SKKN Góp phần hình thành năng lực giải quyết vấn đề và năng lực sáng tạo cho học sinh Lớp 10 qua dạy học bài Chuyện chúc phán sự đền Tản Viên - Nguyễn Dữ chương trình Ngữ văn Lớp 10 THPT

Thực trạng dạy.

Tôi đã gửi phiếu thăm dò đến một số giáo viên dạy Ngữ văn ở ba trường

THPT nơi mình công tác và các trường lân cận để khảo sát một số ý kiến xung

quanh vấn đề dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực ở các trường

này.

Khi được hỏi về mục đích của việc dạy học theo định hướng phát triển năng

lực, 12 người (100%) cho rằng, đó là một trong những mục tiêu quan trọng cần

hướng đến của các giờ dạy học văn hiện nay.

Về chất lượng các giờ học, đặc biệt tiết học Chuyện chức phán sự đền Tản

Viên (Nguyễn Dữ), các đồng chí đã thực hiện, không ai khẳng định các giờ dạy của

mình đều thực hiện tốt, 4 người (33.3%) tự nhận đã đạt mức khá, đã có chủ ý dạy

học hướng đến các năng lực cần có cho học sinh, tuy vậy vẫn còn mờ nhạt, chủ yếu

vẫn thói quen truyền thụ kiến thức. 8 người (66.7%) cho rằng giờ dạy của mình đạt

mức trung bình trong việc hướng đến rèn luyện các năng lực cho học sinh.

Về việc đánh giá thái độ của học sinh đối với các tiết học văn, tiết học

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ), 3 người (25%) cho rằng học sinh

thường xuyên chuẩn bị bài đầy đủ, có chất lượng, phát biểu xây dựng bài, tham gia

hoạt động nhóm trên lớp hăng hái, thực hiện bài tập giáo viên giao về nhà đầy đủ,

7 người (58.3%) cho rằng học sinh có thái độ bình thường, 2 người (16.7%) khẳng

định học sinh không thích thú môn học này, ít phát biểu, làm việc không hăng hái,

chủ yếu do giáo viên chỉ định.

Về phương pháp và phương tiện dạy học mà các giáo viên đã sử dụng, 8

giáo viên (66.7%) đã sử dụng thuyết giảng, 3 người (25%) dùng vấn đáp, 1 người

(8.3%) sử dụng phương pháp khác có kèm công nghệ thông tin trong một số giờ

dạy.

Sau khi học các tiết học, kĩ năng vận dụng các năng lực cần có của học sinh

trong lớp học cũng như trong các hoạt động khác, 4 giáo viên (30%) cho biết,

nhiều em đã vận dụng linh hoạt các năng lực như hợp tác, giải quyết tình huống,

năng lực tự quản cá nhân . một cách có hiệu quả. Nhiều em đã có sự vận dụng

sáng tạo kiến thức đã học để tạo ra những sản phẩm có giá trị như những bài văn

đạt điểm cao trong các kì thi hoặc những văn bản thơ, văn xuôi trong các kì thi viết

báo tường nhân ngày 20/11. Một số em có thể thực hiện dẫn chương trình, biên

kịch, tổ chức các hoạt động tập thể như các hoạt động ngoài giờ lên lớp, lễ tri ân và12

trưởng thành của học sinh khối 12. 8 người (70%) có ý kiến, các em mới chỉ tiếp

thu kiến thức trên lớp, vấn đề phát triển năng lực còn nhiều hạn chế. Học sinh còn

ngại đưa ra ý kiến cá nhân, ngại tranh luận, bảy tỏ thái độ. Một số em chưa quản lí

tốt kế hoạch cũng như hành vi, thái độ của mình trong những tình huống nhất định.

