luyện cho các em năng lực độc lập chiếm lĩnh kiến thức và trang bị phƣơng pháp học tập tốt. Đây là một thực tế đáng buồn hiện nay, dẫn tới tình trạng học sinh không thích học môn lịch sử. Thứ tƣ: Hiện nay SGK lịch sử đã đƣợc biên soạn theo tinh thần đổi mới, đƣợc sử dụng đại trà. Thực tiễn sử dụng SGK mới ở trƣờng phổ thông cho thấy phƣơng pháp dạy học của giáo viên chƣa theo kịp việc đổi mới nội dung của sách. Bài viết trong sách trình bày ngắn gọn có tính gợi mở thì giáo viên chƣa có đủ độ sâu về kiến thức để hƣớng dẫn học sinh tìm ra những kiến thức chìm trong sách (ví nhƣ: nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của sự kiện, đánh giá nhân vật). Kênh hình tăng lên so với sách cũ rất nhiều làm đa dạng nhận thức và bài học sinh động hơn, học sinh học tập nhẹ nhàng hơn, song nhiều giáo viên chƣa hiểu hết nội dung kênh hình, hiệu quả sử dụng chƣa cao. Vẫn còn nhiều giáo viên quan niệm: hỏi thật nhiều là đổi mới, cho nên chỉ sử dụng câu hỏi mà không khai thác hết các nguồn kiến thức khác. 5 Thứ năm: Ở các trƣờng phổ thông hiện nay, giáo viên chỉ tập trung vào các giờ lên lớp, chƣa quan tâm đến các hoạt động ngoài lớp. Thứ sáu : Trong giảng dạy lịch sử hiện nay có nhiều vấn đề thời sự nóng hổi phải đƣợc lồng ghép để giáo dục cho học sinh ,nhiều vấn đề “mở” phải nêu ra để cho học sinh đƣợc phát huy hết tính chủ động tìm tòi của mình để kích thích sự say mê học tập của các e đối với bộ môn cũng nhƣ hiểu biết chính xác của học sinh về các vấn đề thời sự đang diễn ra tác động đến lịch sử Nhƣ vậy, việc học sinh không thích học lịch sử, chƣa tích cực trong hoạt động học tập nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ phƣơng pháp dạy học của giáo viên. Vì vậy, việc đề xuất các biện pháp sƣ phạm giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học lịch sử là vấn đề cấp thiết. II.3 Các biện pháp nhằm kích thích sự hứng thú học tập của học sinh trong học tập lịch sử ở trường THPT a/ Các biện pháp chung : - Để có một giờ học mà trong đó học sinh có điều kiện phát triển tối đa năng lực hoạt động, sáng tạo theo tôi ngoài việc xác định rõ ràng mục đích yêu cầu giờ học , ngƣời giáo viên phải lựa chọn nội dung bài học đảm bảo tính khoa học , tính cơ bản , chính xác và rõ ràng để tạo điều kiện, cơ sở giúp học sinh hiểu biết lịch sử . Những sự kiện cơ bản này phải đƣợc đặt trong một không gian và thời gian mà sự kiện lịch sử đó diễn ra. Tính khoa học còn thể hiện ở việc đánh giá, giải thích tìm ra bản chất, mối quan hệ nhân quả, sự phát triển có tính qui luật của sự kiện, nhân vật lịch sử. - Phát triển các hoạt động nhận thức độc lập, nhất là tƣ duy độc lập sáng tạo của học sinh có ý nghĩa đặc biệt đối với hiệu quả bài học. Hoạt động độc lập, nhận thức của học sinh đảm bảo kết quả lĩnh hội kiến thức của các em. Có hai loại lĩnh hội kiến thức: Lĩnh hội sáng tạo dựa trên cơ sở hoạt động tƣ duy độc lập và lĩnh hội tái tạo dựa trên cơ sở nhớ lại và hiểu biết những kiến thức có sẵn. Trong giờ học lịch sử, giáo viến cần kết hợp hai loại lĩnh hội này, song đặc biệt chú ý tới lĩnh hội sáng tạo trên cơ sở hoạt động tƣ duy độc lập. - Trình bày