Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng thiết bị dạy học như thế nào trong giảng dạy môn Vật lý
Khi Nghiên cứu trao đổi với các nhóm bộ môn cũng như với giáo viên dạy bộ môn Vật lí về vấn đề khai thác các thí nghiệm trong các giờ học vật lý, nhất là thí nghiệm vật lý 6 và 7. Đây là khối lớp mà bước đầu các em đã được làm quen với phương pháp đổi mới trong dạy học, đó là điều kiện rất thuận lợi để có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả trong việc tiếp thu kiến thức của học sinh. Trong chuyên đề này tôi muốn đề cập đến việc sử dụng thiết bị dạy học môn vật lí như thế nào để giờ học đạt hiệu quả ?
Năm học 2008 - 2009 là năm thứ bảy thực hiện chủ trương của ngành Giáo dục Đào tạo là: Phải thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy. “Phát huy trí lực của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm” Trong những năm học qua bản thân tôi là giáo viên dạy Vật lý tôi cũng rất trăn trở, tìm tòi, từng bước thực hiện việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo yêu cầu của ngành giáo dục đề ra. Về phương pháp giảng dạy là một trong những yếu tố cơ bản và quan trọng nhằm truyền đạt kiến thức cho học sinh học đạt hiệu quả tốt nhất. Phương pháp giảng dạy phù hợp, khoa học sẽ là con đường giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả, phát huy trí lực của học sinh. Mỗi cấp học, mỗi bộ môn đều phải có một phương pháp giảng dạy phù hợp và không ngừng đổi mới, hoàn thiện và đây cũng chính là một trong những yếu tố, động lực nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh hiện nay.
Vì vậy việc sử dụng thiết bị dạy học đặc biệt môn vật lí như mô hình, tranh vẽ, biểu tượng, băng hìnhđược sử dụng không chỉ minh hoạ kiến thức, lời giảng của giáo viên mà chủ yếu là nguồn tri thức, là phương tiện để học sinh khai thác tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức. - Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 của ban chấp hành trung ương khóa VIII về những giải pháp chủ yếu trong giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của học sinh. Từng bước áp dụng những phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh, ....” 2- Kết quả: Trước đây trong khi giảng dạy các môn học giáo viên chỉ chú trọng đến khối lượng kiến thức cần truyền đạt mà coi nhẹ phương pháp học tập và nghiên cứu mang tính đặc thù của từng môn. Vật lý là môn khoa học thực nghiệm thế nhưng tình trạng phổ biến hiện nay vẫn là: - Hầu hết các bài dạy chưa có đủ dụng cụ thí nghiệm cần thiết cho học sinh. Kĩ năng làm thí nghiệm của học sinh vẫn còn hạn chế . Dụng cụ thí nghiệm còn thiếu hoặc không đồng bộ, chất lượng kém . Một số trường đều chưa có cán bộ phụ trách phòng thí nghiệm được đào tạo có chuyên môn. Về cơ bản việc sử dụng thí nghiệm Vật lí ở trường trung học cơ sở vẫn còn hạn chế , chưa phát huy hết được tính độc lập sáng tạo của học sinh . Trong khi đó lượng kiến thức trong sách giáo khoa luôn được bổ sung chỉnh lí cho kịp với sự phát triển của thời đại . Việc sử dụng thiết bị dạy học như thế nào trong giảng dạy môn