Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức hoạt động trải nghiệm thực tế cho học viên các lớp tiếng Thái tại địa phương
Cơ sở thực tiễn
Cùng với các tộc người khác, người Thái có nền văn hóa phong phú đa
dạng, các tác phẩm văn học dân gian đã được ghi chép lại bằng chữ Thái
cổ.Hiện nay có khoảng 3000 tác phẩm, còn chưa kể các tác phẩm đang được
truyền miệng rải rác ở các nhóm Thái khác nhau. Các tác phẩm văn học Thái đã6
và đang được khôi phục như: Xồng chụ xỏn xảo, Khun Lú Nàng Ủa, Ý Đón, Ý
Đăm, Ý nọi Nang Xưa, Nàng Ý Tú, Nàng Phổm Hỏm
Chữ Thái được nhân dân các vùng người Thái cư trú truyền dạy cho con
cháu theo con đường cha truyền con nối đến tận bây giờ, không có trường, lớp
học, không có sách giảng dạy, không có tài liệu hướng dẫn.
Để giữ gìn, bảo tồn và phát triển ngôn ngữ chữ viết trong thời kỳ hội
nhập, Đảng, Chính phủ và các Bộ, Ngành Trung ương đã ban hành nhiều văn
bản chỉ đạo việc truyền dạy và bảo tồn phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân
tộc thiểu số.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, chúng tôi những giáo viên dạy tiếng
dân tộc Thái ở địa bàn tỉnh Nghệ An có trách nhiệm trang bị cho các học viên
vốn kiến thức cơ bản, vững vàng để có thể giao tiếp những câu thông thường với
người dân tộc Thái. Chúng tôi luôn cố gắng vươn lên về chuyên môn nghiệp vụ,
học hỏi kinh nghiệm của các bậc thầy, các bậc nghệ nhân người Thái, tham khảo
chia sẻ kinh nghiệm với các đồng nghiệp, cũng như tìm tòi sáng tạo những
phương pháp giảng dạy có hiệu quả, hấp dẫn học viên, nhằm không ngừng nâng
cao chất lượng các giờ dạy. Về mặt lý luận thì giáo viên phải là người dạy cho
các học viên hiểu đúng, thực hành đúng những kiến thức trong chương trình học
thông qua các kĩ năng: Đọc, Nói, Nghe, Viết. Trong quá trình giảng dạy tiếng
dân tộc Thái cho cán bộ công chức, viên chức thì các kỹ năng Đọc, Nói, Nghe,
Viết luôn được giáo viên giảng dạy triển khai một cách tuần tự, đan xen lẫn
nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau.Từ đó học viên chủ động trong giao tiếp và sử
dụng ngôn ngữ theo từng mục đích riêng của mình như: dịch thuật, viết tài
liệu
kính từ 45 đến 50 cm, có thể được dán giấy màu. Trò chơi tung còn có nhiều cách chơi, nhưng hiện nay chỉ còn có hai cách chơi phổ biến nhất. Cách thứ nhất: Thanh niên nam nữ chưa vợ, chưa chồng thì chơi theo tục tỏ tình, giao duyên. Nam đứng một bên, nữ đứng một bên, thoạt đầu còn tung sang nhau đại trà, sau dần dần, đôi nào phải lòng nhau tự khắc ném cho nhau, hình thức này sau cùng là chơi từng đôi một, thông qua hội tung còn, các chàng trai, cô gái nên duyên vợ chồng. Cách thứ hai: Gọi là tung còn vòng, người chơi đứng ở hai bên cây tre cách tầm từ 15 đến 20 m, thay nhau ném quả còn đi qua vòng tròn trên đỉnh cây tre, người đối diện sẽ bắt lấy quả còn và ném lại. Cứ như vậy trò chơi sẽ kết thúc khi có người ném qua vòng tròn đó nhiều nhất thì sẽ giành chiến thắng. Cách chơi này dành cho mọi đối tượng, mọi lứa tuổi. Tưởng đơn giản nhưng trò tung còn cũng đòi hỏi người chơi phải có kỹ thuật, phải cầm gần cuối đoạn dây vải, quay quả còn vài vòng theo chiều kim