Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng bài tập rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập
Trong trường Tiểu học, Tiếng Việt là môn học quan trọng có nhiệm vụ hình thành năng lực ngôn ngữ cho học sinh được thể hiện qua bốn dạng hoạt động: Nghe – nói – đọc – viết. Trong đó Tập đọc là phân môn đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kỹ năng quan trọng “kỹ năng đọc”. Vì vậy việc tìm hiểu một số biện pháp để nâng cao hiệu quả giờ dạy phân môn Tập đọc là một việc làm hết sức cần thiết của ngưồi giáo viên Tiểu học. Hơn nữa, học sinh Tiểu học là lứa tuổi ưa hoạt động, những điều mới lạ luôn hấp dẫn các em. Quá trình học tập sinh động, sáng tạo sẽ giúp các em phát huy tối đa tính tích cực trong học tập, giúp học sinh bộc lộ được những năng lực sáng tạo và óc tưởng tượng phong phú của mình. Từ đó năng lực học tập của các em được nâng dần.
Nhưng thực tế cho đến nay nhiều người vẫn chưa xem việc đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề cần quan tâm hoặc quan tâm chưa đúng mức.
Mặt khác trong quá trình giảng dạy đối với học sinh tiểu học nói chung, đối với phân môn tập đọc nói riêng, người dạy chưa đặc biệt chú ý rèn cho học sinh một kỹ năng quan trọng. Đó là “Kỹ năng đọc”. Từ đó kỹ năng đọc của học sinh trở nên hạn chế, đôi khi đọc các em phải dừng lại để đánh vần, dẫn đến tình trạng thụ động, nhàm chán, lười học do mất kiến thức cơ bản.
Theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học, phân môn Tập đọc là môn học rất cần phải tạo điều kiện cho học sinh tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo trong mọi hoạt động học tập và rút kinh nghiệm và thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
người đọc tiếp nhận được nội dung, kiến thức trong bài đọc. Mà người đọc dùng mắt, nhìn, miệng đọc , tâm để cảm thụ, phân tích nội dung thông tin vừa đọc. Có khi hình thức đọc sau. 2.1. Đọc thành tiếng Là hình thức đọc phát ra âm thanh + Phát âm đúng + Ngắt nghỉ hơi hợp lý + Cường độ đọc vừa phải (không đọc to quá hay đọc lí nhí). - Tốc độ đọc vừa phải (không ê , a, ngắt ngứ hay liến thoắng) 2.2. Đọc thầm và hiểu nội dung + Đọc không thành tiếng, không mấp máy môi + Hiểu được nghĩa của các từ ngữ trong văn cảnh (bài đọc); nắm được nội dung của câu, đoạn hoặc bài đã đọc. 3. Yêu cầu về kiến thức – kỹ năng đối với phân môn tập đọc lớp 2. Đọc lưu loát nội dung một bài văn, bài thơ, không đọc ê a ngắt ngứ, luyến thoắng tốc độ đọc, học sinh cần đạt yêu cầu tối thiểu sau: + Đọc đúng, không ngắc ngứ + Tốc độ đọc . Giữa học Kỳ I : 35 tiếng / phút . Cuối học kỳ I : 40 tiếng / phút . Giữa học Kỳ II : 45 tiếng / phút . Cuối học kỳ II : 50 tiếng / phút 4. Suy nghĩ về việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học một yếu tố vô cùng quan trọng được các cấp quản lý giáo dục quan tâm và đưa lên vị trí hàng đầu, trong sự nghiệp giáo dục. Nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả dạy – học giáo dục tiểu học. Để phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước. 5. Đôi điều về tính tích cực và phương pháp dạy học tích cực. 5.1 . Tính tích cực là gì? (TTC) Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội. Tính tích cực của con người biểu hiện trong hoạt động đặc biệt trong những hoạt động chủ động của chủ thể. Học tập là hoạt động chủ đạo của trẻ ở lứa tuổi đi học. Tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác, hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lý tạo nên tính tích cực. Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như : hăng hái trả lời câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn; thích phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề nêu ra, hay nêu thắc mắc , đòi hỏi giải thích những vấn đề chưa đủ rõ, chủ động vận dụng kiến thức , kỹ năng đã học để nhận thức vấn đề mới 5.2. Phương pháp tích cực là gì? - Phương pháp tính tích cực là một thuật ngữ được rút gọn; được dùng ở nhiều nước, để chỉ những phương pháp giáo dục – dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học. 5.3. Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp tích cực (TTC) - Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh - Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học - Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác. - Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ 1. Sự hạn chế trong quá trình giảng dạy phân môn Tập đọc lớp 2 qua việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh Thực tế cho thấy đến nay phần lớn giáo viên trực tiếp giảng dạy trên lớp nói chung và giảng dạy phân môn Tập đọc nói riêng chỉ chú trọng về mặt hình thức là giảng dạy đầy đủ , không sót kiến thức, ổn định được in trong sách giáo khoa. Mà chưa quan tâm đến vấn đề cốt lõi của phân môn Tập đọc là việc rèn kỹ năng quan trọng cho học sinh : “Kỹ năng đọc”. Hơn nữa giáo viên chưa thật sự đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh nghĩa là mọi hoạt động dạy học diễn ra không nhằm phát huy tính tích cực của người học, mà tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy. Đành rằng để dạy theo PPTC thì giáo viên phải nổ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động. Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Rõ ràng, cách dạy chỉ đạo cách học nhưng ngược lại, thói quen học tập của trò có ảnh hưởng tới cách dạy của thầy. Có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng giáo viên chưa đáp ứng được. Cũng như có trường hợp, giáo viên hăng hái áp dụng PPTC nhưng thất bại vì HS chưa thích ứng vẫn theo lối học tập thụ động. 2. Hiệu quả học tập và kỹ năng đọc của học sinh trong quá trình học phân môn tập đọc. Thực trạng không mấy lạc quan về kết quả đọc còn thấp của học sinh, cũng như sự thiếu tự giác và lơ là của các em hiện nay. Các em thường mắc khá nhiều lỗi đọc. Cụ thể là các lỗi cơ bản sau: 2.1. Lỗi phát âm lệch chuẩn chữ viết Khi đọc HS thường phát âm không chính xác cả âm đầu lẫn phần vần và thanh điệu. Chẳng hạn : đọc r thành g (bối rối – bối gối, rập rình – gập gình) , đọc phụ âm qu thành v (quảng cáo - vảng cáo) đọc âm ê trong vần kéo dài thành i ê (mếu máo – miếu máo, đều – điều) đọc âm o thành âm ô (trong xanh – trông xanh) đọc âm y thành i ( may mắn – mai mắn, bàn tay – bàn tai,..) đọc vần oan thành on (hoàn toàn – hòn tòn,..) âm cuối n thành ng (củi mùn – củi mùng; bắn súng – bắng súng ) ; t thành c (ánh mắt – ánh mắc) nguyên nhân lỗi phát âm lệch chuẩn này là do học sinh chịu ảnh hưởng tiêu cực từ thể âm của môi trường sinh sống 2.2. Lỗi đọc không đúng trọng âm: Học sinh sử dụng cách đọc không có điểm nhấn hoặc nhấn giọng vào những tiếng không có trọng âm, khiến cho giọng đọc trở nên đều đều, buồn tẻ hoặc làm cho nội dung thông báo bị hiểu sai lệch. Nguyên nhân của hiện tượng này, là do các em chưa xác định được các từ ngữ đảm nhiệm vai trò thông báo chính trong câu ; chưa biết phân biệt đâu là yếu tố trọng âm trong một từ. Đây là một lỗi đọc, mà đa số học sinh thường mắc phải. 2.3. Lỗi ngắt giọng không đúng chỗ Ngắt giọng không chính xác ở các câu văn dài, có cấu tạo ngữ pháp phức tạp (ngắt giọng ngẫu hứng theo nhịp thở (còn gọi là ngắt giọng sinh lý). Khi đọc thơ, học sinh thường đọc theo áp lực của nhạc thơ, tách rời đọc với hiểu. 2.4. Lỗi đọc không đúng ngữ điệu, không diễn