Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN
Môn Tiếng Việt là môn học có tầm quan trọng bậc nhất trong các môn học ở tiểu học. Bởi lẽ Tiếng Việt không những dạy cho các em biết kiến thức về ngôn ngữ trong giao tiếp mà còn giúp các em giữ gìn tiếng mẹ đẻ. Tiếng Việt có nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh và trang bị cho các em một số kiến thức về từ, câu, cách sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp. Tiếng Việt là một thứ tiếng giàu đẹp và trong sáng mà lịch sử đã chứng minh rằng “Tiếng Việt trở thành vũ khí của dân tộc Việt Nam”.
Cùng với những môn học khác, môn Tiếng Việt ở tiểu học giữ một vị trí hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách, phát triển năng lực trí tuệ cho học sinh. Nó trang bị cho học sinh những kiến thức cần thiết nhằm phục vụ đời sống và phát triển của xã hội. Môn Tiếng Việt ở tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng quyết định cho việc dạy học Tiếng Việt sau này của học sinh.
Để thực hiện tốt mục tiêu của môn Tiếng Việt, người giáo viên phải thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học theo mô hình học tập kiểu mới VNEN, sao cho học sinh là người chủ động nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề đặt ra trong bài học. Từ đó chiếm lĩnh nội dung mới của bài học, môn học. Giáo viên là người theo dõi quan sát và giúp đỡ các em thực hiện mục tiêu đó.
Trò chơi học tập là một hình thức hoạt động thường được đông đảo học sinh hứng thú tham gia trong và ngoài lớp học. Trò chơi học tập môn Tiếng Việt nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh thực hành rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, đồng thời tiếp thu kiến thức môn học một cách tự giác sáng tạo. Tham gia vào các trò chơi học tập, học sinh còn được rèn luyện, phát triển về cả trí tuệ, thể lực và nhân cách, đáp ứng mục tiêu môn học theo hướng đổi mới VNEN đó là lấy học sinh làm trung tâm, học sinh tự lĩnh hội và chiếm lĩnh kiến thức, người giáo viên chỉ là giúp đỡ các em thông qua các hoạt động học.
đoạn hoặc toàn bộ câu chuyện. - Tìm hiểu lí thuyết viết đoạn, bài văn, luyện viết đoạn/ bài. * Bài C (Thời lượng 2 tiết): - Tìm hiểu kiến thức tiếng Việt. - Viết đoạn, bài văn. * Bài ôn tập A, B, C: Nội dung ôn tập: tập đọc, chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn. Bài C còn có mẫu đề bài kiểm tra đánh giá. 3.3. Mô tả cách trình bày một bài học, một hoạt động cụ thể ở các bài A, B, C: - Mỗi hoạt động học tập là một đơn vị bài học Tiếng Việt. - Mỗi cụm bài học dùng trong 1 tuần gồm 3 bài với 3 hoạt động học tập (Ví dụ: bài 1A, 1B, 1C) - Mỗi hoạt động học tập gồm 2 phần: + Phần Mục tiêu: nêu yêu cầu về kiến thức, kĩ năng học sinh cần đạt sau khi học bài. + Phần Hoạt động bao gồm 3 loại hoạt động: * Hoạt động cơ bản với các chức năng: - Khơi dậy hứng thú, đam mê của học sinh với bài mới. - Giúp học sinh tái hiện những kiến thức và kĩ năng học sinh đã có. - Giúp học sinh kết nối những kiến thức, kĩ năng đã có với kiến thức, kĩ năng mới. - Giúp học sinh thu nhận kiến thức, kĩ năng mới qua các hoạt động cụ thể như: quan sát, thảo luận, phân tích. - Giúp học sinh củng cố kiến thức, kĩ năng mới một cách thú vị qua