vật lí là một biện pháp giúp học sinh gây hứng thú óc tò mò, quan sát. Tạo điều kiện cho học sinh được tự tay làm thí nghiệm, tự quan sát đo đạc rút ra nhận xét, kết luận, được trải nghiệm trong thực tế. Tạo điều kiện cho học sinh tìm hiểu cấu tạo, cách sử dụng một dụng cụ đo. B. Giải quyết vấn đề 1- Trong quá trình dạy học là từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng, song quá trình nhận thức đó đạt hiệu quả cao hay không còn phụ thuộc vào phương pháp giảng dạy của thầy và quá trình tiếp thu kiến thức của trò. Vật lý là một trong những môn học có ưu thế trong việc phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh, trong đó sách giáo khoa là một trong những phương tiện thể hiện phương pháp dạy học tích cực. Trong chương trình vật lý 6, học sinh đã nhiều lần tập đưa ra “Dự đoán” và được giáo viên hướng dẫn làm thí nghiệm để kiểm tra tính đúng đắn của dự đoán. Đến lớp 7 phương pháp nghiên cứu đó cần được phát triển và nâng cao hơn cần hướng dẫn học sinh thường xuyên đưa ra nhiều dự đoán khác nhau về cùng một hiện tượng và tự lực đề xuất các phương án làm thí nghiệm để kiểm tra dự đoán. Đặc biệt trong chương trình vật lý lớp 8 và lớp 9 có sử dụng nhiều đến phương pháp thực nghiệm, tiếp tục rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm thí nghiệm và từ thí nghiệm rút ra kiến thức của bài học.Bên cạnh việc áp dụng phương pháp thực nghiệm cần phải sử dụng phương pháp suy luận lôgic mới có thể rút ra kết luận khoa học. Chẳng hạn như căn cứ vào quan sát thí nghiệm, rút ra được các dạng giống nhau cho nhiều trường hợp, dạng đặc biệt của một trường hợp , xác định mối quan hệ định lượng giữa các hiện tượng.Tạo điều kiện để học sinh tự tay làm thí nghiệm, tự mình quan sát, đo đạc và rút ra nhận xét kết luận. Tạo điều kiện để học sinh tìm hiểu cấu tạo cách sử dụng một dụng cụ đo. Qua việc nghiên cứu các số liệu để rút ra kết luận. Ví dụ: Yêu cầu học sinh nghiên cứu kết quả thí nghiệm bài 24 Vật lí lớp 6 Bảng 24.1 ghi “Nhiệt độ và thể của băng phiến trong quá trình đun nóng”. Từ đó học sinh biết vẽ đường biểu diễn sự thay đổi nhiệt độ của băng phiến theo thời gian khi đun nóng, trả lời câu hỏi và rút ra kết luận về nhiệt độ nóng chảy của băng phiến. Từ những nguyên nhân trên đẫn đến chất lượng của bộ môn chưa được tốt. Do đó trong 4 giải pháp đổi mới phương pháp dạy học vật lí ở trường trung học cơ sở thì giải pháp “Phấn đấu làm đầy đủ, có chất lượng các thí nghiệm trên lớp là giải pháp được đặt lên hàng đầu” . Chú trọng việc sử dụng đồ dùng dạy học và dụng cụ thí nghiệm ở tất cả các môn học trong các tiết dạy của giáo viên. Các tiết vật lý cũng như các tiết học khác nhất là các môn KHTN, thí nghiệm Thầy cần tạo điều kiện để các em học sinh được tự tay làm thí nghiệm, tự mình quan sát, đo đạc và rút ra nhận xét, kết luận (tức là được trải nghiệm trong thực tế) các em học sinh học tập hứng thú hơn phát huy được tính năng động sáng tạo của các em, kết quả học tập đạt cao hơn rất nhiều. - Nếu có điều kiện, GV có thể sử dụng những phương tiện dạy học hiện đại như