Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy dạy học môn Toán

CƠ SỞ LÝ LUẬN

 BĐTD còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy,. là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,. bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, việc thiết kế BĐTD theo mạch tư duy của mỗi người, không yêu cầu về tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau. Cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng BĐTD theo một cách riêng, do đó việc lập BĐTD phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người”.

 BĐTD là công cụ đồ họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Qua đi sâu nghiên cứu để tìm ra hoạt động của bộ não, Tony Buzan (người Anh) khẳng định: “Một hình ảnh có giá trị hơn cả ngàn từ.” và “ màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh”. Vì vậy có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, nhằm phát huy tối đa khả năng sáng tạo của học sinh, giúp học sinh có phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy, học sinh sẽ hiểu sâu hơn, nhớ lâu hơn và in đậm điều mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Việc học sinh lập BĐTD còn giúp cho các em phát triển khả năng thẩm mỹ, do việc sắp xếp đường nét, màu sắc, các nhánh sao cho đẹp, sắp xếp các ý tưởng một cách khoa học, hợp lí, trực quan, dễ hiểu, dễ tiếp thu.

 

doc17 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 1396 | Lượt tải: 5Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy dạy học môn Toán", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HIỆN
 Để học sinh có phương pháp học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, chúng ta không chỉ giúp các em khám phá, lĩnh hội các kiến thức mới mà còn giúp các em hệ thống những kiến thức đó. Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ mang lại những lợi ích như: Ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo. Một trong những công cụ hết sức hữu hiệu để tạo nên các “hình ảnh liên kết” là Bản đồ tư duy (BĐTD). 
 Việc lập một BĐTD có thể do từng cá nhân hoặc một nhóm, BĐTD vừa mang đậm dấu ấn cá nhân vừa thể hiện ý tưởng sáng tạo của cả tập thể do đó vận dụng BĐTD vào dạy học phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
 Bước đầu, tập cho học sinh có thói quen ghi chép tổng thể hay tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã học theo cách hiểu của các em dưới dạng BĐTD. Hướng dẩn học sinh “đọc hiểu” và tự vẽ BĐTD sau từng bài học đồng thời cho học sinh làm quen với một số BĐTD có sẵn, sau đó tập cho các em vẽ tên chủ đề hoặc một hình ảnh, hình vẽ của chủ đề chính vào vị trí trung tâm rồi đặt câu hỏi gợi ý để các em tiếp tục vẽ các nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3,...Gợi ý các em tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của mỗi bài học vào một trang giấy rời hoặc vẽ chung trên một cuốn vở.
 Sử dụng thành thạo và hiệu quả BĐTD trong dạy học sẽ mang lại hiệu quả tốt trong phương thức học tập của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên. Học sinh sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy logic. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức thông qua một “sơ đồ” thể hiện liên kết chặt chẽ của tri thức. Vận dụng BĐTD vào dạy học, giáo viên và học sinh cùng làm việc tập thể một cách tích cực sáng tạo, huy động cùng một lúc nhiều kiến thức, kết hợp việc ghi chép kênh chữ với kênh hình, sau mỗi bài học giáo viên và học sinh đều có thêm niềm vui vì tự mình làm ra “sản phẩm trí tuệ”.
 Việc vận dụng BĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho các em tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách tổng thể, khoa học chứ không phải học vẹt, học thuộc lòng, học sinh hiểu bài, nhớ lâu, vận dụng tốt. 
 BĐTD được sử dụng phù hợp với mọi điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường, lớp học. Giáo viên và học sinh có thể thực hiện BĐTD trên bảng, trên vở, trên giấy, bìa, bảng phụ, hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm iMindMap, sử dụng BĐTD có hiệu quả là góp phần đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin một cách dễ dàng và thiết thực.
 Ví dụ : Nội dung bài “Hình bình hành”. Toán 8 tập I được hệ thống lại bằng BĐTD sau:
 Giáo viên sử dụng BĐTD để hệ thống kiến thức một cách khoa học và logic, nội dung bài học được thể hiện trên bản đồ một cách trực quan mà không bị bỏ sót ý. Không những thế, sử dụng BĐTD còn giúp giáo viên tạo ra các hình thức học tập khác nhau, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, phối hợp sử dụng các thiết bị dạy học với nhau góp phần thiết thực vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
 Ví dụ : Bài “Hàm số y = ax2(a ≠ 0)” toán 9 tập II. GV sử dụng phần mềm Mindmap để hệ thống kiến thức như sau.