pdf51 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 03/03/2022 | Lượt xem: 1004 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Góp phần hình thành năng lực giải quyết vấn đề và năng lực sáng tạo cho học sinh Lớp 10 qua dạy học bài Chuyện chúc phán sự đền Tản Viên - Nguyễn Dữ chương trình Ngữ văn Lớp 10 THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bên nhà vua. Người em trong truyện Cây khế nhờ sự lương thiện, thật thà nên đã 
được hạnh phúc. Từ trước đến nay, cha ông ta luôn đề cao cái thiện, chính nghĩa 
thắng gian tà. Bởi cái thiện tạo nên nhiều giá trị tốt đẹp cho mỗi người, mỗi xóm 
làng, cả đất nước. Nếu chúng ta sống trong cái xấu, cái ác, không có chính nghĩa 
thì tinh thần sẽ hoảng loạn, cuộc sống bất an và bản than mình cũng bị cái xấu, cái 
ác làm hoen ố. Bởi vậy, cái thiện và chính nghĩa rất cần cho mỗi chúng ta. 
 ( Hoàng Thùy Trang – 10H) 
Với những câu hỏi mang tính cá nhân, các em có thể lựa chọn nhanh như các 
câu hỏi đàm thoại, câu hỏi tình huống tái hiện, câu hỏi tình huống lựa chọn, câu 
hỏi nhanh tổng kết nội dung, nghệ thuật qua kĩ thuật tia chớp. Tuy nhiên, ở các câu 
hỏi cần trí tuệ tập thể, sự đề xuất lựa chọn giải pháp cần xem xét kĩ. Khi tham gia 
dự án thiết kế bối cảnh cho phim, vẽ tranh, mỗi học sinh có đề xuất khác nhau. Các 
bạn lớp 10B chọn giải pháp đóng phim, trong khi đó, học sinh lớp 10N chọn thiết 
kế trang phục cho các nhân vật trong truyện. Quá trình lựa chọn giải pháp cho các 
yêu cầu là sự thống nhất giữa các thành viên. Như vậy, việc lựa chọn giải pháp 
không những giúp các em hình thành sự tự quyết, tự tin mà còn phát huy tính hợp 
tác và tích cực. 
2. Năng lực sáng tạo 
2.1. Năng lực phát hiện điểm tương đồng, khác biệt 
Khả năng phát hiện điểm tương đồng và khác biệt là một trong những năng 
lực đánh giá mức độ sáng tạo của học sinh. Với những học sinh có tư chất thông 
mình, các em luôn đặt ra những câu hỏi xung quanh các vấn đề để thấy được điểm 
giống nhau, khác nhau trong từng vấn đề. Ở bài giảng này, tôi đã có những câu hỏi 
44 
đưa học sinh vào những tình huống yêu cầu phải phát hiện ra điểm tương đồng, 
khác biệt của vấn đề để có thể lựa chọn phương án. Ví dụ ở câu hỏi khởi động, với 
em, thế nào là người có lòng dũng cảm, hành động dũng cảm mà em đã thực hiện 
là gì? Học sinh cần có sự phân biệt điểm tương đồng và khác biệt của một số hành 
động mình đã làm để trả lời đúng hành động dũng cảm của mình, bởi không phải 
hành động nào của con người cũng cho là dũng cảm. Học sinh có thể nói các hành 
động như cứu người chết đuối, dũng cảm nhận lỗi lầm của mình Nó khác với 
việc mình nhảy vào đánh bạn hỗ trợ cho bạn thân. Đó là hành động không thể cho 
là dũng cảm. 
Ở câu hỏi trắc nghiệm giáo viên đưa ra cho học sinh khi áp dụng phương 
pháp thực hành, các em cũng cần phân tích điểm tương đồng và khác biệt trong các 
đáp án để lựa chọn phương án đúng. Bởi bản chất của những phương án trắc 
nghiệm là chúng gần giống nhau hoặc liên quan với nhau. 
Kết thúc vụ án, Tử Văn được đền đáp. Lòng tốt và sự cương trực đã được biểu 
dương, ân thưởng. Hiểu một cách sâu xa, khái quát nhất, đó là ai thắng ai? 
a. Chính thắng tà 
b. Thật thắng giả 
c. Thiện thắng ác 
d. Nội tộc thắng ngoại bang 