băng hình, đĩa CD trong tiết dạy. - Việc áp dụng công nghệ thông tin vaò giảng dạy. Đảng và Nhà nước ta đã chỉ đạo nghành Giáo dục đưa công nghệ thông tin vào trong các nhà trường. - Trong chương trình Vật lí 8 với đề tài Cơ học và Nhiệt học các phần này hầu như bài nào cũng có thí nghiệm. Từ các thí nghiệm học sinh hình thành khái niệm. Ví dụ: Bài “Chuyển động cơ học”.Bài: “Lực đẩy ác Si Mét” Và Bài: “Dẫn Nhiệt”Cũng từ các thí nghiệm học sinh nhận biết được : Vật như thế nào được chọn làm vật mốc. Khi nào một vật được coi là đứng yên , hay chuyển độngHoặc bài “Lực đẩy ác Si Mét”: Khi nào vật nổi, Khi nào vật chìm. khi nào vật lơ lửng.Bài “Dẫn nhiệt”: phát hiện được vật nào dẫn nhệt tốt, vật nào dẫn nhiệt kém. Trong các phần này, chủ yếu là các thí nghiệm biểu diễn hình thành tri thức mới và một vài thí nghiệm chứng minh.Thí nghiệm kiểm tra đóng vai trò khai thác sâu kiến thức, biến kiến thức thành kỹ năng kỹ xảo vận dụng vào giải bài tập. Ví dụ: Thí nghiệm về Bài: “Sự tạo ảnh trên phim trong máy ảnh”: Học sinh biết nêu và chỉ ra được hai bộ phận chính của máy ảnh là vật kính và buồng tối. Nêu và giải thích được các đặc điểm của ảnh hiện trên phim của máy ảnh. Dựng được ảnh của một vật được tạo ra trong máy ảnh. + Kết quả là học sinh xác định được ảnh của vật hiện trên phim + Tính được tỷ số chiều cao của ảnh và chiều cao của vật.Nhận xét được về chiều cao của vật và chiều cao của ảnh. + Kết luận: ảnh trên phim là ảnh thật, ngược chiều và nhỏ hơn vật. Để khai thác các thí nghiệm, làm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh một cách cao nhất cần có một số biện pháp sau: + Những biện pháp thực hiện. Vật lí là môn khoa học thực nghiệm, các tri thức vật lí là sự khái quát hoá các kết quả nghiên cứu thực nghiệm và các hiện tượng diễn ra trong đời sống.Dựa trên các thí nghiệm học sinh thực hiện được các thao tác tư duy để tiếp thu tri thức mới: Bài học có thí nghiệm kích thích óc tò mò khám phá khoa học, ham hiểu biết, rèn luyện óc độc lập suy nghĩ và tư duy sáng tạo cho học sinh. Sau đây tôi xin được chia sẻ một số kinh nghiệm cũng như được trao đổi với các đồng nghiệp về biện pháp tổ chức học sinh tiếp thu kiến thức và đặc biệt là việc làm thí nghiệm để đạt hiệu quả trong bài học: 1. Chuẩn bị thí nghiệm Nói chung thí nghiệm phải kích thích được hứng thú óc sáng tạo của học sinh. Muốn đạt được điều đó giáo viên phải tìm hiểu thật kỹ nội dung bài dạy, các thí nghiệm sẽ làm. Ví dụ: khi nghiên cứu ảnh của một vật tạo bởi “Thấu kính hội tụ”Vật lí lớp 9, tức là học sinh phải trả lời được câu hỏi: “ảnh của một vật tạo bởi thấu kímh hội tụ là ảnh thật hay ảnh ảo, cùng chiều hay ngược chiều với vật”? Từ đó giáo viên xác định rõ mục đích thí nghiệm, lựa chọn các dụng cụ thí nghiệm cần thiết cho phù hợp. Các dụng cụ thí nghiệm phải đơn giản dễ làm và chất lượng tốt đảm bảo độ chính xác cao. Trong quá trình giảng dạy rất cần có óc sáng tạo của giáo viên để có được các dụng cụ thí nghiệm phù hợp, vì không phải dụng cụ thí nghiệm nào cũng có và cũng hoạt động tốt, nhiều khi giáo viên phải