Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy trong trường Tiểu học

Cơ sở lý luận:

Học sinh tiểu học còn nhỏ, nên quá trình nhận thức thường gắn với những hình ảnh, hoạt động cụ thể. Bởi vậy các phương tiện trực quan rất cần thiết trong quá trình giảng dạy. Đặt biệt là các phương tiện trực quan sinh động, rõ nét sẽ thu hút được sự chú ý của học sinh. Trong những tiết học có đồ dùng trực quan đẹp, rõ nét học sinh sẽ chú ý đến bài giảng hơn và kết quả là học sinh tiếp thu bài tốt hơn, nhớ lâu hơn.

Đối với môn Toán không có nhiều tranh ảnh như các bộ môn khác, nhưng không phải vì thế mà không cần đến ứng dụng CNTT. Ngoài bộ đồ dùng dạy và học toán chỉ là những con số và các bài toán và những hình vẽ. Thế nhưng, những con số, những bài toán và những hình vẽ nếu đưa lên màn hình lớn với sự nhấn mạnh bằng cách đổi màu chữ hay gạch chân sẽ có hiệu quả hơn.Chính vì vậy mà việc đưa ứng dụng CNTT vào giảng dạy môn toán là cần thiết.

 

doc14 trang | Chia sẻ: Hải Thượng | Ngày: 05/05/2023 | Lượt xem: 447 | Lượt tải: 5Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy trong trường Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KINH NGHIỆM ĐƯA ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO
GIẢNG DẠY TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do xây dựng chuyên đề
Trong quá trình dạy học hầu hết các giáo viên đều thấy khó khăn trong khâu giảng dạy những kiến thức trừu tượng, những phần mà học sinh không thể hoặc không có điều kiện để quan sát trực tiếp. Ngày nay, với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật đặc biệt là sự ra đời của máy vi tính đã làm cho quá trình nhận thức của học sinh trở nên đơn giản hơn thông qua những bài giảng điện tử mà giáo viên đã chuẩn bị. Việc sử dụng máy vi tính ngày nay không còn xa lạ với giáo viên. Tuy nhiên, để soạn giảng được một bài học có ứng dụng công nghệ thông tin đòi hỏi người giáo viên phải sử dụng thành thạo máy vi tính và biết một số phần mềm để sử dụng trong quá trình dạy học. Vì vậy việc thực hiện các bài soạn giảng điện tử bằng Powerpoint cho thấy sự cần thiết bởi nó đáp ứng được yêu cầu giáo dục như:
- Tạo sự hứng thú học tập cho học sinh bởi khả năng đối thoại trực tiếp. 
- Tiết kiệm thời gian và chi phí trong giảng dạy.
- Tiện lợi khi cần tăng thêm lượng kiến thức, đưa thêm những nội dung mới hay mở rộng trong tiết giảng. 
- Giảm thiểu sự vất vả của giáo viên trong giờ lên lớp.
- Thuận tiện trong việc hỗ trợ cho các hoạt động (trong các chủ đề của môn học) nhằm truyền đạt kỷ năng, kiến thức và thái độ ngành, nghề cho học sinh. 
Trong công tác giảng dạy, CNTT có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi phương pháp dạy và học. Nhờ đó mà học sinh hứng thú học tập hơn, kết quả là học sinh tiếp thu bài tốt hơn. Ứng dụng CNTT có thể đưa vào tất cả các môn học, đặc biệt là các môn có sử dụng nhiều tranh ảnh cho bài giảng. Trong một vài năm học gần đây, tôi đã mạnh dạn đưa ứng dụng CNTT vào nhiều môn học. Qua quá trình soạn giáo án và giảng dạy tôi đã đúc kết được một số kinh nghiệm về đề tài: “Đưa ứng dụng CNTT vào giảng dạy trong trường Tiểu học”
2. Lịch sử 
Thấy được ưu điểm của PowerPoint, nhiều giáo viên trường TH Minh Diệu B đã mạnh dạn làm quen và tự thiết kế các bài soạn giảng lên lớp với phần mềm này cùng các thiết bị đa phương tiện khác. Tuy nhiên, qua dự giờ và trao đổi với giáo viên, vẫn còn những ý kiến khác nhau về hình thức dạy học mới này như:
- Một số giáo viên tuyệt đối hoá việc soạn giảng bằng PowerPoint và gần như phủ nhận các hình thức dạy học truyền thống. 
