Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ đọc hiểu văn bản Văn học, chương trình Ngữ văn Lớp 12
Môn Ngữ Văn ở trường THPT nói chung, ở chương trình Ngữ Văn 12 nói riêng là sự tích hợp ba phân môn: Đọc Văn, Tiếng Việt và Làm Văn. Mỗi phân môn có vai trò, nhiệm vụ và vị trí khác nhau trong việc trang bị tri thức khoa học, rèn luyện kỹ năng và bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh. Trong đó, phân môn Đọc Văn, nhất là các giờ đọc- hiểu Văn bản văn học (VBVH) có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm và năng lực thẩm mỹ cho học sinh. Ở một mức độ nhất định, các giờ đoc- hiểu VBVH khơi gợi được nhiều hứng thú cho giáo viên và học sinh trong hoạt động dạy cũng như hoạt động học. Sự yêu thích môn Ngữ Văn phần lớn cũng bắt nguồn từ niềm say mê các giờ Đọc-hiểu này. Tuy thế, trong một số năm gần đây, không khí và hiệu quả dạy- học Ngữ Văn, bao gồm cả dạy- học phân môn Đọc Văn và các giờ đọc- hiểu VBVH ở nhiều Nhà trường thực sự không được như mong muốn của cả người dạy lẫn người học. Không khí nhiều giờ đọc- hiểu trở nên tẻ nhạt, nặng nề, “thiếu lửa”. Nhiều giáo viên dạy cho hoàn thành nhiệm vụ còn học sinh thì thụ động, lười đọc, lười suy nghĩ, ngại phát biểu xây dựng bài hoặc nếu bị buộc phát biểu thì trả lời cho qua chuyện. Khi làm văn, học sinh viết những câu văn, bài văn nghèo nàn, ngô nghê về ý tứ, lủng củng trong diễn đạt. Hiệu quả dạy học Ngữ Văn, vì thế, bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có nhiều: nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan; nguyên nhân từ phía giáo viên, nguyên nhân từ phía học sinh.
ng Đà. - Ví dụ: Các âm “ơi” đi liền nhau trong những câu thơ đầu đã tạo nên âm hưởng như thế nào cho bài thơ? (Tây Tiến- Quang Dũng) Dự kiến trả lời: Các âm “ơi” đi liền nhau gợi âm hưởng ngân dài không dứt, phù hợp với việc diễn tả cảm xúc hoài niệm mênh mang, da diết của chủ thể trữ tình) - Em có nhận xét gì về sự phối hợp thanh điệu trong đoạn thơ đầu? (Tây Tiến- Quang Dũng) Dự kiến trả lời: Sự phối hợp hài hòa các thanh trắc, thanh bằng trong đoạn thơ đầu của bài thơ đã góp phần khắc họa một thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, bí hiểm nhưng không kém phần thơ mộng; một cuộc sống, chiến đấu gian khổ, khốc liệt nhưng đầy thi vị của người lính Tây Tiến - Cảm nhận của em về âm hưởng những dòng “li-la li- la li- la” trong bài thơ “Đàn ghita của Lorca., Dự kiến trả lời: Những dòng “li-la li- la li- la” trong bài thơ đầy sức ám ảnh và gợi nhiều liên tưởng. Nó như bản độc tấu ghi ta ngân dài, như lời ca về sự bất tử của Lor-ca trong lòng các thế hệ bạn đọc toàn thế giới. - Cấp độ từ ngữ, hình ảnh, chi tiết: Từ ngữ, hình ảnh, chi tiết là linh hồn của hình tượng nghệ thuật trong VBVH. Chính nghĩa và ý nghĩa của các yếu tố này làm nên một hiện thực đời sống chân thực và sinh động trong các VBVH. Thông qua hình tượng nghệ thuật, người nghệ sĩ gửi gắm và truyền tải đến người đọc các thông điệp đầy ý nghĩa về cuộc sống. Với bất kỳ VBVH nào, giáo viên cũng có thể sử dụng CHNVĐ để định hướng cho học sinh khám phá các yếu tố nghệ thuật này. Chúng ta có thể liệt kê một loạt các từ ngữ, hình ảnh, chi tiết cần được khám phá trong