các trò chơi, qua đọc sáng tạo, qua chia sẻ kinh nghiệm và vốn sống của cá nhân. * Hoạt động thực hành với chức năng: củng cố kiến thức, kĩ năng mới bằng cách quan sát để nhận diện kiến thức, kĩ năng mới trong bối cảnh khác. * Hoạt động ứng dụng với chức năng: hướng dẫn học sinh áp dụng những kiến thức, kĩ năng mới vào cuộc sống thực của các em tại gia đình, cộng đồng. 3.4. Tìm hiểu các hình thức dạy học theo mô hình VNEN: Trong dạy học Tiếng Việt người giáo viên cần biết vận dụng linh hoạt và lựa chọn các phương pháp vào từng hoạt động của các dạng bài học, để hướng dẫn học sinh tự tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức mới, hướng dẫn học sinh thực hành hình thành và rèn luyện kĩ năng Tiếng Việt, hướng dẫn học sinh giảng giải kết hợp việc vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, hay trò chơi Tiếng Việt, nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới trong dạy học Tiếng Việt 5. Tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động, tạo hứng thú học tập cho học sinh là mấu chốt của vấn đề đổi mới.Vì vậy khi giảng dạy giáo viên cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học thông qua các hoạt động nhóm, hoạt động cá nhân, hoạt động cặp đôi, hoạt động cả lớp sao cho nhịp nhàng, hợp lí nhằm tạo cho tiết dạy hiệu quả, học sinh có hứng thú học tập. Đồng thời giáo viên cần phải đảm bảo đủ quy trình 5 các bước lên lớp của mình, đó là: - Bước 1: Tạo hứng thú cho học sinh. - Bước 2. Tổ chức cho học sinh trải nghiệm. - Bước 3. Phân tích khám phá rút ra kiến thức mới. - Bước 4. Thực hành. - Bước 5. Ứng dụng. 3.5. Một số nguyên tắc thiết kế trò chơi học tập: Tổ chức trò chơi học tập mỗi chúng ta phải dựa vào nội dung bài học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể để đưa ra các trò chơi cho phù hợp, song muốn tổ chức được trò chơi trong dạy luyện từ và câu có hiệu quả cao thì đòi hỏi mỗi giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ và đảm bảo các yêu cầu sau: - Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục. - Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học. - Trò chơi phải phù hợp với tâm sinh lí của học sinh lớp, phù hợp với khả năng người hướng dẫn và cơ sở vật chất của nhà trường. - Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú. - Trò chơi phải chuẩn bị chu đáo. - Trò chơi phải gây hứng thú với học sinh. 3.6. Cấu trúc của trò chơi học tập: - Tên trò chơi. - Mục đích: Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức, kĩ năng nào. Mục đích của trò chơi sẽ qui định hành động chơi được thiết kế trong trò chơi. - Đồ dùng, đồ chơi: Mô tả đồ dùng, đồ chơi được sử dụng trong trò chơi học tập. - Nêu lên luật chơi: Chỉ rõ qui tắc của hành động chơi qui định đối với người chơi, qui định thắng thua của trò chơi, thời gian chơi. - Số người tham gia chơi: Cần chỉ rõ số người tham gia chơi. 3.7. Cách tổ chức chơi: - Thời gian tiến hành thường từ 5-7 phút (tiến hành ngay đầu tiết học hoặc có thể lồng ghép trong mỗi bài tập, cuối bài học) nhằm thu hút sự chú ý và củng cố kiến thức một cách vững chắc hơn qua mỗi loại bài tập tương ứng với mỗi loại kiến thức. - Đầu tiên là giới thiệu trò chơi : + Nêu tên trò chơi. + Hướng dẫn trò