đồng hồ rồi mới tung lên, hướng vào vòng tròn trên đỉnh cột tre, quả còn bay trúng vào trong vòng tròn thì lúc ấy mới được công nhận là thắng cuộc. 4.2.3.2. “Tò mạc Lẹ” Tò mạc lẹ là trò chơi rất phổ biến của dân tộc Thái. Vật dụng để sử dụng trong trò chơi chính là quả lẹ, Đối tượng tham gia chủ yếu là nữ giới. Cách chơi rất đơn giản có thể dùng tay ném, đặt lên đùi hay quắp vào chânlàm sao cho quả tó má lẹ chạm đổ quả ở vạch đích là ghi điểm. Đội nào càng ghi được nhiều điểm với các tư thế ném bóng khó sẽ thắng cuộc. 4.2.3.3. Bắn nỏ Trong cuộc sống, người dân vùng cao chơi bắn nỏ để rèn luyện sức khoẻ và bảo vệ bản làng khi có giặc thù. Cánh nỏ và tên nỏ được làm từ gỗ cây già được vót nhẵn hơ trên lửa, dây nỏ được xoắn rất khéo bằng sợi lanh. Trong mỗi cuộc chơi của thanh niên bản, môn bắn nỏ có nhiều cách chơi phong phú như bắn trúng đích xa, gần. Điểm đích là bia hay chiếc lá, mảnh giấy có vẽ tâm. Không chỉ có nam giới mà nữ giới các dân tộc cũng rất mê bắn nỏ. Vì thế trong nhiều cuộc đua tranh ở bản làng hay tại ngày hội thể thao lớn trong vùng đều có đông đảo nam nữ tham gia. 42 4.3.3.4. Múa sạp Điệu múa sạp cổ truyền của đồng bào Thái có từ xa xưa phản ánh đời sống nông nghiệp của đồng bào Thái. Đó là những chiếc chầy giã gạo xếp thành đôi trên những hàng gỗ. Người múa cứ múa, người vỗ nhịp chầy theo một tiết tấu rộn ràng và rất khí thế. Thuở xưa, chưa có nhạc nền, chỉ có múa chưa có hát. Nhưng từng đôi, từng đôi nam nữ phải nhảy thế nào để không va vào chân. Dưới những hàng chầy gỗ đặt song song là những đôi chân đẹp của từng đôi nam thanh nữ tú. Ngày xuân, phụ nữ Thái mặc váy thêu, lưng đeo xà tích, quả táo bạc, đội piêu, trang sức đầy mình để nhảy với người bạn khác giới. Nhảy sạp không chỉ vui mà còn luyện cơ thể dẻo dai, khoẻ mạnh. Hiện nay, để tổ chức một buổi nhảy sạp, người ta chuẩn bị hai cây tre lớn, chắc và đủ dài làm sạp chính, cùng với nhiều cặp sạp con nhỏ hơn. Hai chiếc sạp chính đặt cách nhau một khoảng rộng vừa đủ để gác hai đầu các sạp con; từng cặp sạp con đặt song song, tạo thành một dàn sạp. Sạp được đặt trên một khoảng không gian trống, bằng phẳng để đủ chỗ cho cả những người tham gia múa và khán giả cổ vũ xung quanh 4.2.4. Văn học giân gian của đồng bào Thái Người Thái có nền văn học dân gian cổ điển khá phong phú, được lưu truyền lại nhờ phương pháp truyền miệng và ghi chép thành văn, được phân bố trên ba thể loại: các truyện cổ dân gian, ca dao, tục ngữ và truyện thơ. Với nội dung này học viên được nghe, đọc và chiêm ngưỡng những tác phẩm văn học của đồng bào Thái.. Văn học dân gian cổ điển Thái được lưu truyền lại nhờ phương pháp truyền miệng và ghi chép thành văn, có thể tạm thời phân bố trên ba thể loại: các truyện cổ dân gian; tục ngữ, dân ca; truyện thơ. Nền văn học này tuy mới được giới thiệu một số rất ít nhưng cũng đã gợi cho bạn đọc những cảm xúc tốt đẹp. Chẳng hạn như những câu tục ngữ Thái, một số tác phẩm nổi tiếng: Xống chụ xon xao, Quam tô mương, Luật tục hiện nay đã được dịch và xuất bản đang gây dư luận tốt trong bạn đọc. + Truyện kể dân gian Thái rất phong phú với các thể loại như thần thoại, truyền