Trong câu này, các đáp án đều có lí nhưng để hiểu đúng mục đích của tác 
giả và nội dung gắn với nhân vật chính của truyện thì chúng ta thấy đáp án a mới 
chính xác. 
Như vậy, khả năng phân tích để phát hiện điểm tương đồng của học sinh khi 
đứng trước một vấn đề sẽ được rèn luyện. 
2.2. Năng lực tìm tòi, phát hiện vấn đề mới 
Phát hiện vấn đề mới là yêu cầu cao trong năng lực sáng tạo, tạo tiền đề cho 
việc giải quyết vấn đề bằng con đường khác nhau. Khả năng này có được khi 
chúng ta đặt người học trước những tình huống có vấn đề. Trong bài học này, tôi 
thấy, khi cho học sinh phát biểu ý kiến của mình về lời bình cuối truyện, các em đã 
có những phát hiện mới như quan niệm về sự cứng cỏi trong cuộc sống ở thời điểm 
hiện tại đôi khi chưa hẳn đúng, nếu cứng cỏi thể hiện quan điểm chính nghĩa bất cứ 
đâu thì có khi sẽ gây hại cho chính bản thân mình (quan điểm của Trần Văn Sang 
lớp 10B). Về cách thể hiện, học sinh Nguyễn Thu Hiền lớp 10B đã đưa ra ba câu 
chuyện: một câu chuyện kể về việc bạn học sinh bảo vệ một bạn nữ bị ức hiếp 
ngay cổng trường, một câu chuyện kể về việc một hành khách tố cáo người bên 
cạnh ăn cắp và bị đánh, một câu chuyện kể về việc bạn Nam bị cô giáo phạt oan 
nhưng bạn Nam biết rõ nhưng không có ý kiến. Từ đó, em đưa ra kết luận chúng ta 
cần cứng cỏi nhưng cần mềm dẻo trong ác trường hợp nhạy cảm. Cách triển trai 
45 
bài văn này không giống bài văn theo bố cục ba phần nói chung. Đó cũng là cách 
giải quyết vấn đề sáng tạo. 
Ở yêu cầu đóng phim, học sinh cũng đã sáng tạo ra lời thoại mới, không phụ 
thuộc sánh giáo khoa hoàn toàn, điều này khiến lời thoại phong phú, hấp dẫn, sinh 
động hơn. Học sinh đã chuyển tải một văn bản văn học sang kịch bản sân khấu, đó 
là quá trình tìm tòi và phát hiện. 
Khi thực hiện phương pháp dạy học nhóm với nội dung hình dung ra cuộc 
gặp gỡ giữa các nhân vật Thổ công, Ngô Tử Văn, các phán quan ở âm phủ, tác giả 
để bày tỏ thái độ của mỗi người về hành động đẩy lùi cái ác, cái xấu, học sinh đã 
có cơ hội tưởng tượng, đặt mình vào vị trí của các nhân vật để nói lên quan điểm 
của mình. 
2.3. Năng lực giải quyết vấn đề bằng các con đường khác nhau 
Khả năng cao nhất của sự sáng tạo là đưa ra các giải pháp khác nhau khi giải 
quyết vấn đề. Sự phong phú, đa dạng của các phương án, phương án tối ưu nhất 
giúp chúng ta thuận lợi, hiệu quả hơn trong công việc. Khi học sinh đề xuất, lựa 
chọn các giải pháp khác nhau đó chính là lúc các em đang giải quyết vấn đề theo 
các cách khác nhau. Ở bài học này, tôi thấy học sinh đã có nhiều sự sáng tạo: 
- Học sinh lớp 10H vẽ sơ đồ tư duy hình cây, lớp 10N vẽ sơ đồ tư duy dấu ngoặc. 
- Học sinh lớp 10N vẽ tranh thiết kế trang phục cho các nhân vật trong truyện, học 
sinh lớp 10B đóng kịch. 
- Trong bài tập tưởng tượng cuộc giao tiếp giữa các vị thần xung quanh đền miếu, 
Thổ công, Tử Văn và người kể chuyện để bàn về chủ đề: cần hành động như thế 
nào trước cái xấu, cái ác, học sinh lớp 10B đã có nhiều cách giải quyết khác nhau. 
Tổ một, các em cử ra 4 em đóng 4 nhân vật và đối thoại một cách thoải mái. Tổ 2, 
các em viết vào 4 ô vuông có gắn tên các nhân vật. Tổ 3, một học sinh đứng dậy 
trình bày kết quả của nhóm về ý kiến các nhân vật. Còn tổ 4, các em các em vẽ 
dạng truyện tranh để thể hiện ý tưởng của mình. 