chơi bằng cách vừa mô tả vừa thực hành, nêu rõ qui định chơi. - Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi. - Chơi thật. - Nhận xét kết quả chơi, thái độ của người tham dự, giáo viên có thể nêu thêm những tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh. - Thưởng – “phạt”: phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp nhận thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của học sinh. Không nên dùng từ “phạt” đối với những học sinh, đội chơi thua mà có thể yêu cầu những học sinh, đội chơi thua trong trò chơi thực hiện những hành động theo yêu cầu đã đặt ra trước đó bằng những hình thức đơn giản, vui như hát một bài, nhảy cò cò 3.8. Một số trò chơi được áp dụng trong quá trình dạy học môn Tiếng Việt: 3.8.1. Trò chơi: Thi xếp nhanh các từ vào nhóm thích hợp * Mục đích: - Nhận biết nhanh các từ thuộc vốn từ theo chủ điểm đang học và chia thành các nhóm từ khác nhau. - Luyện trí thông minh nhanh tay, nhanh mắt. * Chuẩn bị: - 2 tờ giấy khổ to kẻ sẵn khung chia các nhóm từ. - 2 bộ thẻ từ. * Cách tổ chức: Ví dụ : Bài 3A: Tấm lòng người dân B. Hoạt động thực hành Nhiệm vụ 1: Thi xếp nhanh các từ vào nhóm thích hợp. - Số đội chơi: 2 đội, mỗi đội gồm 5 em tham gia (học sinh cả lớp cổ vũ và làm trọng tài). - Thời gian chơi từ 3-5 phút. - Cách chơi: + Mỗi đội chơi có một tờ giấy khổ to kẻ sẵn khung chia các nhóm từ: công nhân, nông dân, quân nhân, trí thức, doanh nhân, học sinh và được đính sẵn trên bảng lớp. + Mỗi đội chơi nhận một bộ thẻ từ ghi sẵn các từ: giáo viên, đại úy, trung sĩ, thợ điện, thợ cơ khí, thợ cấy, thợ cày, học sinh tiểu học, học sinh trung học, kĩ sư, bác sĩ, tiểu thương, chủ tiệm. + Giáo viên yêu cầu hai đội đứng xếp thành hai hàng dọc, khi giáo viên phát tín hiệu bắt đầu trò chơi, từng thành viên mỗi đội lần lượt lấy một thẻ từ của đội được đính sẵn trên bảng lớp và xếp vào nhóm từ thích hợp. Trong thời gian cho phép, đội nào xác định và xếp được đúng nhiều từ nhất trong thời gian nhanh nhất thì thắng cuộc. 3.8.2. Trò chơi: Hái hoa * Mục đích: - Giúp học sinh ôn lại các bài tập đọc và học thuộc lòng đã học trong chương trình. - Trả lời được các câu hỏi có liên quan đến bài đọc. * Chuẩn bị: - Chuẩn bị các bông hoa giấy để làm phiếu. Trên mỗi bông hoa ghi tên 1 bài hoặc 1 đoạn của bài tập đọc đã học trong chương trình. *Cách tổ chức: - Số lượng học sinh: từng cá nhân tham gia chơi (khoảng từ 10- 12 em chơi). - Thời gian chơi : 20- 25 phút. - Cách chơi: + Giáo viên treo phiếu hoa lên cây để hái. + Từng em lên bốc hoa nhận yêu cầu của mình, thực hiện các yêu cầu ghi trên bông hoa. + Học sinh khác nghe và nhận xét về giọng đọc của bạn và câu trả lời của bạn + Giáo viên nhận xét đánh giá. + Bình chọn bạn đọc hay và trả lời đúng + Tuyên dương trước lớp. Với trò chơi này tôi tổ chức trong các bài ôn tập: Bài 10A, bài 10B, bài 18A, bài 18B, bài 28A, bài 28B. 3.8.3. Trò chơi: Ai tài lắp ghép ? * Mục đích: - Tìm vế câu thích hợp ghép lại tạo thành câu ghép có cặp quan hệ từ “Nếu thì ” qua đó củng cố kiến thức về câu ghép, rèn kĩ năng đặt câu ghép. - Luyện trí thông minh, nhanh trí. * Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị một só câu ghép hoàn chỉnh. *Cách tổ chức: Ví dụ: Bài 20C: Hoạt động tập thể B. Hoạt động thực hành Nhiệm vụ 1. Trò chơi: Ai tài lắp ghép ? - Số đội chơi: chia lớp thành 2 đội A và B, mỗi đội tương ứng với số học sinh nửa lớp. Nếu lớp có số học sinh lẻ thì dư 1 học sinh, em đó sẽ cổ vũ và làm trọng tài. - Thời gian chơi từ 3-5 phút. - Cách chơi: Hai đội chơi, một bạn ở đội A nói một vế có từ “nếu”, ví dụ: “Nếu tôi là bác sĩ”, một bạn ở đội B phải nói vế câu tiếp theo có từ “thì”, ví dụ: “thì tôi sẽ chữa bệnh cho trẻ em nghèo không lấy tiền”. Sau đó đổi lượt, một bạn ở đội B nói một vế có từ “nếu”, một bạn ở đội A phải nói vế câu tiếp theo có từ “thì”. Nhóm nào có người không nói được sẽ thua cuộc. Với trò chơi này tôi còn có thể vận dụng để tạo hứng thú vào bài khi dạy bài 21C: Luyện viết văn tả người (tiết 2), bài 22A: Giữ biển trời Tổ quốc (tiết 2), bài 22C: Cùng đặt câu ghép (tiết 1). Ngoài trò chơi trên để học sinh củng cố thêm kiến thức, kĩ năng đặt câu ghép tôi còn tổ chức thêm các trò chơi “Ghép vế câu” sử dụng trong bài 21C: Luyện viết văn tả người, nhiệm vụ 1 của hoạt động cơ bản; trò chơi “Thi đặt câu ghép” trong bài 22C: Cùng đặt câu ghép, nhiệm vụ 1 của hoạt động thực hành. 3.8.4. Trò chơi: Giải ô chữ * Mục đích: - Luyện óc quan sát, nhận xét nhanh nhạy. - Luyện kĩ năng nhận biết và đoán từ thông qua nội dung câu hỏi gợi mở bằng các ô chữ cụ thể. * Chuẩn bị: - Giáo viên chuẩn bị kẻ sẵn ô chữ với các ô chữ theo từng chủ đề và nội dung kiến thức mỗi bài học. * Cách tổ chức: - Giáo viên có thể lựa chọn nhiều hình thức thi đoán ô chữ như chia lớp thành các đội chơi hoặc cho học sinh chơi cá nhân. - Giáo viên gọi học sinh lựa chọn ô chữ bất kì. - Người chơi nghe câu hỏi của mình và suy nghĩ trả lời. - Sau khi người chơi trả lời được thì ô chữ đó sẽ xuât hiện và cứ lần lượt như vậy giải đúng được tất cả các ô chữ thì ô chữ từ khóa sẽ xuất hiện. - Giáo viên tuyên dương cho người chơi sau mỗi lần giải đúng ô chữ. Trò chơi này tôi thường sử dụng để tạo hứng thú khi dạy bài đầu tiên của chủ điểm mới, từ khóa của trò chơi này sẽ chứa từ có trong tên chủ điểm, qua trò chơi giáo viên sẽ dẫn dắt giới thiệu chủ điểm và nội dung bài học. Trò chơi giải ô chữ còn được sử dụng khi dạy bài 10B: Ôn tập 2, nhiệm vụ 1 của hoạt động thực hành, bài 28B: Ôn tập 2, nhiệm vụ 1 của hoạt động thực hành. Ở hai nhiệm vụ này, trò chơi có sự khác biệt đôi chút: - Giáo viên chuẩn bị sẵn các tờ giấy khổ to hoặc bảng nhóm (số lượng tương ứng với số nhóm của lớp) có kẻ sẵn ô chữ như trong tài liệu hướng dẫn học và phát cho các nhóm. - Từng nhóm thảo luận để giải ô chữ trên bảng nhóm hoặc tờ giấy khổ to và ghi lại từ hàng dọc tức là từ khóa. - Các nhóm trình bày kết quả trước lớp. Nhóm nào giải đúng và xong trước thì thắng cuộc. 3.8.5. Trò chơi: Trắc nghiệm * Mục đích: - Ôn tập lại kiến thức đã học; luyện phản ứng nhanh, khả năng quan sát, nhận xét, đánh giá chính xác, tiết kiệm thời gian. - Rèn tính tự giác, nêu cao tinh thần đồng đội. * Chuẩn bị: - Giáo viên: chuẩn bị hệ thống câu hỏi và đáp án. - Học sinh: thẻ đúng, sai. * Cách tổ chức: - Chia lớp làm 2 đội chơi, cử 2 trọng tài. - Giáo viên lần lượt đưa ra câu hỏi trắc nghiệm dạng đúng sai lên quan tới kiến thức đã học. - Học sinh sử dụng