các VBVH chương trình Ngữ Văn lớp 12. Hình ảnh “cồn mây”, “ súng ngửi trời” , “ Quân xanh màu lá”, “Mắt trừng gửi mộng”, “ Rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “Áo bào thay chiếu” trong Tây Tiến. Hình ảnh “tiếng đàn bọt nước”, “áo choàng đỏ gắt”, “vầng trăng chếnh choáng”, “yên ngựa mỏi mòn’, “ao choàng bê bết đỏ”,... trong Đàn ghita của Lor- ca. “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy,... cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”, “Mị cúi mặt không nghĩ ngợi nữa, lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mắt, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại”, “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa số một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”,... trong Vợ chồng A Phủ,... - Ví dụ: Từ “chơi vơi” diễn tả nỗi nhớ như thế nào trong lòng tác giả khi nghĩ về đơn vị cũ? (Tây Tiến, Quang Dũng) Dự kiến trả lời: Từ “chơi vơi diễn tả nỗi nhớ da diết, mênh mang, vô tận; nỗi nhớ trải rộng theo không gian, trải dài theo thời gian, nối liến quá khứ với hiện tại trong dòng hoài niệm không dứt của nhà thơ về đơn vị cũ. - Hình ảnh “cồn mây”, “súng ngửi trời” và hình ảnh “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời” giúp em cảm nhận được điều gì về cuộc sống, chiến đấu của người lính Tây Tiến? Dự kiến trả lời: Các hình ảnh gợi ấn tượng về những chặng đường hành quân gian khổ, vượt núi cao, rừng sâu, vực thẳm của người lính. Trên chặng đường nhọc nhằn ấy, nhiều người lính đã vĩnh viễn ra đi. Tuy thế, lính Tây Tiến không mất đi nét hóm hỉnh, đáng yêu và thái độ coi thường gian khó. - Hình ảnh đàn ghi ta có ý nghĩa biểu tượng như thế nào? (Đàn ghita của Lor- ca, Thanh Thảo) Dự kiến trả lời: Đàn ghi ta là hình ảnh biểu tượng cho cuộc đời, số phận, tài năng, khát vọng và tình yêu nghệ thuật của Lor- ca. Nó trường tồn cùng thời gian, bất chấp những biến động dữ dội của cuộc đời. - Các chi tiết “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng,... Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” đem lại cho em cảm nhận gì về nhân vật Mỵ trong đêm mùa xuân ở Hồng Ngài? (Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài) Dự kiến trả lời: Các chi tiết cho thấy Mị đang được hồi sinh bởi không khí của những đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài. Hình ảnh cô Mị mất hết ý niệm về thời gian, về cuộc sống, về bản thân mình đã được thay thế bởi một cô Mị yêu đời, tâm hồn trẻ trung, đầy sức sống và có ý thức về chính bản thân mình - Cấp độ cú pháp: Ngôn ngữ nghệ thuật thường cô đọng, hàm súc, lời ít ý nhiều, “ý tại ngôn ngoại”, ngôn tận ý bất tận. Vì vậy, trong khi khám phá các giá trị của VBVH, ngoài việc dùng CHNVĐ để tìm hiểu các cấp độ ngữ- nghĩa nêu trên, có lúc chúng ta phải dùng CHNVĐ để cắt nghĩa, lý giải ý tứ của những câu thơ cụ thể. Chẳng hạn câu thơ “Áo bào thay chiếu anh về đất/Sông Mã gầm lên khúc độc hành”, “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/ Hồn về Sầm nứa chẳng về xuôi”(Tây Tiến), “Thương nhau chia củ sắn lùi/ bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” (Việt Bắc), “Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu/ Mà khi về đến quê mình thì bắt lên