- Một số giáo viên khác cho rằng hình thức dạy học này là không khả thi trong điều kiện chất lượng học sinh của nhà trường hiện nay. 
- Còn lại, một số giáo viên cho rằng sử dụng PowerPoint một cách khoa học như là một phương tiện dạy học hỗ trợ hợp lý việc thực hiện kế hoạch của giáo án lên lớp sẽ đem lại kết quả cao cho nhận thức của học sinh cả về mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển khả năng tư duy, quan sát, thực hành.
3. Đối tượng nghiên cứu:
a) Phần mềm hỗ trợ soạn giảng giáo án điện tử PowerPoint.
b) Giáo viên, học sinh trường TH Minh Diệu B.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phỏng vấn học sinh sau giờ học sử dụng bài soạn giảng giáo án điện tử.
- Phỏng vấn giáo viên sai khi giảng dạy bằng soạn giảng giáo điện tử.
- Dự giờ thăm lớp những giờ có sử dụng bài soạn giáo án điện tử và những giờ sử dụng theo phương pháp soạn giảng truyền thống.
- Ý kiến phản hồi từ giáo viên.
- Kiểm tra khả năng tiếp thu bài của học sinh ở những giờ có sử dụng bài soạn giảng giáo án điện tử và những giờ sử dụng theo phương pháp soạn giảng truyền thống.
II. NỘI DUNG:
1. Cơ sở lý luận:
Học sinh tiểu học còn nhỏ, nên quá trình nhận thức thường gắn với những hình ảnh, hoạt động cụ thể. Bởi vậy các phương tiện trực quan rất cần thiết trong quá trình giảng dạy. Đặt biệt là các phương tiện trực quan sinh động, rõ nét sẽ thu hút được sự chú ý của học sinh. Trong những tiết học có đồ dùng trực quan đẹp, rõ nét học sinh sẽ chú ý đến bài giảng hơn và kết quả là học sinh tiếp thu bài tốt hơn, nhớ lâu hơn.
Đối với môn Toán không có nhiều tranh ảnh như các bộ môn khác, nhưng không phải vì thế mà không cần đến ứng dụng CNTT. Ngoài bộ đồ dùng dạy và học toán chỉ là những con số và các bài toán và những hình vẽ. Thế nhưng, những con số, những bài toán và những hình vẽ nếu đưa lên màn hình lớn với sự nhấn mạnh bằng cách đổi màu chữ hay gạch chân sẽ có hiệu quả hơn.Chính vì vậy mà việc đưa ứng dụng CNTT vào giảng dạy môn toán là cần thiết.
 2. Cơ sở thực tiễn:
Một số thuận lợi và khó khăn trong việc thực hiện đề tài ở trường TH Minh Diệu B.
* Thuận lợi:
- Nhà trường đã có đầy đủ trang thiết bị phục vụ cho nhu cầu soạn giảng bài giảng điện tử của giáo viên.
- Hàng năm nhà trường tổ chức các buổi tập huấn cho giáo viên về chuyên đề tin học, trong đó có chuyên đề soạn giảng giáo án điện tử bằng Powerpoint.
- Đa số giáo viên đã được đào tạo cơ bản về tin học đáp ứng nhu cầu soạn giảng bài giảng điện tử.
- Máy tính ở đơn vị đều có nối mạng internet đảm bảo nhu cầu tìm kiếm thông tin khi cần để hỗ trợ bài giảng.
* Khó khăn
- Khó khăn nhất đối với giáo viên việc thiết kế giáo án điện tử rất mất nhiều thời gian. Mặc dù được nhà trường tập huấn về chuyên đề soạn giảng giáo án điện tử bằng PowerPoint nhưng thời gian có hạn nên không thể đi chuyên sâu tìm hiểu được các kiến thức của tin học để soạn bài theo mong muốn.
-Việc thiết kế giáo án điện tử chưa có nhiều kinh nghiệm nên việc chọn màu sắc, phông nền hay phông chữ, chọn hiệu ứng đôi khi chưa phù hợp.
- Chất lượng học sinh còn thấp nên làm giảm khả năng tiếp thu bài của các em.
- Giờ học còn phụ thuộc vào nguồn điện, phòng học, ánh sáng.