- Trong quá trình diễn kịch, học sinh đã có sự sáng tạo lời thoại khiến câu chuyện 
gần gũi, hấp dẫn hơn. 
Như vậy, dù ít hay nhiều, trong quá trình làm việc, học sinh đã có những 
cách lựa chọn khác nhau, từ đó bồi dưỡng khả năng sáng tạo của học sinh. Là một 
giáo viên môn văn, chúng ta cũng cần linh hoạt, tạo cơ hội cho học sinh của mình 
sáng tạo, giúp các em hình thành kĩ năng này. 
46 
C. KẾT LUẬN 
I. QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU 
Tôi đã kết hợp với các giáo viên trong nhón văn của trường mình và một số 
trường lân cận để theo dõi, phân tích khả năng giải quyết vấn đề và năng lực sáng 
tạo của học sinh địa phương mình trong học tập cũng như trong một số hoạt động 
tập thể. Từ nhận định ban đầu, chúng tôi đã tiến hành phân tích những ưu điểm và 
tồn tại của đối tượng học sinh vùng nông thôn, cách dạy học hiện tại mà các giáo 
viên đang áp dụng, đặc điểm của việc học văn với học sinh lớp 10, để từ đó đưa ra 
cách dạy phù hợp không chỉ giúp học sinh nắm được nội dung kiến thức mà còn 
phát triển được kĩ năng cơ bản, đặc biệt là kĩ năng giải quyết vấn đề và năng lực 
sáng tạo để các em có thể học tập và tiến hành công việc một cách khoa học, hợp lí 
và có hiệu quả cao nhất. 
Tôi đã tham khảo những tài liệu liên quan đến việc đổi mới dạy học trong 
những năm gần đây, đặc biệt là nghị quyết của Đảng, chủ trương của Bộ giáo dục, 
những yêu cầu đổi mới đặt ra cho người giáo viên trong bối cảnh mới cùng với 
những công trình nghiên cứu liên quan đến việc phát triển năng lực cho học sinh 
đặc biệt hai năng lực trên khi học môn văn, những tài liệu về bài giảng này để tiến 
hành nghiên cứu, áp dụng. 
Trong quá trình dạy học, tôi đã áp dụng phương pháp này vào bài dạy 
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ) cho học sinh. Tôi đã theo dõi quá 
trình học tập của các em trong tiết học cũng như trong các bài kiểm tra để thu kết 
quả để có sự bổ sung, chỉnh sửa phù hợp. 
II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
1. Tính khoa học 
Công trình được hoàn thiện mang tính khoa học cao, hợp lí bao gồm kết cấu 
ba phần lớn: mở đầu giới thiệu khái quát về lí do chọn đề tài; phần nội dung trình 
bày khoa học các phần chính của công trình bao gồm cơ sở của đề tài, giải pháp 
thực hiện và kết quả đạt được từ những giải pháp đó; phần kết luận đưa ra những 
kết luận liên quan đến đề tài... 
Nội dung trong các phần của công trình được trình bày có luận điểm rõ ràng, 
luận cứ, luận chứng xác thực, số liệu cụ thể. Ở phần nội dung, các ý lớn được sắp 
xếp theo thứ tự cơ sở của đề tài, đến các giải pháp thực hiện và cuối cùng là kết quả 
đạt được. Giữa các ý lớn có mối quan hệ nhân quả với nhau. Phần cơ sở lí luận của 
đề tài được xây dựng trên cơ sở những nội dung của các thông tư, chỉ thị, quy định, 
quan điểm về đổi mới dạy học theo phát triển năng lực. Các nội dung này rõ ràng, 
cụ thể, khoa học. Phần cơ sở thực tiễn là kết quả của việc khảo sát thực tế quá trình 
dạy học ở địa phương. Các số liệu đưa ra cụ thể, xác thực. Trên cơ sở lí luận và 
thực tiễn, công trình đưa ra các giải pháp mới mẻ, có tính hiệu quả. Các giải pháp 
được trình bày theo thứ tự các phương pháp thực hiện, phương tiện tiến hành và 
47 
quá trình rèn luyện kĩ năng của học sinh.... Phần kết luận chỉ ra những đóng góp 