miệng của giáo viên không chiếm quá nhiều thời gian và phải thật sinh động, gợi hình ảnh, gây xúc cảm lịch sử cho học sinh. Thiếu hình ảnh trong trình bày kiến thức, học sinh rất khó hình dung cụ thể sự kiện quá khứ. Trình bày có hình ảnh không chỉ là điểm tựa của nhận thức cảm tính, mà còn là nguồn gốc của tƣ duy trong việc hiểu bản chất và đánh giá sự kiện lịch sử. 6 Trình bày có hình ảnh gợi cảm còn gây sự hồi hộp, xúc động của học sinh, đồng tình hay phản đối, vui sƣớng hay đau khổ... sự hồi hộp xúc động làm tăng hứng thú của học sinh đối với lịch sử, hình thành nhân cách của các em, nâng cao chất lƣợng tri giác, nhớ lại và tƣ duy. Trong quá trình bày của giáo viên, việc sử dụng đa dạng phong phú các loại tài liệu nhƣ đoạn trích tài liệu lịch sử đồ dùng trực quan...Có tác dụng rất tốt, tạo nên hình ảnh lịch sử cho học sinh. -Sử dụng một cách đa dạng, kết hợp nhuần nhuyễn, hợp lý các phƣơng pháp, cách dạy học cho một bài lịch sử, đặc biệt chú ý tới dung lƣợng của các phuơng pháp để không làm nặng nề giờ học, trình bày nhồi nhét, song vẫn đạt đƣợc kết quả tối đa. b/ Các phương pháp dạy học cụ thể nhằm kích thích hoạt động tích cực, độc lập của học sinh gây hứng thú say mê trong học tập lịch sử * Thiết kế giờ học phù hợp với hoạt động tích cực của học sinh. Trong thực tế giảng dạy, để bài dạy có hiệu quả cần đặc biệt chú ý tới vấn đề tổ chức hoạt động tƣ duy độc lập của học sinh. Khẳng định rằng, cấu trúc của một bài học có thể và cần phải đa dạng, phong phú. Cấu trúc của một bài học tốt thể hiện ở việc vận dụng sáng tạo ác quy luật dạy học và điều kiện cụ thể của quá trình dạy học ở từng lớp. Thiết kế một giờ học theo hƣớng tích cực hoá học tập của học sinh đòi hỏi ngƣời Thầy nhiều công sức, suy ngẫm nội dung bài giảng. Qua nội dung của bài, xác định những kiến thức cơ bản, những ý chính, những vấn đề quan trọng nhất. Từ đó dự kiến các phƣơng pháp và biện pháp giảng dạy trên lớp để phù hợp với các loại đối tƣợng học sinh. Cũng từ đó, dự kiến và xác định các tình huống sẽ xảy ra trên lớp và dự kiến biện pháp xử lý giải quyết. Làm đƣợc những việc trên, ngƣời giáo viên lịch sử hoàn toàn chủ động trong tiết dạy của mình , mặt khác biết chuyển giao một cách khéo léo , hợp lý một phần công việc cho học sinh, tạo nên sự đồng bộ giữa việc dạy và học, giữa việc làm của thầy và hoạt động của trò trong cùng một tiết học trên lớp. * Tổ chức trao đổi, đàm thoại trong dạy học Lịch sử : Một trong những hƣớng quan trọng để chống lối dạy “ Thầy thuyết trình, trò nghe nghi ”là tổ chức tốt giờ học theo phƣơng pháp trao đổi , đàm thoại. Việc trao đổi đàm thoại giữa thầy với trò, giữa trò với trò bằng cách thảo luần nhóm không phải là một vấn đề mới mẻ trong lý luận dạy học, song trong thực tế dạy học hiện nay, đặc biệt là các bộ môn khoa học xã hội nhân văn 7 thì việc tổ chức trao đổi đàm thoại còn nhiều han chế , ít đƣợc sử dụng . Điều đó có nhiều nguyên nhân : Giáo viên sợ mất thời gian, chuẩn bị công phu , học sinh không mạnh dạn trao đổi... Mặc dù vậy, theo tôi việc trao đổi đàm thoại trong dạy học lịch sử vẫn là rất cần thiết . Việc trao đổi đàm thoại trong dạy học lịch sử đƣợc tôi áp dụng tiến hành dƣới các hình thức chủ yếu sau: - Trao đổi tái hiện : Nhằm gợi lại những kiến thức đã học để tiếp thu kiến thức mới, để khái quát hoá và hệ thống hoá kiến thức . Nó giúp học sinh củng cố , hiểu sâu hơn kiến thức cũ , làm cơ sở cho việc tiếp nhận kiến thức mới, không bị gián đoạn trong nhận thức. - Trao đổi theo hình thức thảo luận nhóm Sau khi áp dụng hình thức trao đổi tái hiện .nhóm nhƣ vậy, học sinh rất hứng thú học tập, chuẩn bi mọi điều kiện chờ đón cho một tiết học mới. Ngoài ra , phƣơng pháp trao đổi, đàm thoại trong dạy học lịch sử đƣợc thực hiện bằng cách giáo viên hỏi và tổ chức để học sinh trả lời , cũng có thể tiến hành giữa học sinh với nhau, bản thân mỗi học sinh tự đặt câu hỏi và trả lời. Song, vấn đề đặt ra là phải tuân thủ những yêu cầu sƣ phạm . Các câu hỏi và tổ chức trao đổi thế nào cho đúng với dự định sƣ phạm. * Phương pháp sử dụng hệ thống các câu hỏi trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. - Khi xây dựng và sử dụng hệ thống các câu hỏi nhằm phát huy năng lực hoạt động độc lập của học sinh tôi dã thực hiện những yêu cầu về mặt sƣ phạm sau : Câu hỏi phải rõ ràng: Nêu đƣợc vấn đề cần đặt ra để có thể hiểu đúng , sâu hơn sự kiện. Câu hỏi nhƣ vậy đòi hỏi học sinh phải có những thao tác tƣ duy mới tìm đƣợc câu trả lời thích đáng . Không nên đặt câu hỏi mà học sinh chỉ cần trả lời một cách đơn giản có hay không. Câu hỏi phải mang tính chất bài tập nhận thức: Liên quan đến hứng thú, những cảm xúc mạnh mẽ của học sinh, phải gây ra cảm giác ngạc nhiên khi đối chiếu cái chƣa biết và cái đã biết sau khi trả lời đúng câu hỏi. Câu hỏi phải vừa sức đối với học sinh, không nên để học sinh thoả mãn đi đến chủ quan về vốn hiểu biết của mình. Dù học sinh đã trả lời đúng và đủ yêu cầu của câu hỏi nêu ra, song cần phải tiếp tục suy nghĩ để trả lời hay hơn, sâu sắc hơn 8 *Biện pháp sử dụng tranh ảnh với khả năng độc lập học tập lịch sử của học sinh . - Các loại tranh, ảnh đƣợc sử dụng trong dạy học lịch sử, dƣới nhiều hình thức khác nhau, là nguồn tri thức cung cấp cho học sinh, chứ không phải chỉ là phƣơng tiện minh hoạ, tăng “mầu sắc”, “hình ảnh” cho sách giáo khoa vào giờ học. Do đó, việc chống “dạy chay” trong dạy học Lịch sử không có nghĩa là phải sử dụng bản đồ , mà phải sử dụng mọi đồ dùng, phƣơng tiện trực quan khác phù hợp với nội dung, điều kiện của giờ học. Tranh ảnh dùng trong dạy học lịch sử là loại tƣ liệu trực quan, nghệ thuật tạo hình khác nhau, phản ánh hiện thực lịch sử ở những góc độ khác nhau. Chính vì vậy, để tạo cho giờ học sinh động , học sinh hiếu rõ hơn về bản chất lịch sử, nhân vật lịch sử, tôi đã áp dụng tối đa- triệt để đồ dùng hơn nữa phải khai thác đƣợc những kênh hình trong sách giáo khoa. Việc sử dụng tranh, ảnh trong giờ học Lịch sử phải dựa vào những nguyên tắc của phƣơng pháp trực quan. ở đây chúng ta tập trung trình bày một số vấn đề về việc phát huy năng lực độc lập tƣ duy theo hƣơng hoạt động hoá ngƣời học. - Việc giáo viên cung cấp kiến thức bao giờ cũng phải gắn liền với trang bị cho học sinh phƣơng pháp, kĩ năng lĩnh hội kiến thức. Mối