cảm Học sinh không thể hiện đúng các kiểu câu khi đọc do nhầm lẫn về hình thức diễn đạt . Chẳng hạn : Đọc các câu hỏi tu từ như: câu hỏi thông thường, đọc câu cảm như câu hỏi, đọc lên giọng máy móc ở các từ cuối câu hỏi. Khiến cho một cuộc trò chuyện tâm tình được thể hiện như một cuộc cải vã. Một số giáo viên, do cách hiểu chưa thật chính xác, khái niệm đọc diễn cảm. Nên khi đọc mẫu đã cố gắng uốn gịong một cách cầu kỳ, khiến giọng đọc trở nên thiếu độ trung thực cần thiết. Học sinh vì làm theo mẫu, nên cũng đọc thái quá như vậy * Tóm lại : xuất phát từ thực trạng nêu trên , cho thấy hiệu quả giờ học phân môn tập đọc thông qua kỹ năng đọc của học sinh còn nhiều hạn chế, như thế chưa phát huy tính tích cực hoạt động học tập, sáng tạo mang tính sáng tạo, tự giác của học sinh. Thể hiện qua kết quả khảo sát chất lượng đầu năm của lớp 2A4 như sau: Tổng số học sinh : 25/15 nữ . Đọc tốt : 2 em tỉ lệ 8% . Đọc khá : 5 em tỉ lệ 20% . Đọc TB : 14 em tỉ lệ 56% . Đọc yếu : 4 em tỉ lệ 16% * Tỉ lệ trên TB : 84% * Tỉ lệ dưới TB : 16% ® Chất lượng cho thấy học sinh đọc mức độ trung bình trở lên chưa cao; tỉ lệ học sinh đọc yếu còn nhiều cũng như sự thiếu tự giác, và lơ là của các em hiện nay. Tất yếu dẫn tới câu hỏi : chúng ta có thể làm gì để nâng cao khả năng đào tạo trình độ đọc cho HS? Đây không chỉ là vấn đề nghiên cứu lý thuyết thuần túy về đọc mà còn liên quan đến việc phát triển mục đích và phương pháp đào tạo, giáo dục việc đọc cho học sinh tiểu học hiện nay. Với thực trạng nêu trên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin đề cập việc sửa lỗi đọc cho học sinh lớp 2 bằng một hoạt động bỗ trợ, đó là : sử dụng tổ hợp bài tập (BT) rèn kỹ năng đọc cho học sinh trong giờ tập đọc. III. GIẢI PHÁP 1. Vị trí , vai trò của giáo viên trong phương pháp dạy tập đọc theo hướng đổi mới Đổi mới phương pháp dạy – học là vấn đề được đặt lên vị trí hàng đầu được các cấp quản lý giáo dục đặc biệt quan tâm. Vì nó là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến chất lượng và hiệu quả giáo dục. Vì vậy mỗi giáo viên chúng ta trực tiếp giảng dạy cần xác định rõ chính xác, nắm vững về việc đổi mới sao cho phù hợp với tình hình, năng lực của học sinh. Nghĩa là giáo viên không đóng vai trò truyền thụ kiến thức cho học sinh bằng các phương pháp như : thuyết trình giảng giải, song song đó là học sinh chỉ tiếp thu kiến thức một cách thụ động. Mà được vận dụng bằng các phương pháp sao cho giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh bằng các câu hỏi gợi ý, gợi mở – song song đó là học sinh tích cực tham gia hoạt động học tập một cách tích cực nhằm tiếp thu bài một cách chủ động và hiệu quả hơn. Muốn làm được công việc trên thì bản thân giáo viên phải nổ lực nhiều so với phương pháp dạy học thụ động và phải kiên trì vận dụng phương pháp đổi mới nhằm tạo cho các em thích ứng dần với phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp đến cao. Trong đổi mới phải có sự hợp tác của thầy và trò, sự phối hợp giữa hoạt động dạy và hoạt động học thì mới thành công. ®Như vậy khi nhấn mạnh vai trò chủ thể nhận thức, cảm thụ của học sinh. Phương pháp dạy học theo hướng đổi mới. Giáo viên không chỉ đơn giản là truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động với phương pháp dạy học trên thì vai trò của giáo viên không những không bị hạ thấp mà còn được đề cao với tư cách là người gợi mở, hướng dẫn, cố vấn, trọng tài trong hoạt động học tập của học sinh. 2. Bài tập rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 theo hứơng tích cực hoá hoạt động học tập 2.1. Bài tập luyện chính âm (còn gọi là bài tập (BT) luyện phát âm