thẻ đúng, sai để trả lời, sau mỗi câu hỏi giáo viên đưa ra đáp án đúng, trọng tài theo dõi tổng kết. Đội nào có số bạn trả lời sai ít hơn đội đó thắng cuộc. Trò chơi này tôi thường sử dụng để tạo hứng thú, dẫn dắt giới thiệu những bài có kiến thức liên quan tới kiến thức đã học trước đó, đặc biệt là những bài ôn tập. * Ngoài những trò chơi trên, trong tài liệu hướng dẫn học Tiếng Việt còn được thiết kế rất nhiều trò chơi ở một số nhiệm vụ học tập. Tức là để hoàn thành các nhiệm vụ học tập đó thì học sinh phải thực hiện trò chơi theo hướng dẫn trong tài liệu theo hình thức nhóm hoặc cả lớp. 4. Hiệu quả của đề tài: 4.1. Tiêu chí đánh giá: Để có được những giờ học Tiếng Việt đạt hiệu quả, mỗi người giáo viên cần phải lựa chọn các hình thức dạy học phù hợp với đặc điểm, tình hình cụ thể của lớp mình. Trong quá trình nghiên cứu của mình tôi luôn vận dụng những phương pháp dạy học phù hợp nhất. Một trong các phương pháp tôi lựa chọn đó là phương pháp trò chơi. Vậy để đánh giá phương pháp tổ chức trò chơi học tập nói chung và dạy Tiếng Việt có sử dụng phương pháp trò chơi nói riêng cần có các tiêu chí sau đây: - Mục đích của trò chơi phải thể hiện mục tiêu của bài học hoặc một phần của bài học. - Hình thức chơi đa dạng giúp học sinh được thay đổi các hoạt động học tập trên lớp, giúp học sinh phối hợp các hoạt động trí tuệ với các hoạt động vận động. - Luật chơi đơn giản để học sinh dễ nhớ, dễ thực hiện. Cần đưa ra các cách chơi có nhiều học sinh tham gia để tăng cường kỹ năng học tập, hợp tác. - Các dụng cụ chơi cần đơn giản, dễ làm hoặc dễ tìm kiếm tại chỗ. - Chọn quản trò chơi có năng lực phù hợp với yêu cầu của trò chơi. - Tổ chức chơi vào thời gian thích hợp của bài học để vừa làm cho học sinh hứng thú học tập vừa hướng cho học sinh tiếp tục tập trung các nội dung khác của bài học một cách có hiệu quả. 4.2. Kết quả: Những tiết dạy tôi áp dụng trò chơi Tiếng Việt vào giảng dạy học sinh rất hứng thú và tiếp thu bài một cách chủ động, dưới sự điều hành của các nhóm trưởng. Các em thường xuyên chơi các trò chơi học tập đó đã mang lại hiệu quả cao trong quá trình “đọc, nói, viết” của mỗi em. Chất lượng các bài tập thực hành được các em vận dụng kiến thức vào làm bài một cách chắc chắn hơn, biết sử dụng vốn từ Tiếng Việt để viết các câu văn, đoạn văn, bài văn hoàn chỉnh. Các em đã biết lồng ghép các hình ảnh so sánh, những câu văn mà trong đó sự vật được nhân hóa để viết bài. Một số học sinh đọc chưa biết ngắt nghỉ hay nhấn giọng đến nay các em đã biết thể hiện giọng đọc của mình, lời của các nhân vật. Thông qua các hoạt động thực hành. Chất lượng môn Tiếng Việt đã được nâng cao thể hiện qua kết quả kiểm tra định kì ở các học kì. Cụ thể như sau: * Giữa học kì 1: Lớp Sĩ số Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành SL % SL % SL % 5B 23 9 39,1 14 60,9 0 0 * Cuối học kì 1: Lớp Sĩ số Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành SL % SL % SL % 5B 23 12 52,2 11 47,8 0 0 * Giữa học kì 2: Lớp Sĩ số Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành SL % SL % SL % 5B 23 13 56,5 10 43,5 0 0 III. KẾT LUẬN 1. Đúc kết lại nội dung chính đã trình bày: Qua gần một năm vận dụng các giải pháp đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình trường học mới VNEN và việc tổ chức trò chơi trong dạy Tiếng Việt ở lớp 5, tôi nhận thấy mô hình đã mang lại những kết quả tốt đẹp. Giáo viên sử dụng linh hoạt các phương pháp và kỹ thuật dạy học nên đã phát huy được tính tích cực, chủ động, tinh thần hợp tác, chia sẻ để cùng nhau tìm tòi, khám phá kiến thức trong học sinh. Học sinh luôn tự lập, tự khám phá, tự chiếm lĩnh tiếp thu kiến thức tốt hơn, khắc sâu được kiến thức, mở rộng vốn từ, dùng từ ngữ viết văn sinh động, gợi tả gợi cảm hơn, nhất là học sinh không cảm thấy nhàm chán trong giờ học Tiếng Việt. Do đó duy trì tốt hơn sự chú ý của các em đối với bài học. Tạo được một môi trường học tập thân thiện, vui vẻ, thoải mái. Chất lượng học tập ngày càng cao. Nếu mỗi thầy cô cùng nêu cao ý thức trách nhiệm, tâm huyết với nghề đặc biệt coi trọng việc thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực, tôi tin chắc rằng chất lượng học tập của học sinh ngày càng được nâng cao, chất lượng giáo dục toàn diện trong các nhà trường được nâng lên. Trong nghề dạy học thì chất lượng thực của học sinh cũng phải đặt lên hàng đầu. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội ngày nay. 2. Biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn: Để thực hiện tốt các vấn đề đã được đề cập trong nội dung sáng kiến, bản thân tôi luôn xác định cho mình những biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn như sau : - Tìm hiểu rõ tác dụng của mô hình trường học mới VNEN. - Xác định tầm quan trọng của việc tổ chức lớp học mà trong đó lấy học sinh làm trung tâm, các em tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua các hoạt động cơ bản và hoạt động thực hành. - Giáo viên cần tìm hiểu những nội dung cơ bản của sách “Hướng dẫn học Tiếng việt 5” so với sách Tiếng Việt hiện hành không có sự thay đổi về mặt nội dung kiến thức. Vì vậy mà khi dạy chúng ta cần chốt kiến thức cho các em một cách cụ thể, rõ ràng. - Xây dựng đội ngũ trưởng nhóm có kĩ năng điều hành các hoạt động học một các linh hoạt theo đúng với các lôgô in trong tài liệu. - Xây dựng và rèn cho “Hội đồng tự quản” làm việc một cách hiệu quả, tích cực. - Trong quá trình giảng dạy giáo viên luôn chú ý đến “tiến độ học” của học sinh, để từ đó có những biện pháp tổ chức cụ thể. - Giáo viên luôn tạo ra hứng thú cho các em thông qua việc tổ chức các trò chơi học tập. Đặc biệt là trong môn Tiếng Việt, các em vừa học, vừa lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng. Qua đó các em thích học Tiếng Việt hơn, sử dụng ngôn ngữ “nói”, “viết” một cách thành thạo hơn. - Giáo viên luôn phối hợp với các giáo viên bộ môn, phụ huynh học sinh... hình thành cho học sinh những ngôn ngữ “nói” để từ đó các em biết vận dụng vào học Tiếng Việt qua ngôn ngữ “viết”. - Phải hết lòng yêu nghề, mến trẻ, tâm huyết với con đường mà mình đã chọn, coi học sinh là niềm vui, niềm hy vọng lớn trong đời. Không ngừng học tập, bồi dưỡng, áp dụng các chuyên đề đổi mới phương pháp giảng dạy ở tiểu học, tìm tòi sáng tạo, thay đổi linh hoạt các biện pháp giáo dục, các hình thức tổ chức học tập, nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh. Ngoài ra giáo viên còn phải là người nắm