câu hát/ Người đến hát khi kéo thuyền vượt thác/ Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” (Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm), “Đường chỉ tay đã đứt/dòng sông rộng vô cùng/Lor-ca bơi sang ngang/ trên chiếc ghi ta màu bạc/chàng ném lá bùa cô gái Di-gan/vào xoáy nước/chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt” (Đàn ghita của Lor- ca, Thanh Thảo),... Với một số văn bản khác, việc khai thác cấp độ ngữ pháp có thể hướng vào nhịp điệu, các biện pháp tu từ pháp, cách tổ chức câu thơ,... Chẳng hạn, những câu văn dài trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, những câu văn giàu chất thơ trong Ai đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường, những câu thơ không vần, không chấm, phẩy, không viết hoa, không phân câu theo ngữ pháp truyền thồng trong Đàn ghita của Lor- ca, tác giả Thanh Thảo,... Theo đó, CHNVĐ cũng cần bám sát khía cạnh này. Ví dụ: Câu thơ “Áo bào thay chiếu anh về đất/Sông Mã gầm lên khúc độc hành” đem lại cho em ấn tượng gì về cái chết của người lính Tây Tiến cũng như cảm hứng chủ đạo của bài thơ? (Tấy Tiến- Quang Dũng) Dự kiến trả lời: Người lính Tây Tiến nằm xuống không manh chiếu bó thân. Nhưng cái chết ấy thật bi tráng với “áo bào thay chiếu”, với “khúc độc hành” trầm hùng của dòng sông Mã. Câu thơ góp phần làm nên cảm hứng lãng mạn-bi tráng của toàn bài - Sáu câu cuối cùng của bài thơ gợi cho em ấn tượng gì về sự ra đi của Lor-ca? (Đàn ghita của Lor-ca, Thanh Thảo) Dự kiến trả lời: Lor-ca đi vào cõi vĩnh hằng thật nhẹ nhàng, thanh thản bởi tinh thần luôn chủ động, dấn thân của người nghệ sĩ. Sự ra đi đó đẹp và thật đáng kính trọng. - Cảm nhận của em khi đọc câu văn “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết” ? (Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài) Dự kiến trả lời: Câu văn có cách ngăt nhịp ngắn, gấp và sự lặp lại nhiều lần từ “chết” đã thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ, nhanh chóng trong suy nghĩ, nhận thức của Mị về cảnh ngộ của A Phủ cũng như về sự độc ác, tàn bạo của Pá Tra. Chính sự phản kháng âm thầm đó cũng là một trong những động lực thúc đẩy hành động tiếp theo của Mị. - Các “điểm sáng thẩm mỹ”, các tình huống có vấn đề trong VBVH VBVH là kết quả sáng tạo của người nghệ sĩ. Nó thể hiện quan niệm, sự lý giải cuộc sống theo cách riêng của nhà văn. Các điểm sáng thẩm mỹ, các tình huống có vấn đề, các mâu thuẫn nghệ thuật do tác giả dày công tạo tác trong VBVH không nằm ngoài mục đích đó. Điểm sáng thẩm mỹ có thể là một hình ảnh, một từ “nhãn tự”, một thủ pháp nghệ thuật, một cấu trúc độc đáo, ... trong VBVH. Ví dụ: Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng trong đoạn kết của Vợ nhặt, hình ảnh ô cửa số bằng bàn tay trong Vợ chồng A Phủ, hình ảnh bàn tay Tnú trong Rừng Xà nu,... Các từ ngữ “hồn lau” trong câu thơ “ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy/ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ” của bài Tây Tiến, từ “bơi”, từ “ném” trong câu thơ “Lor-ca bơi sang ngang/ trên chiếc ghi ta màu bạc/chàng ném lá bùa cô gái Di-gan/vào xoáy nước/chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt” trong bài Đàn ghita của