thuyết, sử thi, cổ tích, ngụ ngôn và truyện cười Các tác phẩm hay được lưu 43 truyền trong dân gian như truyện kể: Quam tô mương (kể chuyện bản mường) , hay sử thi “Quam Táy pú xớc” (kể chuyện người Thái đánh giặc). + Ca dao, tục ngữ Thái cũng rất đa dạng, hiện nay đã được dịch và xuất bản qua cuốn “Luật tục” đang gây dư luận rất tốt trong bạn đọc. Nói đến văn học dân gian Thái không không nhắc đến những tác phẩm truyện thơ nổi tiếng trong nền văn học viện nam như tác phẩm “Chàng Lú nang Ủa”, “ Xống chụ xon xao” Sách văn học Thái được xuất bản qua các thời kỳ Một trang trong cuốn Quam Tô Mương lưu trữ trong Bảo tàng tỉnh Sơn La 44 Nhờ có chữ viết từ rất sớm mà không ít các thần thoại, truyền thuyết, nhất là sử thi, truyện cổ dân gian, truyện thơ, truyện về cảc bản mường, cá dòng họ, các chúa đất và lệ luật bản mường được ghi chép bằng chữ Thải cổ trên giấy bản, hay trên lá cọ, chữ hằn lưu truyền trong dân gian như: Quam tô mương (kể chuyện bản mường) mà ngưòi Thái Trắng Mộc Châu gọi là Piết mương, ở miền Tây Nghệ An gọi là Lai lông mương (chữ nghĩa xuống mường); sử thi Quam Táy pú xớc (kể chuyện người Thái đánh giặc); truyện mang nội dung lịch sử xã hội còn có “Chia bản chia mường” (Păn bán păn mương), “Dựng mường lớn” (Phanh mương luông), “Dựng mường nhỏ” (Phanh mương nọi); nhiều truyện thơ nói về các sự kiện và nhân vật lịch sử như: chống giặc Cờ Vàng (1873- 1880), cuộc nổi dậy của người tù ở Sơn La do Cai Khạt chỉ huy (1911), cuộc nổi dậy chống thực dân Pháp ở Sầm Nưa và Sơn La (1914-1916), cuộc khổi nghĩa của người Hmông do Vừ Pa Chay cầm đầu (1918-1922) Nhũng tác phẩm lịch sử xã hội này vẫn còn ở nguyên bản chữ Thái cổ trong dân gian, chưa được dịch ra tiểng Việt để giới thiệu vởi công chúng. Trong số các sách chữ Thái cổ còn có cả những sách ghi chép Về luật lệ của cảc bản mường do chúa đất địa phương định ra, rổi những ghi chép về phong tục tập quán trong hôn nhân, tang ma ở mường bản. Ngay từ giữa thế kỷ trước, sau chiến thắng ở Điện Biên Phủ (1954), những người sưu tẩm, nghiên cứu văn học Thái mới thật sự quan tâm đến các di sản văn hóa phi vật thể ở miền Tây Bắc Bắc Bộ, trong đó nổi bật lên là văn học cổ truyền của dân tộc Thái. Năm 1964, Nhà xuất bản Văn học cho phát hành tập truyện thơ “Chang Lú nàng Úa” do Mục Phi biên dịch. Năm 1978, Sở Văn hóa tỉnh Thanh Hóa xuất bản truyện thơ “Khăm Panh”. Năm 1990, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Thanh Hóa lại phối hợp với Nhà xuất bản Khoa học xã hội, cho ấn hành cuốn “Trường ca Ú Thêm” bằng nguyên bản chữ Thái, kèm theo bản phiên âm và bản dịch ra quốc ngữ. Tác phẩm dân gian này do Hà Văn Ban và Hoàng Anh Nhân sưu tầm, biên dịch, gổm có 2.387 câu. Văn học dân gian của tộc ngưởi Thái còn nhũng truyện thơ khác như: “Chương Han”, “Khun Tính Khum Tổng” Với tục ngữ, thành ngữ Thái, năm 1992, trong tập “Văn học dân tộc thiểu số” có giới thiệu trên 100 câu. Nội dung chủ yếu của thể loại này là những kinh 45 nghiệm, những bài học muôn mặt đời thường đã được đúc kết theo cái lý của người Thái 4.2.5. Những làn điệu dân ca Thái Có thể nói, điệu hát, ca từ dân ca Thái không thể thiếu trong văn