 Khi chương trình và sách giáo khoa đã đổi mới, tất yếu phương pháp dạy học bộ môn cũng phải đổi mới theo. Do đó, không chỉ người học phải “mới” mà người dạy cũng phải “mới” trong cách thức truyền đạt, kiểm tra đánh giá, phương pháp tổ chức dạy học, lấy người học làm trung tâm. 
 Theo đó, giáo viên cần đầu tư nhiều hơn về thời gian và trí tuệ trong bài dạy, vừa để làm rõ những nội dung kiến thức ẩn chứa ở kênh hình, kênh chữ, cũng như tìm ra cách thức và phương pháp nhằm hướng dẫn cho học sinh tự khai thác và chiếm lĩnh tri thức 
 Để rèn luyện và phát triển ở học sinh kĩ năng làm việc độc lập, làm việc nhóm, kĩ năng trình bày, giải quyết vấn đề...là việc làm hết sức quan trọng và đặc biệt là phát triển kỹ năng tư duy thông qua BDTD. 
 *Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ
 Kiểm tra bài cũ là việc làm thường xuyên của giáo viên nhằm hiểu rõ việc nắm kiến thức, hiểu bài, vận dụng vào giải toán của học sinh đồng thời tác động đến học sinh học tập tốt hơn, tích cực hơn. Tuy nhiên thời gian dành cho kiểm tra bài cũ không nhiều khoảng từ 5- 7 phút. Trong khoảng thời gian này, giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi lí thuyết hoặc cho học sinh làm bài tập. Khác với các môn khoa học xã hội, môn toán thường kiểm tra việc hiểu bài của học sinh thông qua các bài tập, bài tập vận dụng lí thuyết. Đặc biệt thể hiện rõ qua môn hình học, trước đây một số giáo viên thường kiểm tra việc học bài cũ ở nhà của học sinh bằng cách yêu cầu học sinh phát biểu các khái niệm về định nghĩa, định lý, hệ quả của bài học. Với cách làm này học sinh có thể trả lời thuộc bài nhưng không hiểu bản chất của các khái niệm đó mà chúng ta thường gọi là “ học vẹt” nhằm đối phó với giáo viên. Để khắc phục tình trạng trên, thì giáo viên phải đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá, đánh giá nhận thức của học sinh, yêu cầu đặt ra không chỉ kiểm tra “phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu” đó là việc học sinh phải vận dụng kiến thức lí thuyết để trả lời câu hỏi giáo viên đưa ra, cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng học tập. Phù hợp với hình thức kiểm tra phần nhớ lẫn phần hiểu có thể cho học sinh điền thông tin còn thiếu vào BĐTD mà giáo viên đã chẩn bị sẵn. 
 Ví dụ: Trước khi học tiết 27. “Dấu hiệu nhận biết tiếp tuyến của đường tròn” (Hình 9), giáo viên yêu cầu 1 học sinh lên bảng điền các thông tin còn thiếu để hoàn thiện BĐTD. “Vị trí tương đối của đường thẳng và đường tròn”
 Hoàn thiện BĐTD “Vị trí tương đối của đường thẳng và đường tròn”.
 Ở ví dụ trên: Nếu học sinh không nắm được kiến thức bài sẽ không biết vận dụng hình vẽ để trả lời câu hỏi giáo viên đưa ra. 