đúng). Đây là loại BT dễ thực hiện nhưng ít xuất hiện trong SGK nên ít được giáo viên sử dụng. Hình thức bT có thể là tìm (gạch dưới, đóng khung, liệt kê) những từ ngữ khó đọc trong bài. Cách thực hiện : Để đổi mới cho phù hợp với tình hình năng lực thực tế học sinh của lớp, ta không nên chọn và ghi sẵn các từ ngữ khó cho học sinh luyện đọc. Và sau khi cho học sinh thực hiện BT, GV không đọc mẫu, yêu cầu HS đọc từ ngữ, câu có chứa tiếng HS hay mắc lỗi rồi GV mới chữa, hoặc GV đọc mẫu những từ ngữ, câu có chứa tiếng trong đó có âm vần HS hay đọc lẫn rồi yêu cầu học sinh đọc theo * Bài tập minh họa VD : Chọn trong đoạn 1 của bài “Sự tích cây vú sữa” (TV2, Tập 1 , Trang 96) những tiếng có thanh hỏi và thanh ngã rồi viết vào 2 dòng dưới đây - Những tiếng có thanh hỏi:. - Những tiếng có thanh ngã :. * Giải đáp: (?) bỏ, ở, mỏi (~) nghĩ VD 2 : Đọc thầm đoạn 2 của bài “Câu chuyện bó đũa” (TV2 – tập 1 tr112) ghi lại những tiếng có phụ âm đầu g, r vào chỗ trống. - g - r *Giải đáp + g : gọi, gái, gãy + r : rồi, rất, rể , ra VD 3 : đọc thầm đoạn 2 của bài “Chuyện bốn mùa” (TV 2 – Tập 2 – Trang 5) và ghi lại những tiếng có chứa ao, au.. rồi điền vào chỗ trống dưới đây + au:.. + ao :. * Giải đáp + au : cháu + ao : nào, cao VD 4 : Đọc đoạn 1 của bài “Mùa xuân đến” (TV 2, tập 2 , Tr 17) vô ghi lại những tiếng có chứa i, y vào chỗ trống dưới đây : + i : .. + y : * Giải đáp + i :thì , trời, lại + y :Ngày, nảy, đầy, bay, nhảy, gáy Với dạng bài tập này sẽ giúp cho học sinh nhanh chóng hiểu và phát âm chính xác các tiếng / từ khó dễ lẫn mà nguyên nhân chính là do học sinh chịu ảnh hưởng tiêu cực từ thổ âm của môi trường mình sinh sống. 2.2. Bài tập luyện đúng trọng tâm Đây là kiểu bài tập giúp HS đọc rõ, nhấn giọng hay kéo dài, những từ chìa khóa của bài đọc * Cách thực hiện : Khi đến phần hướng dẫn học sinh đọc đoạn. Theo cách dạy thông thường, giáo viên ghi sẵn câu hoặc đoạn vào băng giấy hoặc bảng phụ. Dùng các ký hiệu ( /; //) ngắt, nghỉ hoặc gạch chân các từ cần nhấn giọng với cách hướng dẫn trên thì chưa phát huy được tính tự giác, chủ động của học sinh . Vì học sinh chỉ làm theo mẫu có sẵn. Nó mang tính chất áp đặt, chưa khơi dậy được ở học sinh óc sáng tạo, cũng như sự đam mê hứng thú trong học tập. ® Với hình thức luyện đọc trên tôi thay thế bằng cách xây dựng BT luyện đúng trọng âm. VD 1 : Ghi dấu dưới tiếng cần nâng cao giọng và dấu bằng ( = ) dưới tiếng cần hạ thấp giọng khi đọc các câu sau : . Bạn là ai? Vì sao bạn khóc? Tôi là cá sấu. Tôi khóc vì chả ai chơi với tôi (quả tim khỉ, TV 2, tập 2, tr.51). * Giải đáp Bạn là ai? vì sao bạ n khóc? Tôi là cá Sấu . Tôi khóc vì chả ai chơi với tôi VD 2 : Gạch dưới các từ cần nhấn giọng khi đọc 4 dòng thơ sau của bài Mẹ (TV 2, tập 1 , Tr 101) Lặng rồi / cả tiếng con ve / Con ve cũng mệt / vì hè nắng oi // Những ngôi sao / thức ngoài kia / Chẳng bằng mẹ / đã thức vì chúng con// * Giải đáp Lặng rồi / cả tiếng con ve / Con ve cũng mệt / vì hè nắng oi // Những ngôi sao / thức ngoài kia / Chẳng bằng mẹ / đã thức vì chúng con// * Cách tiến hành Khi hướng dẫn học sinh luyện đọc giáo viên không ghi sẵn mà yêu cầu học sinh nêu cách đọc của cá nhân. Cuối cùng giáo viên kết luận cách đọc rồi hướng dẫn các em đọc theo yêu cầu. Qua đó hướng dẫn HS nâng dần lên khả năng biết đọc ngắt nghỉ trong câu văn, câu thơ, cũng là căn cứ để xác định những chỗ cần luyện ngắt giọng trong bài. 2.3. Bài tập luyện đọc ngắt giọng đúng chỗ Khi dạy HS đọc văn bản, cần tạo điều kiện cho học sinh nắm được cơ chế ngắt giọng, đó là đảm bảo nghĩa của từ, cụm từ, đảm bảo cấu trúc ngữ pháp của câu. Dạy đọc các bài văn xuôi, chỗ ngắt giọng phải