Lor-ca, Thanh Thảo,... Lối kết cấu phá vỡ trục thời gian tuyến tính trong Vợ chồng A Phủ, Vợ Nhặt, Những đứa con trong gia đình; sự đột biến cấu trúc khổ thơ trong bài Sóng; nghệ thuật so sánh được sử dụng điêu luyện trong Ai đã đặt tên cho dòng sông,... đều là những điểm sáng thẩm mỹ mà giáo viên có thể hướng dẫn học sinh khám phá bằng các CHNVĐ. Chẳng hạn: Hình ảnh ô cửa sổ bằng bàn tay trong căn buồng của Mị ở nhà Thống lý Pá Tra đem lại cho em cảm nhận gì? (Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài) Dự kiến trả lời: Ô cửa sổ bằng bàn tay trong căn buồng của Mị là kênh duy nhất nối Mị với thế giời bên ngoài khi cô đã hoàn thành công việc như một cỗ máy lao động. Nhưng khi nhìn qua ô cửa đó Mị “chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Ô cửa gợi người ta liên tưởng căn buồng Mị ở như một thứ ngục thất tinh thần giam hãm cuộc đời, tuổi xuân của Mị. Nó làm tăng thêm nỗi đau và số phận bi thảm của cô khi ở Hồng Ngài. - Trong câu thơ “chàng ném lá bùa cô gái Di-gan/vào xoáy nước/chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt”, em có ấn tượng đặc biệt nhất về từ ngữ nào? Vì sao? Dự kiến trả lời: Từ “ném” được tác giả lặp hai lần vừa diễn tả hành động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt với tinh thần chủ động đi vào cõi vình hằng của Lor-ca, vừa gợi âm hưởng bi hùng về sự ra đi của người nghệ sĩ thiên tài. - Theo quan sát của em, bài Sóng có khổ thơ nào được cấu trúc đặc biệt? Sự đột biến về cấu trúc đó có tác dụng như thế nào? Dự kiến trả lời: Trong bài Sóng, các khổ thơ đều được cấu trúc 4 dòng. Riêng khổ thơ thứ 5 lại gồm 6 dòng thơ. Sự đột biến đó làm nổi bật mối quan hệ tương đồng của 2 hình tượng song hành là sóng và em. Với cách kết cấu đó, nhà thơ diễn tả sâu sắc nỗi nhớ trong trái tim người con gái đang yêu. Nỗi nhớ ấy da diết, cồn cào, không nguôi vợi như sóng nhớ bờ nên không ngừng vỗ. Kết cấu đó đã đặt cái bất biến của tự nhiên “sóng nhớ bờ” song trùng với cái bất biến của lòng người khi yêu để gọi tên một trong những cung bậc cảm xúc vĩnh hằng của tình yêu. Đó là nỗi nhớ. Đã yêu là nhớ. Tình huống có vấn đề trong VBVH được hiểu là những tình huống đem lại nhiều cách cảm, cách nghĩ, cách tiếp nhận khác nhau, có thể trái ngược nhau hoặc những tình huống chứa đựng vấn đề nghịch lý, mâu thuẫn,... Việc tìm hiểu các tình huống này sẽ giúp người đọc, người học tìm thêm con đường đến với những thông điệp tác giả gửi vào VBVH. Trong chương trình Ngữ Văn 12, giáo viên có thể bắt gặp các tình huống có vấn đề như lời đề từ “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta” và đoạn thơ “Không ai chôn cất tiếng đàn/ tiếng đàn như cỏ mọc hoang/giọt nước mắt vầng trăng/long lanh trong đáy giếng” trong Đàn ghita của Lor- ca, tác giả Thanh Thảo; câu thơ “ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm” trong Tây Tiến của Quang Dũng, hình tượng Mị trong Vợ chồng A phủ của Tô Hoài,... - Ví dụ: Với câu thơ “Không ai chôn cất tiếng đàn/ tiếng đàn như cỏ mọc hoang” có hai luồng ý kiến trái ngược nhau. Một cho rằng: Hai câu thơ ca ngợi tài năng và sự nghiệp của Lor- ca có sức sống mãnh liệt, trường tồn trong lòng người hâm mộ mọi thời đại, ngay cả khi nghệ sĩ không còn nữa. Một cho rằng: Hai câu thơ thể hiện nỗi xót xa, cảm thông của Thanh Thảo khi sự nghiệp cách tân nghệ thuật của Lor- ca không có người tiếp nối mà nguyên nhân sâu xa là hậu thế không ai hiểu hết lời di chúc của Lor- ca. Em đồng tình với ý kiến nào? Vì sao? Dự kiến trả lời: Ý kiến thứ hai hợp lý hơn. Tiếng đàn là biểu tượng của nghệ thuật, biểu tượng cho tài năng và những khát vọng cách tân nghệ thuật của Lor- ca. Không ai chôn cất tiếng đàn/ tiếng đàn như cỏ mọc hoang nghĩa là không ai dám vượt qua Lor- ca để đi tới, để tiếp tục sự nghiệp ông còn dang dở. Điều đó làm cho nghệ thuật thiếu vắng người dẫn đường. Thanh Thảo đã thể hiện sự thấu hiểu và cảm thông sâu sắc với nỗi đau của nghệ sĩ thiên tài luôn hết mình cho nghệ thuật, cho đất nước, quê hương - Trước khi cắt dây trói cho A Phủ, Mị đã chuẩn bị tâm lý “phải trói thay vào đấy, Mỵ phải chết trên cái cọc ấy” và “làm sao Mỵ cũng không thấy sợ”. Nhưng khi đã cởi hết dây trói cho A phủ, A phủ chạy khỏi thì Mị lại chạy theo. Phải chăng Mị mâu thuẫn với chính mình? Dự kiến trả lời: Bề ngoài có vẻ Mị mâu thuẫn với chính mình nhưng về bản chất, hành động đó của Mị là tất yếu. Ở thời điểm Mị nghĩ đến chuyện phải chịu trói thay và phải chết nếu A Phủ trốn thoát thì chết mới chỉ là khả năng có thể xảy ra. Nhưng khi Mị đã cởi trói cho A Phủ thì khả năng chết dần chuyển thành hiện thực, cái chết gần Mị hơn bao giờ hết. Chính vì thế, bản năng sống của một con người vốn có sức sống tiềm tàng tất trỗi dậy, thúc đẩy Mị chạy theo A Phủ. e) Sử dụng CHNVĐ cho phần rút ra chủ đề và kết luận chung về VBVH hoặc ứng dụng, liên hệ VBVH với thực tiễn đời sống. Hầu hết chủ đề của các VBVH hoặc những kết luận có tính chất tổng kết về VBVH đều được rút ra từ quá trình tìm hiểu, khám phá văn bản một cách khá đầy đủ và toàn diện. Vì thế, để xác định chủ đề và đưa ra kết luận chung về một văn bản, chúng ta không thể sử dụng câu hỏi tái hiện kiến thức. Giáo viên cần tung ra những CHNVĐ đòi hỏi khả năng tổng hợp, khái quát cao của học sinh. Khác với phần tìm hiểu xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác, trong phần rút ra chủ đề và kết luận về VBVH, câu hỏi nêu vấn đề có thể sử dụng với mọi giờ đọc- hiểu trong chương trình Ngữ Văn 12. - Ví dụ: Về chủ đề đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường, có người cho rằng đây là cảnh đẹp sông Hương, người khác lại khẳng định đây là lòng yêu mến đến mê say dòng sông, đất nước. Em hãy nêu ý kiến của riêng mình về vấn đề này. Dự kiến trả lời: Qua việc khắc họa vẻ đẹp đa dạng độc đáo của sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã bộc lộ tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông quê hương, với xứ Huế và trên hết là với Đất nước Việt Nam tươi đẹp - Hãy đánh giá những nét khái quát nhất về giá trị nội dung tư tưởng cũng như đặc sắc nghệ thuật của bài thơ (Đàn ghita của Lor- ca, tác giả Thanh Thảo). Dự kiến trả lời: Bài thơ thể hiện tình cảm ngưỡng mộ của Thanh Thảo đối với Lor-ca. Qua đó khắc họa hình tượng bi tráng về Lor-ca, người chiến sĩ đấu tranh không ngừng cho quyền sống chính đáng của con người, người nghệ sĩ tài năng mang khát vọng cách tân nghệ thuật Tây Ban Nha nhưng phải