 *Sử dụng BĐTD trong việc giảng bài mới
 Sử dụng BĐTD là một gợi ý cho cách trình bày mới. Giáo viên thay vì gạch đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng thì sử dụng BĐTD để thể hiện được 1 phần hoặc toàn bộ nội dung bài học một cách rất trực quan. Toàn bộ nội dung cần truyền đạt đến học sinh được thâu tóm trên bản đồ mà không bị sót ý. Học sinh thay vì cắm cúi ghi chép thì chọn lọc các thông tin quan trọng, sơ đồ hoá chúng bằng các mối quan hệ và thể hiện lại theo cách hiểu của mình. Với cách học này cả giáo viên và học sinh đều phải tham gia vào quá trình dạy học tích cực hơn. Giáo viên vừa giảng bài vừa thể hiện trên BĐTD hoặc vừa tổ chức cho học sinh khai thác kiến thức vừa hoàn thành BĐTD. Học sinh được nghe giảng, nhìn bản đồ, trả lời câu hỏi, đọc sách giáo khoa, ghi chép, sự tập trung chú ý được phát huy, cường độ học tập theo đó cũng được đẩy nhanh, học sinh học tập tích cực hơn.
 Ví dụ 1: Dạy bài hình vuông. Hình học 8 tập I
 Đặc điểm của bài này là học sinh đã biểu tượng về hình vuông, biết một số tính chất về cạnh, góc của hình vuông từ bậc tiểu học. Mặt khác trong đời sống hàng ngày các em thường gần gũi các loại đồ chơi có dạng hình vuông. Hơn nữa cấu trúc của bài hình vuông nó tương tự với các bài mà các em học trước đó như hình thang cân, hình bình hành, hình chữ nhật, hình thoi. Các bài này đều có các mục chính như: Định nghĩa, tính chất, dấu hiệu nhận biết. Do đó bài này giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm thiết kế BĐTD. Với chủ đề chính là hình vẽ một hình vuông ở vị trí trung tâm để học sinh thiết kế BĐTD, qua đó xây dựng kiến thức về hình vuông, hoạt động này sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh, nâng cao hiệu quả của giờ dạy. 
 Bước 1: Mở đầu bài học, giáo viên có thể cho học sinh lập BDTD theo nhóm hoặc cá nhân với các gợi ý: Tìm trong thực tế những vật có hình dạng là hình vuông, viết những tính chất về cạnh và góc mà em đã biết về hình vuông, thử phát biểu định nghĩa, dấu hiệu nhận biết theo cách hiểu của các em. 
 Bước 2: Cho một vài học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên trình bày BĐTD mà các nhân hoặc nhóm mình đã thiết lập. Qua hoạt động này giáo viên biết rõ việc hiểu kiến thức của các em vừa là một cách rèn cho các em khả năng thuyết trình trước đông người, giúp các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn, góp phần giáo dục kỹ năng sống cho các em.
 Bước 3: Sau khi các nhân hoặc đại diện các nhóm trình nội dung BDTD của nhóm mình xong giáo viên cho học sinh tiến hành nhận xét, thảo luận, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài. Giáo viên là người hướng dẫn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh BĐTD về hình vuông.
 Bước 4: Qua quá trình thảo luận, bổ sung của các nhóm và hướng dẫn của giáo viên học sinh thống nhất về BĐTD. Để củng cố kiến thức của bài hình vuông giáo viên yêu cầu một học sinh lên bảng trình bày lại thông qua BĐTD mà giáo viên chuẩn bị sẳn (bảng phụ, máy chiếu) hoặc BĐTD mà các em vừa vẽ và được cả lớp chỉnh sửa, hoàn thiện. Để khắc sâu kiến thức, giáo viên có thể yêu cầu học sinh lấy các ví dụ minh họa của từng nhánh cấp 1 hoặc cấp 2.
 Ví dụ nội dung kiến thức bài “Hình vuông”. Toán 8 tập I được hệ thống lại bằng BĐTD sau:
 * Sử dụng BĐTD trong việc hệ thống kiến một chương.
 Ví dụ 2: Dạy tiết ôn tập chương “Hàm số bậc nhất” Toán 9 tập I.