trùng hợp với ranh giới ngữ đoạn. Dạy đọc một bài thơ, chỗ ngắt nhịp phải tương ứng với chỗ kết thúc một tiết đoạn. Đọc sai chỗ ngắt giọng phản ánh một cách hiểu sai nghĩa, hoặc ít ra là một cách đọc không để ý đến nghĩa. Vì vậy, đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đúng nói riêng vừa là mục đích của dạy đọc thành tiếng vừa là phương tiện giúp HS chiếm lĩnh nội dung bài đọc. Để làm được điều đó giáo viên cho học sinh thực hiện một số dạng bài tập sau: Bài tập minh hoa Bài tập 1: Khi dấu ngắt (/ , nghỉ //) hơi cần thiết để đọc diễn cảm đoạn thơ sau: Ai yêu các nhi đồng Bằng Bác Hồ Chí Minh Tính các cháu ngoan ngoãn Mặt các cháu xinh xinh (Trích trong bài Thư Trung Thu, TV 2 , tập 2 , tr.10). * Giải đáp: Ai yêu / các nhi đồng / Bằng / Bác Hồ Chí Minh // Tính các cháu / ngoan ngoãn / Mặt các cháu / xinh xinh // Bài tập 2 : Dùng gạch xiên ( / ) đánh dấu chỗ ngắt hỏi, gạch ( // )và gạch dưới các từ ngữ cần nhấn giọng khi đọc đoạn văn sau: Xưa có chàng trai thấy một bọn trẻ định giết con rắn nước liền bỏ tiền ra mua, rồi thả rắn đi. Không ngờ con rắn ấy là con của Long Vương. Đền ơn chàng trai, Long Vương tặng chàng một viên ngọc quý (Tìm ngọc, TV 21, T1 .tr 13*). * Giải đáp Xưa/ có chàng trai thấy một bọn trẻ định giết con rắn nước liền / bỏ tiền ra mua, / rồi thả rắn đi.// Không ngờ / con rắn ấy là con của Long Vương//. Đền ơn chàng trai,/ Long Vương tặng chàng một viên ngọc quý //. * Tóm lại : Để rèn tốt các kỹ năng đọc đã nêu. Nhằm nâng cao hiệu quả đọc cho học sinh cần phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Giáo dục việc đọc ngay từ đầu phải hướng dẫn sự trãi nghiệm và tạo niềm vui cho học sinh - Giáo dục việc đọc cho học sinh cần phải khách quan khoa học, nghĩa là phải chú trọng bản chất của hoạt động đọc và quá trình đọc - Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác của thầy và trò, sự phối hợp giữa hoạt động dạy và hoạt động học thì mới thành công. - Giáo viên phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách theo nguyên tắc từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. IV. KẾT QUẢ Qua một số phương pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh đã nêu ở trên , sau khi áp dụng với học sinh lớp 2A4 từ đầu năm học cho đến nay, đã thu được kết quả dạy học chủ yếu sau: Phần lớn học sinh trong lớp có ý thức, tự giác hơn trong quá trình luyện đọc, cũng như quá trình học tập, các em trở nên yêu thích môn học, thích được làm việc tích cực tham gia các hoạt động học tập. Các em có một thói quen học tập nhất định là tích cực tham gia các hoạt động học tập ở hầu hết các môn học. Kết quả học tập của các em được nâng lên một cách rõ rệt, đặc biệt là kỹ năng đọc của các em được thể hiện cụ thể như sau: 1. Kết quả khảo sát chất lượng đọc đầu năm như sau Tổng số học sinh : 25/15 nữ . Đọc tốt : 2 em tỉ lệ 8% . Đọc khá : 5 em tỉ lệ 20% . Đọc TB : 14 em tỉ lệ 56% . Đọc yếu : 4 em tỉ lệ 16% * Tỉ lệ trên TB : 84% * Tỉ lệ dưới TB : 16% Chất lượng cho thấy học sinh đọc ở mức trên trung bình còn chưa cao mà tỉ lệ học sinh đọc dưới trung bình còn khá cao 16% Sau khi áp dụng biện pháp nghiên cứu vào thực tiễn lớp 2A4 đã thu được kết quả sau : . Đọc tốt : 5 em tỉ lệ 20% . Đọc khá : 9 em tỉ lệ 36% . Đọc TB : 10 em tỉ lệ 40% . Đọc yếu : 1 em tỉ lệ 4% * Tỉ lệ trên TB : 96% * Tỉ lệ dưới TB : 4% Với kết quả đạt được sau môït thời gian áp dụng biện pháp nghiên cứu, cho ta thấy rằng đã giải quyết tốt được thực trạng thực tế nêu trên. Tôi tin tưởng rằng, các em học sinh lớp 2A4 do tôi phụ trách ở năm học 2007 – 2008 này sẽ đủ điều kiện lên lớp 3 để tiếp tục học tập và tiếp cận với chương trình