quan hệ giữa tri thức và kĩ năng quy định việc phát huy hoạt động hoá ngƣời học trong học tập nói chung, trong sử dụng tranh ảnh nói riêng. Cần tránh tình trạng đƣa tranh, ảnh trong giờ học mà học sinh không đƣợc quan sát, nhật xét về nội dung hoặc chỉ thấy “đẹp” hay “ xấu”. Cách dạy này không gây đƣợc hứng thú, lại ảnh hƣởng đến nhận thức của học sinh. Tranh, ảnh đuợc sử dụng phải nhằm các mục đích chủ yếu sau: + Bằng chứng về sự tồn tại của hiện thực Lịch sử. + Khôi phục hình ảnh của quá khứ có liên quan. + Giải thích về sự kiện để rút ra kết luận khái quát, bài học cho cuộc sống hiện nay... Vì vậy, sau khi xác định tranh, ảnh là tài liệu gốc, phản ảnh đúng sự kiện đang học, giáo viên hƣớng dẫn học sinh quan sát kỹ, rồi trình bày những nhận xét về hiện vật. Những chi tiết nào phản ánh đƣợc toàn bộ, hay từng bộ phận của sự kiện. ở đây cần lƣu ý cho học sinh đến các chi tiết quan trọng, về những nội dung cơ bản, tránh việc bị thu hút vào các chi tiết phụ, nêu những sự kiện không cơ bản, không bản chất, chỉ miêu tả hiện tƣợng bề ngoài mà không đi sâu vào 9 bản chất sự vật. Những chi tiết của tranh, ảnh đƣợc nêu ra, đƣợc dẫn dắt kem theo các loại tài liệu khác có liên quan càng giúp cho học sinh hiểu sâu sắc sự kiện. Tiếp đó giáo viên hƣớng dẫn học sinh trình bày tổng hợp nội dung sự kiện qua tranh, ảnh dƣới hình thức một bài miêu tả hay tƣờng thuật. Việc sử dụng tranh, ảnh trong dạy – học Lịch sử nhƣ vậy không hề làm thời giờ vốn ít trong giảng dạy mà còn tiết kiệm thời gian, huy động tối đa năng lực tƣ duy độc lập của học sinh, làm cho các em hứng thú hiệu quả bài học cao. Ngoài việc sử dụng tranh, ảnh trong bài cung cấp kiến thức mới, giáo viên cần lƣu ý đến việc sử dụng các loại bài học khác, đặc biệt là bài kiểm tra. Để thực hiện tốt việc sử dụng tranh, ảnh trong dạy học Lịch sử theo hƣớng “Hoạt động hoá ngƣời học”, giáo viên cần phải sƣu tầm tài liệu nắm vững nội dung tranh, ảnh, chủ động quản lý giờ học, phát huy năng lực độc lập, hoạt động tƣ duy của học sinh. Công việc này không chỉ đòi hỏi tinh thần, ý thức trách nhiệm mà còn đòi hỏi cả về trình độ lẫn chuyên môn, nghiệp vụ cao cuả giáo viên. II.4. Hiệu quả thực hiện đối với hoạt động giáo dục ở trường THPT a/ Minh họa liên hệ Trong quá trình giảng dạy của mình ,bản thân tôi đã áp dụng tất cả những biện pháp nêu trên vào giờ dạy và kết quả là đã tạo nên sự hứng thú say mê của học sinh trong học tập rất cao ,các e say mê môn học ,chủ động sáng tạo với kiến thức bộ môn .Đặc biệt ở lớp 12 những bài có tính liên hệ thực tế đã tạo cho các em sự thích thú ,ham học Ví dụ1 : Dạy bài 4-phần Lịch sử thế giới “Các nước Đông Nam á và Âns độ ” đặc biệt ở mục thứ 3 “Sự ra đời của tổ chức ASEAN”.Sau khi giáo viên dạy cho học sinh hiểu về hoàn cảnh,quá trình ra đời cũng nhƣ nguyên tắc hoạt động ,quá trình phát triển và vai trò của tổ chức thì giáo viên sẽ liên hệ đến sự kiện ngày 31/12/2015 về sự ra đời của Cộng đồng ASEAN . 