vững cơ sở tâm lí học trong giảng dạy. - Không ngừng nghiên cứu và thiết kế những trò chơi mới phù hợp với lứa tuổi học sinh, phù hợp với kiến thức bài dạy để áp dụng có hiệu quả, tạo sự mới mẻ, khơi dậy hứng thú học tập cho học sinh. Vì một trò chơi mà sử dụng quá nhiều lần, liên tục dễ gây nhàm chán cho học sinh. - Qua trò chơi, giáo viên phải giáo dục sự đoàn kết, phát huy tinh thần đồng đội, tránh xảy ra sự ganh đua, cay cú, mất đoàn kết giũa các học sinh trong lớp. - Tổ chức thường xuyên, linh hoạt các trò chơi trong mỗi giờ học Tiếng Việt. - Tổ chức triển khai đề tài cho giáo viên trong nhà trường, thông qua báo cáo lý thuyết và thực hành giảng dạy có áp dụng phương pháp trò chơi học tập. 3. Kiến nghị: Tổ chuyên môn cùng nhà trường thường xuyên tổ chức các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy môn Tiếng Việt trong đó có vận dụng phương pháp trò chơi học tập. Tổ chức khảo sát chất lượng học tập cũng như hứng thú khi học môn Tiếng Việt của học sinh ở các khối lớp để giáo viên có những định hướng đổi mới phương pháp, hình thức dạy học phù hợp kịp thời tùy vào tình hình học tập của các em học sinh. Đối với bản thân giáo viên: Không ngừng học tập, nghiên cứu đổi mới các phương pháp dạy học tích cực phù hợp với tâm lí của học sinh nhằm tạo hứng thú, phát huy tính tích cực cho học sinh. 4. Hướng phát triển của đề tài: Kết quả sau đề tài có thể được sử dụng để nghiên cứu về phương pháp tổ chức trò chơi học tập trong dạy học môn Tiếng Việt. Đồng thời chúng ta có thể tham khảo, vận dụng vào nghiên cứu phương pháp trò chơi học tập ở các môn học khác trong chương trình tiểu học. * Qua quá trình giảng dạy, nghiên cứu tôi đã rút ra kinh nghiệm “Tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN ” và áp dụng vào lớp 5B do tôi thực dạy. Kết quả cho thấy chất lượng học Tiếng Việt của học sinh được nâng lên rõ rệt so với những năm chưa áp dụng sáng kiến. Các em đều hứng thú và tăng thêm sự yêu thích học môn Tiếng Việt. Song vì trình độ có hạn, sáng kiến của tôi còn nhiều thiếu sót so với các đồng nghiệp. Rất mong ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp, sự chỉ đạo giúp đỡ của các cấp lãnh đạo để đề tài của tôi được hoàn hảo. Xin chân thành cảm ơn ! Vạn Thọ, ngày 14 tháng 3 năm 2018 HIỆU TRƯỞNG Người viết Võ Thị Hằng TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình về Tâm lí học Tiểu học – GS.TS Bùi Văn Huệ, Tài liệu của Trường Đại học Huế, xuất bản năm 2012. 2. Giáo trình về Giáo dục học Tiểu học – GS.TS Phó Đức Hòa, Tài liệu của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, xuất bản năm 2010. 3. Tài liệu về hướng dẫn học Tiếng Việt 5, tập 1A, tập 1B, tập 2A, tập 2B Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, xuất bản năm 2014. 4. Sách giáo viên Tiếng Việt 5, Nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản năm 2006. 5 Tài liệu tập huấn Môn Tiếng Việt theo mô hình Vnen, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, xuất bản năm 2013. 6. Tài liệu hướng dẫn giáo viên môn Tiếng Việt lớp 5, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, xuất bản năm 2015.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_to_chuc_tro_choi_nham_gay_hung_thu_cho.doc