3. Qui trình thiết kế một bài soạn giaùo aùn điện tử.
Bài giảng điện tử là một hình thức tổ chức bài lên lớp mà ở đó toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học đều được chương trình hoá do giáo viên điều khiển thông qua môi trường multimedia do máy vi tính tạo ra. Cần lưu ý bài giảng điện tử không phải đơn thuần là các kiến thức mà học sinh ghi vào vở mà đó là toàn bộ hoạt động dạy và học - tất cả các tình huống sẽ xảy ra trong quá trình truyền đạt và tiếp thu kiến thức của học sinh. Bài giảng điện tử càng không phải là một công cụ để thay thế “bảng đen phấn trắng” mà nó phải đóng vai trò định hướng trong tất cả các hoạt động trên lớp. Bài giảng điện tử có thể được xây dựng theo quy trình như sau:
3.1. Xác định mục tiêu bài học
Trong dạy học hướng tập trung vào học sinh, mục tiêu phải chỉ rõ học xong bài, học sinh đạt được cái gì. Mục tiêu ở đây là mục tiêu học tập, chứ không phải là mục tiêu giảng dạy, tức là chỉ ra sản phẩm mà học sinh có được sau bài học.
3.2. Lựa chọn kiến thức cơ bản, xác định đúng những nội dung trọng tâm
Những nội dung đưa vào chương trình và sách giáo khoa phổ thông được chọn lọc từ khối lượng tri thức đồ sộ của khoa học bộ môn, được sắp xếp một cách lôgíc, khoa học, đảm bảo tính sư phạm và thực tiễn cao. Bởi vậy cần bám sát vào chương trình dạy học và sách giáo khoa bộ môn. Đây là điều bắt buộc tất yếu vì sách giáo khoa là tài liệu giảng dạy và học tập chủ yếu; chương trình là pháp lệnh cần phải tuân theo. 
Việc chọn lọc kiến thức cơ bản của bài dạy học có thể gắn với việc sắp xếp lại cấu trúc của bài để làm nổi bật các mối liên hệ giữa các phần kiến thức của bài, từ đó rõ thêm các trọng tâm, trọng điểm của bài. Việc làm này thực sự cần thiết, tuy nhiên không phải ở bài nào cũng có thể tiến hành được dễ dàng. Cũng cần chú ý việc cấu trúc lại nội dung bài phải tuân thủ nguyên tắc không làm biến đổi tinh thần cơ bản của bài mà các tác giả sách giáo khoa đã xây dựng.
3.3. Multimedia hoá kiến thức
Đây là bước quan trọng cho việc thiết kế bài giảng điện tử, là nét đặc trưng cơ bản của bài giảng điện tử để phân biệt với các loại bài giảng truyền thống, hoặc các loại bài giảng có sự hỗ trợ một phần của máy vi tính. Việc multimedia hoá kiến thức được thực hiện qua các bước:
- Dữ liệu hoá thông tin kiến thức.
- Phân loại kiến thức được khai thác dưới dạng văn bản, bản đồ, đồ hoạ, ảnh tĩnh, phim, âm thanh...
- Tiến hành sưu tập hoặc xây dựng mới nguồn tư liệu sẽ sử dụng trong bài học.
- Chọn lựa các phần mềm dạy học có sẵn cần dùng đến trong bài học để đặt liên kết.
- Xử lý các tư liệu thu được để nâng cao chất lượng về hình ảnh, âm thanh. Khi sử dụng các đoạn phim, hình ảnh, âm thanh cần phải đảm bảo các yêu cầu về mặt nội dung, phương pháp, thẩm mỹ và ý đồ sư phạm.
3.4. Xây dựng các thư viện tư liệu
Sau khi có được đầy đủ tư liệu cần dùng cho bài giảng điện tử, phải tiến hành sắp xếp chúng lại một cách hợp lý nhằm tạo điều kiện tìm kiếm thông tin nhanh chóng và giữ được các liên kết trong bài giảng đến các tập tin âm thanh, video clip khi sao chép bài giảng từ ổ đĩa nay sang ổ đĩa khác, từ máy này sang máy khác.
3.5. Lựa chọn ngôn ngữ hoặc các phần mềm trình diễn để xây dựng tiến trình dạy học thông qua các hoạt động cụ thể
Sau khi đã có các thư viện tư liệu, giáo viên cần lựa chọn ngôn ngữ hoặc các phần mềm trình diễn thông dụng để tiến hành xây dựng bài giảng điện tử.