10 Qua sự kiện này Giaó viên có thể nêu một số câu hỏi nhƣ: - Em biết gì về cộng đồng ASEAN? - 3 Trụ cột chính của cộng đồng này là gì ? - Nêu ý nghĩa sự ra đời của Cộng đồng này đối với Hiệp hội ,Khu vực và từng nƣớc (đặc biệt là nƣớc ta).. Giáo viên có thể dùng máy chiếu những đoạn băng ,hình ảnh về sự thành lập cộng đồng ở những vấn đề sau: - Sự thành lập cộng đồng ASEAN 2015 là mốc lịch sử của tiến trình liên kết ASEAN sau gần 5 thập kỉ tồn tại, phát triển ,ASEAN đã,đang và sẽ mang lại những lợi ích quan trọng ,thiết thực cho các nƣớc thành viên ,mà quan trọng là tạo môi trƣờng khu vực hòa bình và ổn định để mỗi nƣớc tập trung phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế . - Cộng đồng ASEAN gồm ba trụ cột chính cộng đồng Chính trị an ninh ( APSC), Cộng đồng kinh tế ( AEC) và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ( ASCC). - Cộng đồng ASEAN là nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc đảm bảo hòa bình ,ổn định và hợp tác vì phát triển ở khu vực .Đó là kết quả của những liên kết nội khối ,hợp tác về chính trị an ninh(kể cả với đối tác )nhất là ngăn ngừa xung đột thông qua việc xây dựng lòng tin và chia sẻ các qui tắc ứng xử - Cơ hội của Việt Nam khi gia nhập Cộng đồng: + Việt Nam có đƣợc một thị trƣờng rộng lớn hơn + Cơ hội mở rộng xuất nhập khẩu 11 + Cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam + Cơ hội thu hút các nguồn đầu tƣ - Thách thức của Việt Nam khi gia nhập Cộng đồng: + Sự chênh lệch về trình độ phát triển so với các nƣớc ASEAN thể hiện ở cả qui mô vốn kinh tế , các doanh nghiệp ,trình độ khoa học kĩ thuật ,tay nghề lao động + Năng suất lao động của Việt Nam thấp (bằng nửa so với Phi líp pin,2 lao động Thái lan ,Mianma bằng 5 ngƣời lao động Việt nam ,1 lao đông Sinh ga po bằng 15 lao động Việt Nam.. + Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt ,khốc liệt cho các doanh nghiệp Việt Nam (khi hàng rào thuế quan và phi thuế quan bị xóa bỏ). Ví dụ2 : Dạy bài 10 Lịch sử Thế giới ở phần II “Xu thế toàn cầu hóa và ảnh hưởng của nó ” - Sau khi ngƣời giáo viên dạy cho Học sinh về khái niệm ,biểu hiện của xu thế này cũng nhƣ những mặt tichs cực và hạn chế của xu thế khi hội nhập của các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam .Từ đó học sinh sẽ có những 12 sự liên hệ thực tiễn ,nhận thức đúng đƣợc những khó khăn thách thức cũng nhƣ cơ hội của đất nƣớc trƣớc tác động của Toàn cầu hóa . - Giáo viên sẽ đƣa vấn đề thời sự “Thời cơ và thách thức khi Việt Nam gia nhập TPP”.Qua phần liên hệ này cần làm cho học sinh nhận thức: +Tham gia bất kì một hiệp định thƣơng mại tự do nào cũng bao gồm nhiều cơ hội và thách thức mới.Bên cạnh những sức ép về cạnh tranh giữa các nƣớc thành viên còn là những trận đọ sức quyết liệt giữa các doanh nghiệp ngay trên sân nhà .Đặc biệt là trong 3 ngành :Ngân hàng ,viễn thông và phân phối .TPP sẽ mang lại quyền tiếp cận tự do cho các ngành dịch vụ + Hiện nay ,năng lực xâm nhập thị trƣờng nƣớc ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế ,thậm chí bị lấn lơ]ts ngay thị trƣờng trong nƣớc khi doanh nghiệp nƣớc ngoài ồ ạt vào nƣớc ta khi TPP có hiệu lực .