 Đây là bài củng cố kiến thức tổng thể cả chương mà học sinh đã được học. Do đó ta có thể cho học sinh hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm để vẽ BĐTD dựa trên sự gợi ý của giáo viên. Tuy nhiên, trong một lớp học có nhiều đối tượng học sinh khác nhau, đối với học sinh khá - giỏi toán thì hệ thống lại kiến thức dễ dàng nên cho học sinh lập BĐTD với từ khóa “Hàm số bậc nhất” để các em tự do sáng tạo nhưng đối với học sinh trung bình và yếu kém có thể gặp khó khăn khi hệ thống lại kiến thức. Do đó trước khi dạy bài này giáo viên nên chuẩn bị một BĐTD còn thiếu thông tin với chủ đề là hàm số bậc nhất ở vị trí trung tâm. Gợi ý các nhánh chính là định nghĩa, tính chất, dạng đồ thị, cách vẽ đồ thị, hệ số góc của đường thẳng, vị trí tương đối của hai đường thẳng, các dạng bài tập cơ bản.
 Ví dụ BĐTD hệ thống kiến thức “chương hàm số bậc nhất” còn thiếu thông tin:
 Bước 1: Giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thành BĐTD. Học sinh dựa trên sự gợi ý của giáo viên để điền tiếp thông tin còn thiếu và hoàn thiện BĐTD.
 Bước 2: Giáo viên yêu cầu đại diện học sinh hoặc đại diên các nhóm học sinh trình bày nội dung BĐTD của mình hoặc nhóm mình đã thể hiện. Qua hoạt động này giúp giáo viên nắm rõ việc hiểu kiến thức của các em, vừa rèn luyện cho các em khả năng giao tiếp trước nhiều người. Giúp các em mạnh dạn và tự tin hơn.
 Bước 3: Sau khi học sinh hoặc đại diện các nhóm học sinh trình bày kết quả của nhóm mình. Giáo viên tổ chức cho học sinh các nhóm khác nhận xét, bổ sung về BĐTD của nhóm bạn đã thể hiện để hoàn thiện hệ thống kiến thức về chương hàm số bậc nhất. Giáo viên là người tổ chức, là trọng tài giúp học sinh hoàn thiện BĐTD. 
 Bước 4: Qua quá trình thảo luận của các nhóm và sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh thống nhất kiến thức về BĐTD. Để củng cố lại kiến thức của chương hàm số bậc nhất giáo viên giới thiệu BĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn (bảng phụ, máy chiếu) cho học sinh tham khảo và thuyết minh các mạch kiến thức của chương theo BĐTD này. Để giúp học sinh khắc sâu kiến thức, giáo viên có thể yêu cầu các em lấy các ví dụ minh họa cho từng nhánh kiến thức, như: Hai đường thẳng song song, cắt nhau, trùng nhau (nhánh vị trí tương đối của hai đường thẳng) hoặc góc tạo bởi đường thẳng y=ax+b với trục Ox là góc tù, góc nhọn.
 BĐTD hệ thống kiến thức “Chương hàm số bậc nhất” sau khi hoàn thành. 
 * Sử dụng BĐTD trong việc củng cố kiến thức
 Sử dụng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi phần, sau mỗi bài học là điều rất quan trọng đối với các môn tự nhiên nói chung và môn toán nói riêng. Trước đây giáo viên chúng ta sau mỗi phần, mỗi bài học thường đặt câu hỏi các em trả lời để củng cố từng phần, từng bài học. Với cách làm này học sinh có thẻ trả lời được các câu hỏi giáo viên nêu ra nhưng không thể nhớ lâu các mạch kiến thức. Để khắc phục điều đó sau mỗi phần, mỗi bài học, giáo viên có thể sử dụng BĐTD để thể hiện lại những nội dung cơ bản của bài học, tránh bị bỏ sót ý, khắc sâu những kiến thức trọng tâm. Học sinh sử dụng BĐTD sẽ phát huy tính tích cực, sáng tạo, kết hợp việc ghi chép kênh chữ với kênh hình để thể hiện lại sự hiểu biết của mình qua việc tiếp thu nội dung bài học, đồng thời là một kênh thông tin phản hồi mà qua đó giáo viên có thể đánh giá nhận thức của học sinh, định hướng cho từng học sinh và điều chỉnh cách dạy, cách truyền đạt của mình cho phù hợp. Đặc biệt sau mỗi bài học giáo viên và học sinh đều có thêm niềm vui vì tự mình làm ra “sản phẩm trí tuệ”.
 Sử dụng BĐTD để củng cố kiến thức cho học sinh sau từng phần, từng bài học có thể cho học sinh hoàn thiện thông tin còn thiếu vào BĐTD hoặc học sinh có thể tự mình hệ thống lại kiến thức bằng BĐTD. 