Văn bản cần trình bày ngắn gọn cô đọng, chủ yếu là các tiêu đề và dàn ý cơ bản. Nên dùng một loại font chữ phổ biến, đơn giản, màu chữ được dùng thống nhất tuỳ theo mục đích sử dụng khác nhau của văn bản như câu hỏi gợi mở, dẫn dắt, hoặc giảng giải, giải thích, ghi nhớ, câu trả lời....
Đối với mỗi bài dạy nên dùng khung, màu nền (backround) thống nhất cho các trang (slide), hạn chế sử dụng các màu quá chói hoặc quá tương phản nhau.
Không nên lạm dụng các hiệu ứng trình diễn theo kiểu "bay nhảy" thu hút sự tò mò không cần thiết của học sinh, phân tán chú ý trong học tập, mà cần chú ý làm nổi bật các nội dung trọng tâm, khai thác triệt để các ý tưởng tiềm ẩn bên trong các đối tượng trình diễn thông qua việc nêu vấn đề, hướng dẫn, tổ chức hoạt động nhận thức nhằm phát triển tư duy của học sinh. 
Cuối cùng là thực hiện các liên kết (hyperlink) hợp lý, logic lên các đối tượng trong bài giảng. Đây chính là ưu điểm nổi bật có được trong bài giảng điện tử nên cần khai thác tối đa khả năng liên kết. Nhờ sự liên kết này mà bài giảng được tổ chức một cách linh hoạt, thông tin được truy xuất kịp thời, học sinh dễ tiếp thu.
3.6. Chạy thử chương trình, sửa chữa và hoàn thiện
Sau khi thiết kế xong, phải tiến hành chạy thử chương trình, kiểm tra các sai sót, đặc biệt là các liên kết để tiến hành sửa chữa và hoàn thiện. 
4. Thiết kế một số bài giảng điện tử bằng PowerPoint:
Bài: Từ ngữ về các môn học. Từ chỉ hoạt động.
Trong bài này tôi thiết kế trên 9 slide. Sau đây là một số slide chính trong bài học:
+ Slide thứ nhất tôi thiết kế như trong sách giáo khoa trang 59 để đưa học sinh đến kiến thức của bài.
	+ Slide thứ hai chứa nội dung đáp án bài tập 1:
	+ Slide thứ ba chứa nội dung bài tập 2. Trong bài tập 2 tôi cho học sinh quan sát tranh một số hoạt động của người và tìm từ chỉ hoạt động trong mỗi tranh.
	+ Slide thứ tư chứa nội dung đáp án của bài tập 2
	+ Slide thứ năm chứa nội dung và đáp án bài tập 3.
	+ Slide thứ sáu thể hiện bài bài tập 4.
	+ Các slide thứ bảy, thứ tam là phần trò chơi để củng cố về các từ chỉ hoạt động. Trong trò chơi này, tôi cho học sinh quan sát một số hình ảnh sau đó các em nêu từ chỉ hoạt động tương ứng.
	- Ngoai ra, còn có các slide khác là lời giới thiệu, lời chào, 
	Bài: Làm quen với thống kê số liệu (Toán 3)
- Với tiết này nếu không ứng dụng CNTT thì phải in tranh. Nếu in tranh thì tranh sẽ nhỏ, các chữ ghi trong tranh ở dưới lớp học sinh không đọc được mà phải dùng sách giáo khoa. Còn nếu sử dụng CNTT thì tranh rất rõ nét. Phần chữ tôi viết với kích cỡ lớn và tô màu thay cho chữ trong tranh nên dưới lớp học sinh nhìn rõ, thu hút được sự chú ý của học sinh.
Bài tập 1: Tôi đưa lên Slide cho học sinh đọc yâu cầu, sau đó học sinh thảo luận nhóm 2. Sau khi học sinh thảo luận tôi cho học sinh chữa bài và đáp án đúng cũng được đưa lên màn hình với màu sắc khác để cả lớp nhìn thấy rõ, chứ không phải chỉ nghe. Như vậy học sinh sẽ hiểu rõ hơn bài tập này hơn.
Bài tập 2: Với bài tập 2 tôi không cho học sinh thảo luận, mà yêu cầu học sinh làm việc cá nhân, suy nghĩ rồi trả lời từng câu hỏi. Sau mỗi câu trả lời tôi cũng đưa đáp án đúng lên màn hình với màu chữ khác với đề bài để học sinh thấy rõ và so sánh với kết quả của mình.
Sau khi học sinh trả lời từng câu hỏi tôi cũng đưa đáp án đúng lên màn hình với màu chữ khác vơi đề bài để học sinh thấy rõ.