của đề tài và một số đề xuất. Giữa các phần có sự phân tích, đánh giá, tổng hợp để 
đề tài có tính thuyết phục cao. 
2. Tính mới 
Công trình đưa ra nội dung và một số cách tổ chức tiết dạy để tiến hành dạy 
bài Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ) một cách có hiệu quả trong 
việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học sinh. 
Về nội dung, tôi đã chọn những nội dung đúng chuẩn kiến thức đòi hỏi khi 
cung cấp văn bản trích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ) để các em 
hiểu được vẻ đẹp của Ngô Tử Văn – đại diện cho chính nghĩa chống lại thế lực 
gian tà, qua đó bồi dưỡng thêm lòng yêu chính nghĩa và niềm tự hào tri thức nước 
Việt; thấy được nghệ thuật kể chuyện sinh động, độc đáo, giàu kịch tính của tác giả 
Nguyễn Dữ. Để củng cố kiến thức và kĩ năng cho học sinh, tôi đã đưa ra một số 
dạng câu hỏi, bài tập khác nhau ở cấp độ thấp, vừa và cao. Như vậy, nội dung của 
bài giảng đầy đủ, phong phú, có chiều sâu giúp các em nắm được kiến thức, hình 
thành và nâng cao kĩ năng của mình. 
Về phương pháp, công trình đã đưa ra một số phương pháp được áp dụng 
linh hoạt trong bài giảng bao gồm phương pháp truyền thống lẫn các phương pháp 
dạy học mới, đồng thời khéo léo kết hợp các kĩ thuật dạy học.... Các phương pháp 
và kĩ thuật này giúp cho giờ học sôi nổi, học sinh tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri 
thức thay vì thụ động nhận kiến thức từ giáo viên như trước đây, qua đó rèn luyện 
kĩ năng cho các em. 
Về phương tiện dạy học, ngoài các phương tiện truyền thống, giáo viên đã sử 
dụng phiếu máy chiếu, bảng phụ để các em chủ động tiến hành tìm hiểu kiến thức. 
Về kiểm tra đánh giá, bài viết này cho thấy, giáo viên không chỉ đánh giá học 
sinh trong giờ học qua việc chuẩn bị, phát biểu xây dựng, ghi chép bài của học sinh 
mà đánh giá cả quá trình các em nhận thức, giải quyết các vấn đề của mình như thế 
nào sau giờ học. Cụ thể là giáo viên đã đánh giá việc các em vận dụng kĩ năng này của 
mình để viết đoạn văn, viết lời thoại cho đoạn trong kịch, viết bài văn nghị luận xã hội 
và trong cả trong giao tiếp hằng ngày. 
Như vậy, công trình đã đưa ra một số giải pháp cụ thể để áp dụng dạy bài 
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ) nhằm phát huy năng lực nói 
chung, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo nói riêng cho học sinh lớp 10 một cách 
khoa học và có kết quả nhất định. 
3. Tính hiệu quả 
3.1. Phạm vi ứng dụng 
Kết quả của công trình này đã được tôi áp dụng trong việc giảng dạy bài 
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ) trong chương trình Ngữ văn lớp 
48 
10 ở lớp mình đảm nhiệm trong các năm học 2018 - 2019, 2019- 2020 và có khả 
năng vận dụng để dạy học cho học sinh THPT nói chung. 
Các giáo viên trong tổ Văn của trường đã sử dụng kết quả của đề tài nghiên 
cứu này làm tài liệu tham khảo, coi như đó là một gợi ý để tiến hành dạy bài học 
này. 
3.2. Kết quả ứng dụng 
Quá trình áp dụng sáng kiến, tôi đã thu được kết quả như sau: 
Về phía giáo viên, ở những lớp tôi đã áp dụng phương pháp này, tôi thấy, 
giờ học của lớp trở nên sôi nổi hơn. Giáo viên không còn phải làm việc nhiều theo 
kiểu truyền đạt kiến thức một chiều, cung cấp tất cả kiến thức cho học sinh như 