SGK mới cũng như những phương pháp dạy học theo hướng đổi mới của những năm học tiếp theo. C./ KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN Môn Tiếng Việt ở tiểu học có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh tiểu học nhu cầu học tập của học sinh ngày càng cao. Vì thế là một giáo viên trực tiếp giảng dạy ở tiểu học phải không ngừng học hỏi nghiên cứu các tài liệu giáo dục nhằm thỏa mãn nhu cầu ham học hỏi của học sinh. Trong quá trình dạy học giáo viên cần phối hợp linh hoạt các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học sao cho không khí lớp học trở nên sôi nổi, trong sôi nổi lại mang tính kỹ thuật, nền nếp cao nhằm tạo tính tự giác, sáng tạo, trong hoạt động học tập của học sinh. Giáo viên phải biết cách chuyển từ cách dạy thụ động (GV giảng giải, làm mẫu theo tài liệu có sẵn, HS lắng nghe rồi làm theo mẫu), sang cách dạy học chủ động, tích cực, sáng tạo , GV tổ chức và hướng dẩn HS các hoạt động học tập, HS tham gia tích cực vào các hoạt động , phát hiện vấn đề , giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh các kiến thức mới, vận dụng các kiến thức đó để giải quyết các vấn đề trong học tập cùng như trong đời sống. ® Do đó trong quá trình tổ chức và thực hiện các hoạt động học tập nói chung rèn kỹ năng đọc cho học sinh nói riêng. Giáo viên cần giúp HS tự học, tự chiếm lĩnh tri thức mới, có kỹ năng thực hành và ứng dụng kiến thức tiếng Việt trong hoạt động học tập và đời sống. 2. Kiến nghị Trước thực tế giảng dạy trong năm học qua nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy học cũng như việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong phân môn tập đọc. Tôi xin đưa ra một vài kiến nghị sau: - Khi trẻ bắt đầu đến trường, giáo viên cùng với gia đình, nhà trường, xã hội phải giáo dục và rèn kỹ năng đọc cho các em một cách hiệu quả nhất. - Mỗi giáo viên , cần dành nhiều thời gian hơn vào việc nghiên cứu, vận dụng các phương pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh sao cho tốt hơn, hiệu quả hơn. - Cần tổ chức, tạo điều kiện cho giáo viên tham gia học hỏi, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy trong và ngoài trường theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học. Mỹ Tú A , tháng 4 năm 2008 Người thực hiện Châu Thanh Phong MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 1. Khách thể nghiên cứu 2. Đối tượng nghiên cứu IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lý luận 2. Thực trạng 3. Giải pháp V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Phương pháp lý thuyết : 2. Phương pháp thực tiễn: VI. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU B. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Vị trí và tầm quan trọng của phân môn Tập đọc. 2. Quan điểm về hoạt động đọc và kỹ năng đọc 3. Yêu cầu về kiến thức – kỹ năng đối với phân môn tập đọc lớp 2 4. Suy nghĩ về việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay 5. Đôi điều về tính tích cực và phương pháp dạy học tích cực. II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ 1. Sự hạn chế trong quá trình giảng dạy phân môn Tập đọc lớp 2 qua việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh 2. Hiệu quả học tập và kỹ năng đọc của học sinh trong quá trình học phân môn tập đọc. III. GIẢI PHÁP 1. Vị trí , vai trò của giáo viên trong phương pháp dạy tập đọc theo hướng đổi mới 2. Bài tập rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 theo hứơng tích cực hoá hoạt động học tập IV. KẾT QUẢ 1. Kết quả khảo sát chất lượng đọc đầu năm như sau C. PHẦN KẾT THÚC I. KẾT LUẬN 2. Kiến nghị
File đính kèm:
- Sang kien kinh nghiem Lop 2.doc