chịu số phận bi thảm. Bài thơ có nhiều hình ảnh tượng trưng và mang hình thức âm thanh,... - Từ hình tượng Lor-ca trong bài thơ, em rút ra những bài học gì cho bản thân trong cuộc sống? Dự kiến trả lời: Bài học về tinh thần sáng tạo, biết trân trọng thành quả của người đi trước nhưng không vì thế mà rơi vào tâm lý “sùng bái quá khứ” một cách cực đoan, dẫn đến bảo thủ. Trái lại, phải mạnh dạn đổi mới và biết đấu tranh ủng hộ cái mới nếu nó tiến bộ và có giá trị,... - Nhân vật người đàn ông hàng chài trong tác phẩm vừa đáng lên án vừa có chỗ có thể cảm thông bởi xét đến cùng, anh ta cũng chỉ là một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt, chính hoàn cảnh đã xô đẩy và làm anh ta bị tha hóa. Qua nhân vật này, em rút ra bài học gì cho cuộc sống? (Chiếc thuyền ngoài xa- Nguyễn Minh Châu) Dự kiến trả lời: Cuộc sống không phải bao giờ cũng thuận lợi và tốt đẹp như mong muốn của con người. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, con người cũng cần nỗ lực giữ gìn nhân cách, phẩm giá, nhân tính và vẻ đẹp tâm hồn. Đừng bao giờ tiếp tay cho hoàn cảnh và đừng biến mình thành nạn nhân của hàn cảnh,... III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Sau hai năm kiên trì sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong các giờ đọc- hiểu VBVH, tôi nhận thấy không khí các giờ học được cải thiện đáng kể. Số lượng học sinh xung phong phát biểu xây dựng bài cũng như số học sinh trả lời được câu hỏi do giáo viên nêu ra ngày càng nhiều hơn. Một số em thì thực sự thích học môn Ngữ Văn. Qua hoạt động trả lời CHNVĐ do giáo viên đặt ra trong các giờ đọc- hiểu VBVH, kiến thức về tác phẩm của nhiều học sinh được mở rộng, khắc sâu. Nhờ thế, các em có vốn liếng văn học nhất định để làm tốt các bài nghị luận văn học. Điểm số của các bài Làm văn cũng như điểm số môn Ngữ Văn của các em được cải thiện đáng kể. Ở các lớp tôi phụ trách, tỷ lệ học sinh có điểm kiểm tra học kỳ cũng như điểm tổng kết môn Văn trên trung bình đạt từ 85% trở lên. Trong đó, điểm khá giỏi của bài kiểm tra học kỳ tăng từ 32,3% lên 46.7%, tỷ lệ khá giỏi trong điểm TB cả năm môn Văn tăng từ 21.6% lên 32.5%. Kết quả cụ thể như sau: 1. Năm học 2010- 2011 (Lớp: 12A1 và 12B6) Số lượng và tỷ lệ điểm trên trung bình trở lên Trong đó, tỷ lệ điểm khá, giỏi Ghi chú Bài KT học kỳ I 62/87 71.26% 20/62 (32.3%) Tổng số học sinh: 87 Bài KT học kỳ II 70/87 80.45% 26/70 (37.1%) Điểm TBm HKI 72/87 82.75% 15/72 (20.8%) Điểm TBm HKII 75/87 86.20% 17/75 (22.7%) Điểm TBm CN 74/87 85.05% 16/74 (21.6%) 2. Năm học 2011- 2012 (Lớp 12A4 và 12A10) Số lượng và tỷ lệ điểm trên trung bình Trong đó, tỷ lệ điểm khá, giỏi Ghi chú Bài KT học kỳ I 60/85 70.6% 28/60 = (46.7%) Tổng số học sinh: 85 Bài KT học kỳ II 73/85 85.9% 30/73 = (41.1%) Điểm TBm HKI 76/85 89.4% 30/76 = (39.5%) Điểm TBm HKII 80/85 94.1% 35/80 = (44%) Điểm TBm CN 79/85 92.9% 33/79 = (32.5%) IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, làm cho học sinh chủ động và sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức khoa học đang là một trong những mục tiêu quan trọng của đổi mới phương pháp dạy - học hiện nay. Việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề để tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong giờ đọc- hiểu VBVH, chương trình Ngữ Văn THPT nói chung, chương trình Ngữ Văn 12 nói riêng không nằm ngoài mục tiêu chung đó. Phát vấn là thao tác được sử dụng trong mọi phương pháp dạy học, từ những phương pháp dạy học truyền thống đến các phương pháp dạy học hiện đại. Hiệu quả của một giờ học phụ thuộc không nhỏ vào chất lượng hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài của giáo viên. Vì thế, đề tài này tuy không đặt ra vấn đề có tầm vĩ mô trong việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn nhưng hiệu quả, tính thiết thực, tính khả thi và phạm vi ứng dụng rộng lớn của đề tài là điều không thể phủ nhận. Chính vì thế, đề tài có ý nghĩa tích cực đối với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy - học phân môn Đọc Văn nói riêng, môn Ngữ Văn nói chung. Tất nhiên, để sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ đọc- hiểu VBVH một cách hiệu quả, giáo viên cần phải chú ý một số điểm cơ bản sau: Thứ nhất, phải đảm bảo mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa việc tổ chức cho học sinh nắm vững nội dung, nghệ thuật của VBVH và hoạt động trả lời câu hỏi trên lớp nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của các em. Thứ hai, phải lựa chọn những CHNVĐ phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung bài học, tiết học, đối tượng học sinh và thời gian, điều kiện thực tế cụ thể. Thứ ba, sử dụng CHNVĐ gắn liền với việc đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức giờ đọc hiểu VBVH. Thứ tư, sử dụng CHNVĐ gắn với đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá mức độ tiếp nhận văn bản của học sinh. Tri thức khoa học và đời sống là vô tận, hiểu biết của học trò cũng như của chính bản thân các giáo viên là hữu hạn. Không phải mọi điều chúng ta đặt ra, học sinh đều trả lời trôi chảy và trùng khớp với những gì ta đã dự kiến khi thiết kế câu hỏi nêu vấn đề. Nhưng cũng đừng vì thế mà các đồng nghiệp nản chí và ngại sử dụng CHNVĐ trong các giờ đọc- hiểu VBVH. Kiến thức các em có được qua những câu trả lời là đáng quý nhưng quý hơn nữa là việc kiên trì sử dụng CHNVĐ của giáo viên sẽ giúp các em được rèn luyện thói quen chịu khó suy nghĩ, tìm tòi và tinh thần tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức trong quá trình học tập. Vì thế, tôi tha thiết mong quý đồng nghiệp sẽ kiên trì, linh hoạt và sáng tạo trong việc sử dụng CHNVĐ để nâng cao hiệu quả giờ đọc- hiểu VBVH cũng như nâng cao chất lượng dạy học Ngữ Văn ở trường THPT. V. TÀI LIỆU TAM KHẢO 1. Trần Đình Sử, 2004, “Đọc- hiểu văn bản- một khâu đột phá trong việc dạy học văn hiện nay”, Tạp chí giáo dục số 102, trang 16-18 2. Đỗ Ngọc Thống, 2003, “Chương trình Ngữ văn THPT và việc hình thành năng lực văn học cho học sinh”, Tạp chí giáo dục số 66, trang 26-28 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2010, Tài liệu tập huấn giáo viên dạy học, kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức, kỹ năng trong chương trình giáo dục phổ thông, môn Ngữ Văn cấp THPT 4. Sách giáo khoa Ngữ Văn 12, tập 1 và tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.
File đính kèm:
- SKKN_hay_nam_2012_mon_Van_THPT.doc