tự tạo ra các dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho giảng dạy. Để kích thích sự hứng thú học tập của học sinh giáo viên cũng cần phải chọn các thí nghiệm có đồ dùng màu sắc tương phản giúp học sinh quan sát tốt hơn. Thí nghiệm thành công tức là phải được chuẩn bị kỹ, làm đi làm lại nhiều lần, nếu thất bại sẽ phá vỡ tiến trình bài học gây tâm lí hoang mang thất vọng đối với học sinh. Chuẩn bị trước các dụng cụ thí nghiệm cần thiết cho từng bài. Những kĩ năng cần lưu ý trong khi làm thí nghiệm , thực hành. Định hướng cho học sinh biết quan sát một cách có mục đích, có kế hoạch. Trong một số trường hợp có thể để học sinh tự vạch ra kế hoạch quan sát chứ không tuỳ tiện, ngẫu nhiên. Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh trao đổi kĩ trong nhóm về mục đích và kế hoạch quan sát rồi mới quan sát + Cần chú trọng việc nghi chép các thông tin thu được, lập thành biểu bảng một cách trung thực. + Cần chú trong phát triển ngôn ngữ cho học sinh. Điều không thể thiếu được là giáo viên phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh quan sát hiện tượng, phân tích kết quả thí nghiệm vận dụng các kiến thức có liên quan để đi đến tri thức mới một cách lôgic. 2. Tiến hành thí nghiệm. *Bước 1: Tổ chức tình huống học tập. - Đặt câu hỏi nghiên cứu. - Nêu dự đoán. - Đề ra giả thuyết. * Bước 2: Thu thập thông tin: - Quan sát các sự kiện, hiện tượng, thí nghiệm. - Tìm thêm những thông tin từ sách báo. - Lập kế hoạch thí nghiệm (thiết kế thí nghiệm, lựa chọn dụng cụ, chỉ ra đại lượng cần đo) - Tiến hành thí nghiệm (bố trí lắp ráp dụng cụ, thiết bị thí nghiệm, thực hịên thí nghiệm theo hướng dẫn, thay đổi phương án thí nghệm nếu kết quả thí nghiệm không không phù hợp với vấn đề đặt ra) - Nghi các kết quả thí nghiệm(đọc các kết quả đo được, lập babgr kết quả, biểu diễn bằng sơ đồ, đồ thị) *Bước 3 : Xử lí thông tin Ví dụ:- Lập bảng, biểu, vẽ đồ thị theo những cách khác nhau, từ đó phân tích dữ liệu, kết quả thí nghiệm và nêu ý nghĩa của chúng. - Tìm quy luật từ kết quả thí nghiệm từ biểu bảng đồ thị. - Phân loại dấu hiệu giống nhau, khác nhau, nhận biết những dấu hiệu bản chất của những nhóm đối tượng đã quan sát...... - So sánh, phân tích, tổng hợp dữ liệu và rút ra kết luận *Bước 4: Thông báo kết quả làm việc - Mô tả lại những thí nghiệm đã làm - Trình bày, giải thích những việc đã làm bằng lời, bằng hình vẽ hoặc bằng đồ thị... - Nêu kết luận đã tìm thấy được từ thí nghiệm. *Bước 5: Vận dụng ghi nhớ kiến thức - Vận dụng giải các bài tập (định tính, định lượng, thực nghiệm) làm đồ chơi, dụng cụ học tập, sử dụng kiến thức vừa học. - Trong mỗi tiết dạy có thí nghiệm, giáo viên có thể phát huy tính tích cực học tập của học sinh ở những mức độ khác nhau(có thể giáo viên thực hiện, có thể giáo viên điều khiển học sinh thực hiện một vài phần, có thể để học sinh tự thực hiện hoàn toàn.....) Ví dụ : Về bài “Định luật về công”(Vật lí lớp 8). - Khi nghiên cứu về : Dùng tay kéo lực kế từ từ theo phương thẳng đứng sao cho vật dịch chuyển được quãng đường bằng s1. Giáo viên phải