 Ví dụ 3: Đại số 9 Tiết 21 Hàm số bậc nhất y = ax + b (a ≠ 0)
 Đặc điểm của bài hàm số bậc nhất có nội dung không dài, chỉ có định nghĩa và tính chất. Nên sau bài học này, học sinh có thể tự mình hệ thống lại kiến thức bằng BĐTD.
 Cụ thể: Khi xây dựng bài mới giáo viên đặt câu hỏi: Hàm số bậc nhất có dạng như thế nào? Và có tính chất gì? Mục đích của câu hỏi này là sau cuối bài học, học sinh phải tự khẳng định hàm số bậc nhất có dạng y =ax + b, (a ≠ 0) và có tính chất đồng biến khi a > 0 và nghịch biến khi a < 0.
 Trong một tiết xây dựng bài mới, thời gian củng cố một bài không nhiều, do đó khi dạy hết nội dung của bài hàm số bậc nhất giáo viên có thể củng cố bằng cách đặt lại câu hỏi đầu bài đã nêu ra: Hàm số bậc nhất có dạng như thế nào? và có tính chất gì? Em hãy thể hiện nội dung đó bằng BĐTD.
 - Cho học sinh vẽ BĐTD (hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm) thời gian khoảng từ 3 đến 4 phút để hoàn thiện.
 - Đại diện học sinh hoặc nhóm học sinh trình bày nội dung BĐTD của nhóm mình.
 - GV cho học sinh nhận xét, bổ sung (nếu cần) để thống nhất nội dung, kiến thức bài hàm số bậc nhất trên BĐTD.
 - Để củng cố lại kiến thức bài hàm số bậc nhất giáo viên cho học sinh lên bảng thuyết trình lại thông qua BĐTD mà giáo viên chuẩn bị sẳn (bảng phụ, máy chiếu) hoặc BĐTD mà các em vừa vẽ được cả lớp chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện. Nếu còn thời gian giáo viên yêu cầu học sinh lấy các ví dụ minh họa cho từng nhánh kiến thức, để khắc sâu nội dung bài học.
 Ví dụ BĐTD thể hiện nội dung của bài “hàm số bậc nhất”.
 * Có thể tóm tắt một số hoạt động dạy học trên lớp với BĐTD: 
 Bước 1: Học sinh lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của GV.
 Bước 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên trình bày nội dung BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. 
 Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người hướng dẫn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh BĐTD về kiến thức của bài học.
 Bước 4: Củng cố kiến thức bài học một học sinh trình bày bằng BĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn (bảng phụ hoặc máy chiếu) hoặc một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa, bổ sung, hoàn chỉnh. 
 Lưu ý: 
 BĐTD là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm học sinh có chung một kiểu BĐTD. 
 Trên BĐTD có nhiều màu sắc (chữ thuộc nhánh nào thì cùng màu với nét vẽ của nhánh đó).
 Sử dụng BĐTD sẽ dễ dàng hơn trong việc phát triển ý tưởng, tìm tòi xây dựng kiến thức mới. BĐTD giúp bộ não liên tưởng, liên kết các kiến thức đã học trong sách vở, đã biết trong cuộc sống để phát triển, mở rộng ý tưởng. 
 Học sinh tự thiết lập BĐTD kết hợp việc thảo luận nhóm dưới sự gợi ý, dẫn dắt của giáo viên làm cho tiết học nhẹ nhàng, tự nhiên.
 IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
 Sau một thời gian sử dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn toán nói riêng, tôi nhận thấy bước đầu có những kết quả khá khả quan về vai trò tích cực của ứng dụng BĐTD trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Biết sử dụng BĐTĐ để dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, phần. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, khắc sâu kiến thức hơn.Trong các tiết học yêu cầu vẽ BĐTD học sinh tự giác tìm tòi kiến thức để thiết kế dưới sự định hướng của giáo viên. Các tiết học trở nên sôi nổi tránh sự nhàm chán, tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em có động cơ học tập tốt hơn.
 Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số HS trung bình đã biết dùng BĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. 