hóa cộng đồng của người dân tộc Thái. Vào mùa lễ hội hay cả những lúc lao động, bà con dân bản lại cất vang câu hát để giãi bày tâm trạng của mình, đó là niềm vui, háo hức, là an ủi, động viên như để tiếp thêm tinh thần mỗi khi mệt mỏi Người Thái rất yêu văn nghệ, dù bất cứ ở đâu, trong hoàn cảnh nào, đồng bào đều có thể cất lên tiếng hát. Những làn điệu dân ca, dân vũ, nhạc cụ truyền 46 thống của người Thái đang được bảo tồn, phát triển, trong đó có sự đóng góp của các đội văn nghệ. Đồng bào Thái rất thích ca hát, đặc biệt là khắp. Khắp là lối ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa. Nhiều điệu múa như múa xòe, múa sạp, múa quạt rất độc đáo đã được trình diễn trên sân khấu trong và ngoài nước, vào dịp lễ hội. Dân ca Thái có nhiều làn điệu, mỗi làn điệu lại gắn với những hình thức sinh hoạt âm nhạc khác nhau. Được bắt nguồn từ môi trường sống lao động, sản xuất và sinh hoạt văn hóa, dân ca Thái rất da diết, sâu lắng. Hát dân ca thường được tổ chức trong các sinh hoạt cộng đồng, hội hè, đám hiếu hỷ. Trong lao động sản xuất, bà con cũng hát cho vơi bớt mệt nhọc, cho thỏa tâm tư nỗi niềm. Điều nổi bật của hát dân ca với các làn điệu khác trong hát Thái chính là phần thanh nhạc khi người hát sử dụng, cách ngắt âm, ngắt nhịp, tiết tấu của bài hát. Từ xa xưa, người Thái đã biết chế tạo các loại nhạc cụ và lưu truyền đến ngày nay, đó là trống, chiêng, tính tẩu, nhị, sáo, kèn nứa. 47 Nhạc cụ đa số sử dụng nguyên liệu núi rừng Nhiều làn điệu hát mang tính tâm linh, hát trong những dịp tế lễ 48 Cùng với những làn điệu giao duyên, trao gửi tâm tình, bộc lộ tình cảm lứa đôi, thì nhiều lời ca gắn với cuộc sống sinh hoạt, lao động của bà con. Đặc biệt, đồng bào Thái còn có nhiều làn điệu hát mang tính tâm linh, tín ngưỡng, hát trong những dịp tế lễ. Đối với đồng bào Thái, đám cưới là một dịp đại hỷ của gia đình, mừng vì con trai, con gái mình đã tìm được người yêu, người tâm đầu ý hợp. Gia đình tổ chức đám cưới mời cả bản đến dự, hát mừng hạnh phúc cho đôi vợ chồng trẻ. Những làn điệu giao duyên, trao gửi tâm tình Cũng như nhiều dân tộc khác, trẻ em dân tộc Thái cũng có đồng dao. Đó là những bài hát gắn liền với kỷ niệm tuổi thơ, ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người. Bài đồng dao “Bươn ơi” - Trăng ơi, thì hầu như trẻ em người Thái thường được các thế hệ đi trước truyền dậy Những bài hát đồng dao thường chỉ vần theo bài hát, không có ý nghĩa xuyên suốt trong một bài nhưng giúp cho con người thêm yêu thiên nhiên, yêu quê hương mình. 4.2.6. Các hoạt động của học viên tại nơi đi thực tế - Sau khi nghe các nghệ nhân Thái trình bày về các phong tục tập quán, các ngành nghề, các trò chơi dân gian; học viên được đại diện của bản, lãnh đạo xã và đại diện bà con dẫn đoàn đi đến thực tế từng ngôi nhà sàn của người Thái, 49 học viên một lần nữa được nghe, nhìn, thấy chi tiết hơn tục ở nhà sàn của người Thái và kiến trúc của ngôi nhà qua lời giới thiệu bằng tiếng Thái của chủ nhà. Qua đó học viên tăng thêm vốn từ trong giáo tiếp và hiểu biết thêm về tục ở nhà sàn của người Thái. - Ngoài ra học viên được đến tham quan các gian hàng trưng