yêu cầu học sinh tìm hiểu mục đích của thí nghiệm, dụng cụ thí nghiệm và cách tiến hành thí nghiệm. I- Mục đích: Chứng minh được không một máy cơ đơn giản nào cho ta lợi về công, được lợi bao nhiêu lần về lực thì thiệt bấy nhiêu lần về đường đi. II- Chuẩn bị thí nghiệm III- Tiến hành thí nghiệm: 1, Bố trí thí nghiệm như hình 14,1 trong SGK 2, Tiến hành thí nghiệm Thí nghiệm 1: Bố trí thí nghiệm như hình 14,1a. Hiệu chỉnh lực kế. Móc vật nặng vào lực kế, kéo lực kế từ từ theo phương thẳng đứng lên một đoạn s1( s1 đo được trên thước) Số chỉ F1 đo được của lực kế chính là trọng lượng P của quả nặng. Ghi giá trị của F1 ( P) và S1 vào bảng. Thí nghiệm 2: Bố trí thí nghiệm như hình 14,1b Một đầu của sợi dây được móc vào móc của lực kế, đầu kia được buộc cố định trên giá đỡ. Treo vật vào móc treo của ròng rọc. Dùng tay kéo lực kế từ từ theo phươpng thẳng đứng sao cho vật dịch chuyển được quãng đường bằng S1. Khi đó đầu của lực kế di chuyển được quãng đường S2 và lực kế chỉ giá trị F2 Ghi kết quả này vào bảng. Từ bảng kết quả tính công của lực F1 và F2 theo công thức A = F . s Với lực F1 ta có A1 = F1 . s1 Với lực F2 ta có A2 = F2 . s2 Sau khi tiến hành xong thí nghiệm GV cần lưu ý cho học sinh những điểm sau + Khi làm thí nghệm ta cần kéo sao cho trong quá trình kéo giá trị của lực kế không thay đổi + Khi đọc kết quả trên thước ta cần nhìn thẳng góc với thước, để kết quả đo s1 và s2 chính xác + Trong thí nghiệm hình 14.1b, điều chỉnh sao cho sợi dây móc vào lực kế song song với sợi dây treo vào giá. Để phát huy hiệu quả các thí nghiệm học sinh tự tìm tòi kiến thức một cách chủ động sáng tạo. Điều vô cùng quan trọng là giáo viên phải biết kết hợp thí nghiệm với hệ thống câu hỏi dẫn dắt. Ngoài sự nỗ lực của bản thân mỗi giáo viên cần tích cực học hỏi, trao đổi dự giờ bạn nhất là giao lưu chuyên môn, các giờ dạy tốt dạy giỏi ở trường bạn. Đặc biệt trong trường hàng tuần tổ chức một buổi sinh họat chuyên môn của nhóm, tổ như đăng ký dạy tốt, thảo luận về việc vận dụng đổi mới phương pháp giảng dạy vào từng tiết học. Bàn bạc trong tổ về cách thức sáng tạo các thí nghiệm trong từng bài dạy. Nhờ đó mà kỹ năng thí nghiệm và chất lượng giảng dạy được nâng nên rõ rệt. IV. áp dụng vào một trường hợp cụ thể. Tiết 13: Bài 11:(lớp 8) Thực hành: nghiệm lại lực đẩy ác – si – mét I- Mục tiêu: Về kiến thức: Viết được công thức tính độ lớn lực đẩy ác – Si – Mét, nêu đúng tên và đơn vị đo các đại lượng trong công thức. Bằng thực nghiệm chứng tỏ được độ lớn của lực đẩy ác – Si – Mét bằng trọng lượng của khối chất lỏng bị vật chiếm chỗ. Về kĩ năng: Sử dụng được lực kế, bình chia độđể làm thí nghiệm kiển chứng độ lớn của lực đẩy ác – Si – Mét. Tập đề xuất phương án thí nghiệm trên cơ sở các dụng cụ đã có. Về thái độ: Rèn luyện tính cẩn thận, sáng tạo trong nghiên cứu thí nghiệm, tinh thần hợp tác trong nhóm học tập. II- Chuẩn bị: 1, Giáo viên: a, Dụng cụ thí nghiệm: - Cho mỗi nhóm HS: 1 lực kế 0 – 2,5 N(hoặc 1 lực kế 0 – 5N), độ chia nhỏ nhất 0,02N: có thể hiệu chỉnh được. 1 vật bằng nhôm, hình trụ, đương kính 