trước. Giáo viên chỉ là người định hướng, gợi mở để dẫn dắt các em chiếm lĩnh tri 
thức, rèn giũa kĩ năng. 
Trong quá trình dạy theo định hướng năng lực, tôi nhận thấy giáo viên thuận 
lợi hơn trong việc quan sát, theo dõi, đánh giá năng lực giải quyết vấn đề và năng 
lực sáng tạo cho học sinh. Từ đó, tôi đã có sự định hướng rõ hơn cho từng đối 
tượng để đưa các em dần tới chuẩn kĩ năng cần đạt và khuyến khích, động viên 
những học sinh có năng khiếu về ngôn ngữ và thẩm mĩ để các em có thể phát triển 
năng lực này trong tương lai. 
Về phía học sinh, tôi nhận thấy, giờ học tôi áp dụng phương pháp này làm 
cho các em tập trung hơn, chủ động chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng. Học 
sinh say sưa phát biểu, tranh luận, sáng tạo. Giờ học văn không còn tẻ nhạt như 
trước nữa. Đặc biệt, kĩ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh cũng như khả năng 
phát hiện, cảm nhận, sáng tạo ngôn ngữ của các em tiến bộ hơn. Điều đó cũng thể 
hiện rất rõ trong các bài kiểm tra. 
Kết quả cụ thể của quá trình áp dụng được thể hiện trong bảng sau: 
Bảng 1: Chất lượng giờ học 
Lớp có áp dụng phương pháp này 
Năm học Lớp Kiến thức Năng lực 
2019-2020 10B 45/45 (100%) Củng cố Phát triển 
30/45 (67%) 15(33%) 
Lớp không áp dụng phương pháp này 
Năm học Lớp Kiến thức Năng lực 
2019-2020 10E 20/40 (50%) Củng cố Phát triển 
18/40 (45%) 2(4,5%) 
49 
Bảng 2: Chất lượng bài viết số 3 
Lớp có áp dụng phương pháp này 
Năm học Lớp Kết quả 
2019-2020 
10B 
Giỏi 15/45 (33,4%) 
Khá 25/45 (55,6%) 
Trung bình 5/45 (11%) 
Yếu 0 
Kém 0 
Lớp không áp dụng phương pháp này 
Năm học Lớp Kết quả 
2019-2020 
10E 
Giỏi 2/40 (5%) 
Khá 15/40 (37,5%) 
Trung bình 20/40 (50 %) 
Yếu 3/40 (7,5%) 
Kém 0 
3.3. Ý nghĩa của đề tài 
Với bản thân mình, tôi thấy đề tài có tác dụng lớn trong việc giúp tôi tiến hành 
dạy bài Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ) một cách có hiệu quả. 
Tôi đã tạo hứng thú cho học sinh trong việc tìm hiểu tài liệu liên quan đến tiết học 
giúp việc học của các em trên lớp có hiệu quả hơn. Các câu hỏi tôi đưa ra qua 
những tình huống ở các mức độ khác nhau đã kích thích được nhiều đối tượng học 
sinh tham gia xây dựng bài. Những bài tập vừa rèn luyện kĩ năng viết cũng như 
việc học sinh thoải mái để chia sẽ những khó khăn khi tưởng tượng việc nhân vật 
chính đến với mình trong tiết học đã khiến học sinh thoải mái rèn luyện kĩ năng 
ngôn ngữ của mình. Việc kiểm tra học sinh đã được tiến hành cả quá trình rèn 
luyện kĩ năng chứ không chỉ một tiết học trên lớp, vì vậy giáo viên có cơ hội chỉnh 
sửa, rèn luyện cho các em. Cách dạy học này cũng khiến tôi tiết kiệm được thời 
gian và có hiệu quả hơn so với cách dạy thông thường. 
Với các đồng chí trong nhóm văn lớp 10, tôi đã chia sẻ cách làm này khi dạy bài 
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ), một số đồng nghiệp cũng đã áp 
dụng và nhận thấy, học sinh đỡ chán khi học văn, nhất là phần văn học hiện đại. Các 
em cảm nhận được rõ hơn giá trị nội dung và hình thức nghệ thuật của văn bản, từ đó 
50 
bồi dưỡng them long yêu chính nghĩa, niềm tin vào cái thiện, biết cách ứng xử với cái 
xấu, cái ác.... 
Đối với bộ môn văn, đây là một trong những hướng đề xuất cho cách dạy nhằm 