Bài tập 3: Cho học sinh làm giấy nháp, 2 học sinh làm bảng phụ. Sau khi học sinh làm xong tôi đưa đáp án đúng cho học sinh chữa bài. Nếu kết quả của học sinh nào không đúng với đáp án thì lúc đó chữa bài tìm ra nguyên nhân dẫn đến sai.
Bài tập 4:
Với bài làm quen với thống kê số liệu có sử dụng CNTT giáo viên đỡ vất vả rất nhiều mà học sinh hiểu bài hơn. Dãy số liệu trong mỗi bài tập tôi luôn để màu chữ khác để học sinh nhìn thấy rõ, từ đó học sinh sẽ hiểu rõ hơn về dãy số liệu.
5. Kết quả:
Sau khi nghiên cứu và đưa ứng dụng CNTT vào giảng dạy, tôi thấy học sinh thích học những tiết có dạy bằng giáo án điện tử hơn những tiết dạy truyền thống.
III. KẾT LUẬN:
Việc thiết kế các Slide trình diễn bằng PowerPoint trong một tiết học cụ thể không có ý nghĩa thay thế hoàn toàn giáo án lên lớp mà cần được xem là phương tiện hỗ trợ đắc lực việc thực hiện giáo án nhằm làm cho bài học đạt hiệu quả cao hơn. GV lên lớp cần thiết chuẩn bị giáo án văn bản như thường lệ, điều này giúp GV vừa chủ động trong việc tổ chức hoạt động nhận thức của HS một cách có kế hoạch, đồng thời, tránh được tác động xấu đến hiệu quả bài học khi gặp những sự cố kỹ thuật như mất điện hay máy tính bị hỏng
Phương tiện kỹ thuật cho dù hiện đại nhưng không thể thay thế hoàn toàn vai trò chủ động, sáng tạo của GV đối với việc tổ chức hoạt động nhận thức của HS. Thực tế giảng dạy cho thấy, GV vẫn cần tiến hành ghi bảng (chỉ ghi số ký hiệu của các đề mục; nội dung mở rộng của các tiểu mục một cách ngắn gọn), việc làm này giúp HS tránh được tình trạng bị thu hút vào màn hình mà quên không ghi chép.
Chuẩn bị bài lên lớp với sự hỗ trợ của thiết bị đa phương tiện đòi hỏi GV phải đầu tư nhiều công sức hơn so với chỉ đơn thuần soạn giáo án viết tay như trước đây. GV phải làm tốt khâu sưu tầm, xử lý tư liệu, thiết kế chúng và cũng cần có những kiến thức cơ bản để sử dụng thiết bị kỹ thuật, công nghệ thông tin.
Tuy nhiên, dạy học với PowerPoint sẽ giúp GV tiết kiệm được nhiều thời gian trong việc ghi bảng, trong thao tác sử dụng các loại đồ dùng trực quan truyền thống hay hướng dẫn HS thực hiện các loại bài tập, giới thiệu tài liệu tham khảoThay vào đó, GV có điều kiện tổ chức cho HS trao đổi, thảo luận, phát huy tính tích cực, say mê, hứng thú trong học tập.
Hiện nay, trang bị cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật ở trường phổ thông đang có chiều hướng tích cực, do đó, nên đặt ra yêu cầu mỗi GV chuẩn bị một số tiết giảng với PowerPoint và xem đó như là một trong những tiêu chuẩn đánh giá việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. Điều này có ý nghĩa lớn trong việc khuyến khích GV hưởng ứng việc sử dụng công nghệ dạy học mới để không ngừng nâng cao hiệu quả dạy học. 
Giáo viên nên tổ chức cho học sinh cùng tham gia sưu tầm tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau và xử lý, xây dựng chúng dưới dạng tài liệu để thiết kế bài giảng bằng PowerPoint sẽ thu hút được nhiều học sinh tham gia. 
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi qua công tác soạn giảng bằng PowerPoint. Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng chắc chắn rằng cón nhiều hạn chế, thiếu sót do đúc kết từ kinh nghiệm của cá nhân. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến, bổ sung của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm cho bài viết của tôi được hoàn chỉnh hơn.
 	 	Minh Diệu, ngày 15 tháng 11 năm 2018
	 	 Người thực hiện
	 	TRƯƠNG THANH TUẤN

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ung_dung_cong_nghe_thong_tin_vao_giang.doc
Sáng Kiến Liên Quan