bày trang phục truyền thống của đồng bào thái, có thể mặc thử để chụp ảnh và mua những bộ trang phục ưa thíchtất cả đều giao tiếp bằng tiếng của đồng bào. - Sau khi học viên được đi tham quan và nghe báo cáo thì lớp học về tại nhà văn hóa cộng đồng (nơi tập trung ban đầu) ban tổ chức sẽ chia nhóm lớp (chia thành 4 nhóm- mỗi nhóm khoảng hơn 10 học viên) để tham gia thực hành một số hoạt động như: + Cúng làm vía, buộc chỉ cổ tay: sau khi cúng làm vía mỗi học viên được buộc chỉ trên cổ tay để luôn được may mắn và bình an. Theo phong tục của người Thái con người có hồn vía, nếu vía bị tản mát đi thì người không được mạnh khỏe vậy nên tục cúng vía buộc chỉ có ý nghĩa buộc vía lại để được mạnh khỏe. + Tham gia chế biến các món ăn trong ẩm thực của người Thái: Nhóm chế biến cơm lam, xôi nếp nhóm chế biến thịt nướng, nhóm làm mọc, nhóm chế biến các món khác + Tham gia tham gia trải nghiệm đánh cồng chiềng - một nét văn hóa đặc trưng của đồng bào Thái. + Tham gia trải nghiệm các hoạt động như dệt vải, đan lát, đan chai lưới cùng bà con. + Tổ chức thực hành các trò chơi dân gian của đồng Thái như sau: Nhóm 1: học viên nữ chơi trò Tò mạc lẹ Nhóm 2: học viên nam nữ trải nghiệm chơi trò ném còn Nhóm 3: Múa sạp Nhóm 4: đi cà kheo Sau đó giáo viên đảo nhóm để tất cả các học viên đều được trải nghiệm các trò chơi dân gian của đồng Thái, hòa mình vào văn hóa Tháiđể nhằm nâng 50 cao vốn hiểu biết về văn hóa, bản sắc của đồng bào đồng thời nâng cao khả năng giao tiếp khi giao lưu cùng đồng bào Thái. + Giao lưu văn hóa, văn nghệ, ẩm thực cùng bà con địa phương Với nội dung này các học viên trước hết được nghe và xem các nghệ nhân biểu diễn các điệu hát cùng với các nhạc cụ truyền thống của họ và sau đó học viên được chia nhóm và trải nghiệm thực hành các nhạc cụ của đồng bào thái, học viên được các nghệ nhân dạy hát, dạy thổi kèn, thổi sáo..v.v Học viên sẽ biết được mỗi điệu dân ca Thái phải có một chất giọng riêng, không lẫn vào đâu được. Ví như khi điệu hát nhuôn, thì giọng phải trầm, ngân nhiều, phải lấy hơi, hát giọng cổ. Trong khi đó, nếu hát điệu hát lăm phải nhịp điệu nhanh, đều, rộn ràng. Ở thể loại hát ru, cần phải sử dụng độ luyến láy nhiều hơn, làm thế nào để diễn tả được tình thiêng liêng mẫu tử. Bên cạnh việc tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc của đồng bào Thái thì trong đợt học thực tế học viên còn được giao lưu ẩm thực cùng bà con thôn bản..bên những mâm cơm truyền thống, bên chum rượu cần sâu đậm tình người, hòa chung tiếng hát, tiếng kèn, tiếng công chiêng..say đắm lòng người. Qua đó học viên có thêm cơ hội được giao tiếp bằng ngôn ngữ Thái. 5. Tổng kết đánh giá, bài học kinh nghiệm và hướng phát triển của đề tài 5.1. Tổng kết đánh giá Kết thúc đợt học trải nghiệm thực tế hai ngày giáo viên tổng kết đánh giá nhận xét và rút kinh nghiệm để nhằm mục đích nâng cao hiệu quả cho những khóa học sau. Đồng thời hướng dẫn học viên viết bài thu hoạch qua chuyến đi thực tế. 5.2. Bài học kinh nghiệm Từ cách thức tổ chức các hoạt động trải nghiệm thực tế cho học viên lớp tiếng dân tộc thiểu số và những kết quả đạt được chúng tôi rút ra những bài