Để có thể quản lí tốt Việt Nam cần có hệ thống hành lang pháp lí mới về công đoàn ,ngƣời lao động .bản quyền sở hữu trí tuệ ,bảo hộ ,môi trƣờng + Nếu không làm tốt hành lang này Việt Nam rất dễ bị sa lầy trong những rủi ro lâu dài .Qui luật sinh tồn và đào thải sẽ ngày một rõ nét hơn khi hội nhập kinh tế sâu rộng .Nếu không chuẩn bị thật tốt và không chú trọng nâng cao năng lực ,mở rộng tầm nhìn thì doang nghiệp Việt sẽ không thể bơi xa theo xu hƣớng mua bán hoặc sát nhập mạnh mẽ . Nhƣ vậy thông qua sự liên hệ này ,học sinh sẽ có thêm sự nhìn nhận về một vấn đề thời sự có liên quan và từ đó có những nhận thức đúng hơn cho bản thân trƣớc ngƣỡng cửa của quá trình hội nhập b/Kết quả cụ thể Kết quả cụ thể, tôi xin đƣợc minh chứng bằng 3 lớp đại diện trong tổng số các lớp tôi đƣợc phân công trực tiếp giảng dạy trong 2015 – 2016 nhƣ sau: Bảng thống kê kết quả học tập của các lớp học sinh tại trường THPT Lê văn Hưu năm học 2015-2016 Xếp loại Lớp 12C1 Sĩ số 43 Lớp 12C2 Sĩ số 46 Lớp 12C6 Sĩ số 45 Giỏi 40% 45% 17,7% Khá 60% 55% 65,1% Trung bình 2,2% 13 III. KẾT LUẬN 1/Kết luận Nhƣ vậy, quá trình học tập lịch sử của học sinh về bản chất là quá trình hoạt động nhận thức.Qúa trình này diễn ra tƣơng tự nhƣ quá trình con ngƣơi nhận thức hiện thực và có nhiều nét giống với quá trình nhà khoa học đi tìm chân lí khách quan.Trên đại thể, quá trình nhận thức của học sinh trong học tập sẽ diễn ra nhƣ sau:Trƣớc hết họ tiếp cận với những sự kiện ,hiện tƣợng giáo trình lịch sử cụ thể thông qua bài giảng của ngƣời giáo viên và qua các tài liệu học tập nhƣ sách giáo khoa ,sách đọc thêm ,tranh ảnh ,bản đồ và các tài liệu khác.Sự tiếp cận với kiến thức cụ thể này sẽ tạo ra ở học sinh những tri giác, biểu tƣợng lịch sử.Chính nhờ quá trình nhận thức này sẽ giups học sinh hứng thú, say mê trong dạy học lịch sử. 2/ Kiến nghị -Về phía phụ huynh học sinh: Kiểm tra đôn đốc việc chuẩn bị bài, học bài của học sinh ở nhà. Tạo điều kiện và khuyến khích học sinh học tập -Về phía trƣờng: Hỗ trợ tích cực cho giáo viên trong việc áp dụng phƣơng pháp mới vào dạy học .Động viên khuyến khích giáo viên cả về vật chất lẫn tinh thần -Về phía ngành: Hỗ trợ thêm về phƣơng tiện thiết bị nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác dạy học của giáo viên. Với những vấn đề trình bày ở trên, dựa vào thực tế giảng dạy nhiều năm và đặc biệt trong năm học 2015 – 2016 này. Tôi có một ít kinh nghiệm nhỏ nhoi về cơ sở lý luận và thực tiễn. Đề tài này chắc chắn còn những hạn chế nhất định, rất mong đƣợc sự góp ý của các bạn bè đồng nghiệp, các thầy cô giáo và các bạn có quan tâm đến vấn đề này. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƢỞNG ĐƠN VỊ THPT Lê Văn Hưu, ngày 03 tháng 6 năm 2016 CAM KẾT KHÔNG SAO CHÉP Lê Thị Bình 14 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phát triển tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học Bộ giáo dục và đào tạo 1993 2. Việc dạy học môn lịch sử ở các trƣờng phổ thông NXBĐHQG HN 1996 3. Tài liệu chuẩn kiến thức Lịch sử – chƣơng trình Lịch sử THPT Việt nam – NXB Giáo dục, Hà nội 4. Phƣơng pháp dạy học Lịch sử (Tập 2) – Phan Ngọc Liên – NXB Đại học sƣ phạm, Hà nội – 2007. 5. SGK, GV 12THPT 6. Một số tài liệu khác
File đính kèm:
- skkn_lam_the_nao_de_gay_hung_thu_cho_hoc_sinh_trong_gio_lich.pdf