4cm, thể tích 50cm3, có móc treo 1 giá đỡ, 1 bình chia độ, 1 bình nước,1 khăn lau. - Cho cả lớp: Bảng kết quả thí nghiệm. Nhóm Lực đẩy ác – si – Mét(FA) Trọng lượng khối chất lỏng bị vật chiếm chỗ So sánh FA và PN Nhận xét b, Dự kiến chia lớp thành 5 nhóm thực hành. c, Nội dung ghi bảng: 2, Học sinh:Mỗi nhóm học sinh chuẩn bị 1 báo cáo thực hành (trang 42 SGK) 3, Gợi ý ứng dụng công nghệ thông tin: III- Tổ chức hoạt động học tập Hoạt động 1 (5phút) kiểm tra bài cũ, tổ chức tình huống Hoạt động của học sinh Trợ giúp của giáo viên Trả lời câu hỏi của GV Viết công thức tính độ lớn của lực đẩy ác- Si - Mét? Nêu tên và đơn vị của các đại lượng có trong công thức? + Câu trả lời: Công thức: FA = d.V Trong đó: FA: lực đẩy ác- Si -Mét d: trọng lượng riêng của khối chất lỏng bị vật chiếm chỗ (N/m2). V: Thể tích phần chất lỏng bị vật chiếm chỗ (m2) - Nhận xét câu trả lời của bạn? - Để làm thí nghiệm kiểm chứng lạiđộ lớn của lực đẩy ác- si- Mét ta cần dụng cụ gì? và bố trí như thế nào? Nêu câu hỏi. Đặt câu hỏi tình huống: Tích d.V gọi là gì? Nêu câu hỏi. Hoạt động 2 (5phút) Nhận dụng cụ nêu phương án làm thí nghiệm Hoạt động của học sinh Trợ giúp của GV - Nhận dụng cụ thí nghiệm theo nhóm - Tìm hiểu dụng cụ thí nghiệm . - Trả lời câu hỏi và viết câu trả lời vào báo cáo. Muốn kiểm chứng lại độ lớn của lực đẩy ác- Si- Mét cần phải đo những đại lượng nào? + Trả lời: Đo lực đẩy ác- Si- Mét. Đo trọng lượng của phần chất lỏng (nước) có thể tích bằng thể tích của vật bị chìm trong nước. Để đo được lực đẩy ác- Si- Mét và trọng lượng khối chất lỏng bị vật chiếm chỗ ta cần bố trí thí nghiệm như thế nào? và đo những đại lượng nào? - Phát dụng cụ cho các nhóm. - Giới thiệu dụng cụ. Nêu câu hỏi Nêu câu hỏi tình huống: Hoạt động 3 (10 phút) Thảo luận phương án thí nghiệm Hoạt động của học sinh Trợ giúp của giáo viên Đọc và thảo luận theo nhóm mục 1a và 1b trả lời câu hỏi C1. Trả lời: vác định độ lớn lực đẩy ác- Si- Mét bằng công thức: FA = P – F. Đọc và thảo luận theo nhóm mục 2a và 2b trả lời câu hỏi C2 và C3. - Trả lời: C2: Thể tich (V) của vật được tính: V = V2 – V1 C3: Trọng lượng của phần nước bị vật chiếm chỗ là: PN = P2 – P1. - Cho học sinh đọc sách giáo khoa, nêu yêu cầu. - Cho học sinh thảo luận theo nhóm. - Theo dõi học sinh trả lời. Ta cần đo các đại lượng nào? Hoạt động 4 (15 phút) hs làm thí nghiệm Hoạt động của học sinh Trợ giúp của Giáo viên - Hoạt động theo nhóm. - Nhóm trưởng phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm: + Lắp đặt lần lượt các thí nghiệm để đo các đại lượng F , P , V1, V2, P1, P2, (mỗi đại lượng lấy kết quả 3 lần). + Ghi kết đo được vào báo cáo thí nghiệm. + Tính đại lượng FA và PN. Cho học sinh hoạt động theo nhóm. Quan sát học sinh làm thí nghiệm, Kiểm tra và hướng dẫn lắp đặt dụng cụ trhí nghiệm, thao tác thí nghiệm. Hoạt động 5 (10 phút).Kết thúc. Hoạt động của học sinh Trợ giúp của Giáo viên - Nộp báo cáo, trả dụng cụ thí nghiệm. - Đại diện các nhóm nghi kết quả đo và tính toán lên bảng kết quả thí nghiệm. - Thảo luận kết quả đo được bằng cách so sánh FA Và