 Thực tế kết quả kiểm tra việc học sinh nắm kiến thức sau mỗi bài học môn có sự chuyển biến khá rõ rệt so với lúc đầu. 
 Kết quả kiểm tra lớp 9A, 9B sau khi áp dụng BĐTD chất lượng HS khá giỏi tăng, HS yếu kém giảm so với khi chưa sử dụng BDTD vào quá trình dạy học .	
Số HS kiểm tra
Kết quả qua kiểm tra
Giỏi
Khá
TB
Yếu- Kém
SL
(%)
SL
(%)
SL
(%)
SL
(%)
9A: 25
3
12
6
24
10
40
6
24,0
9B: 24
3
12,5
6
25
10
41,7
5
20,8
 V. BÀI HỌC KINH NGHIÊM 
 Để thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học môn Toán trung học cơ sở nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn, đòi hỏi người giáo viên trước hết phải nắm vững các kién thức cơ bản, phổ thông, các kién thức về đổi mới về chương trình, về phương pháp dạy học đồng thời cấp bách cần có kỹ năng sử dụng dụng cụ đồ dùng dạy học một cách hiệu quả nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo, tích cực tìm tòi chiếm lĩnh lĩnh hội các kiến thức phổ thông nhằm phát huy khả năng tư duy khả năng độc lập sáng tạo trong mọi hành động. Bên cạnh đó giáo viên cần khai thác triệt để nội dung sách giáo khoa, các tài liệu tham khảo, tài liệu bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, các phương tiện giảng dạy hiện có, thường xuyên tiến hành đổi mới phương pháp dạy học bộ môn Toán để tạo hứng thú học tập, chủ động tiếp thu kiến thức, tìm hiểu kiến thức từ đó nắm chắc kiến thức cơ bản phổ thông, các kiến thức trong thực tế.
 Đối với việc sử dụng BĐTD: Có thể sử dụng BĐTD trong tất cả các khâu của quá trình lên lớp từ kiểm tra bài cũ, triển khai bài mới đến củng cố kiến thức, giao bài về nhà; từ việc thể hiện lượng kiến thức nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp; từ hoạt động học cá nhân đến hoạt động nhóm. Giáo viên cần nghiên cứu nội dung chương trình, nội dung bài học, lựa chọn ra những phần, những bài có khả năng áp dụng BĐTD. Sau đó, giáo viên phân tích nội dung bài dạy, tìm ra những vấn đề, những biểu tượng, khái niệm cần hình thành và truyền đạt cho học sinh, xác định các dạng bài tập với BĐTD phù hợp với đối tượng học sinh, quỹ thời gian, điều kiện trường lớp, trang thiết bị dạy học.
 VI. KẾT LUẬN
 BĐTD một công cụ có tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Có thể thiết kế BĐTD trên giấy, bìa, bảng phụ, bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn, tẩy, hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm BĐTD. Với trường có điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin tốt có thể cài vào máy tính phần mềm Mindmap cho GV, HS sử dụng, bằng cách vào trang web www.download.com.vn gõ vào ô “tìm kiếm” cụm từ Mindmap, ta có thể tải về bản demo ConceptDraw MINDMAP 5 Professional, phần mềm này không hạn chế số ngày sử dụng và việc sử dụng nó cũng khá đơn giản.
 Sử dụng thành thạo và hiệu quả Bản đồ Tư duy trong dạy học sẽ mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên. Học sinh sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức thông qua một “bản đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức.
 Không những riêng môn Toán mà những môn học khác nếu chúng ta vận dụng sáng tạo, phù hợp thì sẽ giúp chúng ta thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ngày một đi lên lên ngang tầm với các nước trong khu vực và thế giới.
 Ngư Thủy Nam, ngày 22 tháng 3 năm 2012
 NGƯỜI THỂ HIỆN
 Nguyễn Cảnh Thứ
 Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH TRƯỜNG THCS NGƯ THỦY NAM
 Ngư Thủy NamNam, ngày 25 tháng 3 năm 2012
 T/M HỘI ĐỒNG KH 
	 CHỦ TỊCH 
 Hoàng Tấn Hiếu

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_ban_do_tu_duy_day_hoc_mon_toan.doc