học sau, tập trung vào công tác tổ chức và quản lý: + Phòng Bồi dưỡng nâng cao trình độ, giáo viên giảng dạy xây dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể và giao trách nhiệm cho các nhân cụ thể. + Trung tâm GDTX huyện nơi đặt lớp cần có sự phối hợp nhịp nhàng với lớp với giáo viên giảng dạy 51 + Địa phương nơi học viên sẽ đến học tập thực tế phải chuẩn bị thật cho đáo và kỹ lưỡng các chương trình, nội dung mà lớp đã yêu cầu. Tất cả các bộ phận liên quan phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ. 5.3. Hướng phát triển của đề tài Với phạm vi của đề tài này, chúng tôi chỉ có thể khái quát một cách chung nhất cách thức tổ chức các đợt đi học tập qua phương pháp trải nghiệm thực tế cho học viên các lớp bồi dưỡng tiếng nói và chữ viết dân tộc Thái tại Trung tâm GDTX-HN Nghệ An. Những phương thức, cách làm mà chũng tôi tiến hành trong thời gian qua đã mang lại những hiệu quả nhất định. Trong thời gian tới, chúng tôi có thể mở rộng, phát triển đề tài theo hướng chuyên sâu vào các nội dung cụ thể như: mở rộng phạm vi các lớp được đi học tập thực tế (không dừng ở các lớp được cấp ngân sách bồi dưỡng; cách thức xây dựng chương trình thực tế đa dạng hơn..v.v.. hoặc những biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng bồi dưỡng thông qua các hoạt động học tập thực tế. PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Trung tâm GDTX-HN Nghệ An là một trong những Trung tâm có quy mô đào tạo, bồi dưỡng hàng đầu của ngành học GDTX trong cả nước. Trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao cũng như thực hiện các văn bản chỉ đạo của Bộ, Ngành và Sở GD&ĐT Nghệ An về việc giảng dạy, bồi dưỡng tiếng nói và chữ viết dân tộc thiểu số, Trung tâm GDTX-HN trong những năm vừa qua đã và đang đào tạo thành công các khóa học tiếng dân tộc thiểu số cho đối tượng học viên là cán bộ, công chức, viên chức, giáo viên đang công tác tại địa bàn các huyện miền núi trong tỉnh. Với việc nhận thức rõ được tính cấp thiết và lâu dài của công tác đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc, các địa phương đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các bộ, công chức, viên chức của đơn vị được đi học tiếng dân tộc thiểu số.Cán bộ CCVC công tác ở các vùng dân tộc miền núi cơ bản đã xã định được việc học tập tiếng dân tộc thiểu số là nhu cầu đồng thời là nhiệm vụ Như chúng ta đã biết, tiếng dân tộc là công cụ giao tiếp quan trọng trong việc hoà nhập với cộng đồng các dân tộc thiểu số trong tỉnh và trên phạm vi toàn 52 quốc. Giảng dạy ngoại ngữ nói chung, tiếng dân tộc Thái nói riêng luôn có nhiều dao động và biến đổi theo nhịp tiến hóa chung của nền văn minh và văn hóa thế giới. Đó là điều mà không ai có thể phủ nhận. Vì vậy đòi hỏi nội dung chương trình dạy học này phải phong phú, chuyên sâu, học đi đôi với thực hành, học viên không chỉ học ở lớp mà còn phải được trải nghiệm các hoạt động thực tế tại địa phương để qua đó tích lũy thêm vốn hiểu biết, ngôn ngữ để phục vụ và đáp ứng đáp ứng yêu cầu của xã hội. Để góp phần nâng cao chất lượng công tác của cán bộ công chức, viên chức ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt để góp phần bảo tồn, phát triển tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số. Một vấn đề quan trọng trong việc đưa các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đến với đồng các dân tộc thiểu số ở các huyện miền núi Nghệ An là việc tiếp cận với đồng bào; vì vậy ngoài việc thành thạo chữ viết thì khả năng giao tiếp và hiểu biết về văn hóa của đồng bào là rất cần thiết. Bởi vì theo chủ trương của Đảng thì Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc. Trong quá trình áp dụng những kinh nghiệm trên vào thực tiễn tổ chức các hoạt động thực tế tại địa phương. Các học viên các lớp tiếng Thái ngày càng được nâng cao rõ rệt về vốn ngôn ngữ và văn hóa, phong tục tập quán của đồng bào và qua đó nhiều học viên có thể sử dụng thành thạo tiếng Thái trong giao tiếp với đồng bào dân tộc qua đợt học trải nghiệm thực tế nhằm giúp học viên thuận lợi trong quá trình công tác trên địa bào có đồng bào Thái sinh sống đồng thời góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa những tinh hoa tốt đẹp của đồng bào dân tộc Thái. 2. Kiến nghị 2.1. Đối với UBND tỉnh Nghệ An và Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An - Tổ chức quán triệt và nâng cao nhận thức cho lãnh đạo các cơ quan, đơn vị và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức về vị trí vai trò và tầm quan trọng của công tác đào tạo tiếng dân tộc thiểu số. - Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với công tác bồi dưỡng các lớp bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số. 53 - Tiếp tục xây dựng kế hoạch bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số đáp ứng nhu cầu cao của người học. 2.2. Đối với Trung tâm GDTX-HN Nghệ An - Chỉ đạo, nâng cao hơn nữa chất lượng giảng dạy cho tất cả các khóa học tiếng DTTS nói chung, tiếng dân tộc Thái nói riêng mà Trung tâm phụ trách. - Thường xuyên kiểm tra, giám sát quá trình dạy và học tại các đơn vị đặt lớp. 54 MỘT SỐ HÌNH ẢNH CÁC LỚP BỒI DƯỠNG TIẾNG NÓI VÀ CHỮ VIẾT DÂN TỘC THÁI ĐI THỰC TẾ TẠI ĐỊA PHƯƠNG 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tham khảo các Quyết định, Thông tư và văn bản Hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT NGhệ An 2. Tục ngữ ca dao Thái cổ (Sách Thái cổ) 3. Tập Truyện thơ các dân tộc ít người (NXB VHDT, 2000). 4. Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc (Nguyễn Khoa Điềm chủ biên). 5. Bản sắc văn vóa dân tộc (Tác giả Hồ Bá Thân– NXB văn hóa thông tin, 2003.) 6. Tìm hiểu văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (Tác giảNgô Văn Lệ– NXB GD Hà Nội. 1998) 7. Nghệ thuật trang phục Thái (Tác giả Lê Ngọc Thắng – NXB VHDT Hà Nội 1990) 8. Văn hóa và lich sử người Thái ở Việt Nam (NXB VHDT Hà Nội 1996) 9. Tài liệu Tiếng nói và chữ viết Dân tộc Thái hệ Lai Tay cho cán bộ công chức viên chức công tác tại các huyện miền núi tỉnh Nghệ An-UBND tỉnh Nghệ An (Chủ biên-TS Lê Võ Bình; Các tác giả: Trần Lam Sơn, Hoàng Thị Hoài An, Nguyễn Thị Hải Yến, Phan Lan Anh, Nguyễn Tùng Sơn, Lữ Thanh Hà, Vi Ngọc Chân, Sầm Văn Bình).
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_to_chuc_hoat_dong_trai_nghiem_thuc_te.pdf