PN theo từng nhóm. - Nhận xét kết quả đo và rút ra kết luận. - Nghe Giáo viên nhận xét: + Kết quả thí nghiệm của các nhóm. + Sự phân công và hợp tác trong nhóm. + Thao tác thí nghiệm. + Trả lời câu hỏi. + Cho điểm. - Thảo luận về phương án thí nghiệm ( nếu có), nếu không thì nghe Giáo viên hướng dẫn tìm phương án mới. - Thu báo cáo, nhận dụng cụ thí nghiệm. -Treo bảng phụ cho học sinh điền kết quả. Nêu đánh giá nhận xét. Hướng dẫn học sinh. * Rút kinh nghiệm ( Cách thực tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, lưu ý những sai sót mà HS thường mắc phải). C. Kết luận I. Kết quả nghiên cứu Qua việc áp dụng đề tài trên vào giảng dạy, bản thân tôi đã theo dõi và tiến hành khảo sát chất lượng học sinh học môn Vật lý và thu được kết quả tương đối khả quan, cụ thể như: Lớp Khảo sát giữa kì I Khảo sát giữa kì I Điểm Khá - Giỏi Điểm T.bình Điểm Yếu-Kém Điểm Khá - Giỏi Điểm T.bình Điểm Yếu-Kém 8A 25% 40% % 42% 52% 0 8B 31% 42% 27% 43.5% 46.5% 0 8C 31% 40.5% 28.5% 41.2% 47.5% 0 Như vậy , so với đầu năm thì tỷ lệ % học sinh tiếp thu và hiểu bài ngay tại lớp tăng lên rõ rệt, tỷ lệ khá giỏi tăng, giảm tỷ lệ học sinh trung bình và không có học sinh yếu kém, điều đáng kể hơn cả là tính năng động và khả năng tự lập của các em thể hiện khá rõ rệt, quan hệ thầy trò trở lên gần gũi hơn. Trong giờ học khoảng cách giữa thầy và trò được thu hẹp. Học sinh mạnh dạn hỏi thầy, trình bày quan điểm và lập trường của mình, mở rộng giao tiếp và tư duy của các em. II. Bài học kinh nghiệm Qua việc áp dụng phương pháp đổi mới trên, chúng tôi đã rút ra một số bài học sau: Việc đổi mới phương pháp giảng dạy là vấn đề cấp bách góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên cũng giống như các hoạt động khác trong nhà trường nhân tố quyết định vẫn là đội ngũ giáo viên. Theo tôi người thầy phải có nhận thức đúng, yêu nghề, chăm chỉ có sự chuẩn bị kĩ ( sau khi đã nghiên cứu kĩ bài dạy) các thí nghiệm phải được thầy chủ động tiến hành trước nhiều lần, với các phương thức khác nhau để chọn ra phương pháp hay nhất, học sinh dễ áp dụng khai thác được tốt kiến thức từ các thí nghiệm này, học sinh phải tự mình được làm các thí nghiệm, ngôn ngữ của thầy phải trong sáng, chính xác, trình bày ngắn gọn xúc tích để học sinh tiếp thu bài nhanh. Bên cạnh đó người thầy phải luôn tìm tòi, sáng tạo, học tập, lắng nghe ý kiến góp ý của đồng nghiệp, rút ra kiến thức mang tính tinh chắc thực tiễn và vận dụng phương pháp tốt nhất cho mỗi bài dạy. Môn Vật lí là môn khoa học thực nghiệm rất gần với cuộc sống đó là thuận lợi nhưng để khai thác hết hiệu quả của từng tiết học theo tôi là vô cùng khó cho nên chắc chắn trên đây cũng chỉ là những kinh nghiệm nhỏ tôi . Rất mong được sự đóng góp chân thành của các đồng nghiệp. Nga Tiến, ngày 15 tháng 4 năm 2009 Người trình bày Mục lục Trang A. Đặt vấn đề 1 I. Lời mở đầu 1 II. Thực trạng của vấn đề 2 B. Giải quyết vấn đề 4 Những biện pháp thực hiện 6 1. Chuẩn bị thí nghhiệm 6 2. Tiến hành thí nghiệm 7 áp dụng vào một trường hợp cụ thể 11 C. Kết luận 16
File đính kèm:
- skkn.doc