phát triển năng lực cho học sinh, thay vì lối dạy chú trọng kiến thức như trước. 
Cách làm này biến việc dạy văn trở thành công cụ phát triển năng lực giải quyết 
vấn đề và sáng tạo hiệu quả cho học sinh, giúp các em có thể hình thành kĩ năng 
này tốt hơn. Điều đó rất có lợi cho học sinh trong học tập và trong cuộc sống. 
III. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT 
1. Đối với tổ, nhóm chuyên môn 
Trong quá trình thực hiện, tôi nhận thấy ở mỗi lớp, kĩ năng giải quyết vấn đề 
và sáng tạo khác nhau. Bởi vậy, khi thực hiện, yêu cầu các đồng chí áp dụng phù 
hợp với năng lực học sinh lớp mình, có thể tăng những tình huống tái hiện khi đối 
thoại với học sinh lớp trung bình, yếu, đồng thời, ở các lớp học sinh khá, cần tăng 
tình huống giải quyết vấn đề và sáng tạo để kích thích các em phát triển. Trong quá 
trình kiểm tra, đánh giá, yêu cầu của học sinh ở các lớp khá, giỏi cũng cần cao hơn 
lớp học sinh trung bình, yếu 
2. Đối với nhà trường 
Cần tạo điều kiện cho học sinh có sân chơi nhằm phát triển kĩ năng như câu 
lạc bộ văn học, hoạt động ngoài giờ lên lớp... để các em có cơ hội thể hiện. 
Tăng cường thiết bị dạy học như máy chiếu, tranh ảnh phù hợp để có thể sử 
dụng hỗ trợ cho bài dạy hiệu quả hơn. 
 Trên đây là những kinh nghiệm của tôi trong quá trình thực hiện dạy học 
bài Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ). Vì thời gian chưa nhiều, 
năng lực còn có một số hạn chế nên không tránh khỏi những chỗ chưa được như ý. 
Rất mong nhận được sự đóng góp của các đồng nghiệp để tôi tiếp tục hoàn thiện đề 
tài này. 
 Xin trân trọng cảm ơn! 
 Ngày 1 tháng 3 năm 2021 
 Tác giả 
51 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đào Duy Anh, Từ điển Hán Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999. 
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngữ văn 10, Tập 1, NXB GD, 2008. 
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo viên Ngữ văn 10, Tập 1, NXB GD, 
2008. 
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng 
môn Ngữ văn lớp 10, NXB GD, 2008. 
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ 
văn phổ thông trung học, NXB GD, Hà Nội, 2003. 
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương 
trình sách giáo khoa lớp 10, NXB GD, Hà Nội, 2006. 
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương 
trình sách giáo khoa lớp 10, NXB GD, Hà Nội, 2007. 
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài liệu tập huấn cán bộ quản lí, giáo viên triển 
khai mô hình trường học mới Việt Nam, NXB GD, Hà Nội, 2015 
9. Đỗ Ngọc Thống, Dạy học phát triển năng lực môn Ngữ văn trung học phổ 
thông, NXB Đại học sư phạm, 2018 
10. Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, Hà Nội, 2004 
11. Nhiều tác giả, Đổi mới phương pháp dạy học và những bài học minh họa, 
NXB Đại học sư phạm, 2012 
12. Nhiều tác giả, Kỉ yếu hội thảo khoa học Dạy học ngữ văn ở trường trung 
học phổ thông, NXB Nghệ An, 2007 
13. Nhiều tác giả, Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy – học môn Ngữ 
văn, NXB Giáo dục, 2002. 
14. Nhiều tác giả, Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên THPT chu kì 3, 
Viện nghiên cứu Sư phạm, Hà Nội, 2005. 

File đính kèm:

  • pdfskkn_gop_phan_hinh_thanh_nang_luc_giai_quyet_van_de_va_nang.pdf
Sáng Kiến Liên Quan