Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy dạy học môn Địa lý

Cơ sở thực tiển

 1.Về giáo viên

 Những năm qua, thực hiện đổi mới PPDH giáo viên đã tập trung vào những nội dung dạy học bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng, đổi mới kiểm tra đánh giá, tổ chức hoạt động học tập của học sinh, sử dụng hiệu quả thiết bị dạy học, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin. Năm học 2011-2012 thực hiện dự án phát triển giáo dục trung học cơ sở II, Bộ GD&ĐT triển khai một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở cấp THCS với mục đích: Định hướng đổi mới PPDH “Tích cực hoá hoạt động học tập của HS nhằm phát huy tính tích cực chủ động của HS trong học tập". Đặc biệt chuyên đề sử dụng BDTD trong dạy học, cốt lõi của BĐTD là giúp HS hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Chú ý tới việc rèn luyện kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng vận dụng vào thực tiễn, hình thành và phát triển các phẩm chất tư duy độc lập, sáng tạo. Dạy học tạo nên các trạng thái tinh thần, tâm lý tích cực cho người học

 Tuy nhiên việc sử dụng BDTD vào dạy học bước đầu còn có nhiều bở ngỡ nhưng đại đa số giáo viên đã tích cực hưởng ứng tự bồi dưỡng kiến thức về sử dụng BDTD trong quá trình dạy học, nhưng trong thực tế vẫn còn một bộ phận giáo viên chưa hiểu thấu đáo về BĐTD, còn ngại khó, nhất là buổi đầu chưa thành thạo trong việc sử dụng phần mềm Mind map. Vì vậy mà lúng túng trong soạn giảng cũng như thực hiện các giờ lên lớp, chưa gây được hứng thú học tập cho học sinh, chưa phát huy tác dụng tối đa của BĐTD trong dạy học.

 2. Về học sinh

 Trên thực tế, đối với học sinh ở vùng khó khăn như xã Ngư Thủy Nam ý thức học bài cũ và đọc bài mới trước khi đến lớp rất kém. Đối với các môn Xã hội nói chung và môn địa lý nói riêng phần lớn các em học thuộc bài theo kiểu học “vẹt”để đối phó với cô thầy trong kiểm tra bài cũ và kiểm tra 15 phút. Kiểu học bài này làm cho các em chỉ nhớ kiến thức trong giây lát nên khó tổng hợp được kiến thức sau một chương, một phần. Chính vì thế mà bài kiểm tra một tiết hoặc bài kiểm tra học kỳ thường đạt chất lượng thấp.

 

doc16 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 1478 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy dạy học môn Địa lý", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p giáo viên và học sinh trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, học tập thông qua biểu đồ, tóm tắt thông tin của một bài học hay một chương, một phần, hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra ý tưởng mới, lập kế hoạch học tập.
 BĐTD được sử dụng phù hợp với mọi điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường, lớp học. Giáo viên và học sinh có thể thực hiện BĐTD trên bảng phấn, trên vở, trên giấy, bìa, bảng phụ, hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm Mind map, sử dụng BĐTD có hiệu quả là góp phần đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin một cách dễ dàng và thiết thực.
 Sử dụng thành thạo và linh hoạt BĐTD trong dạy học sẽ mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ. Học sinh học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Với học sinh, việc tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo, lôi cuốn học sinh tham gia vào bài giảng, tạo điều kiện phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh qua đó các em tự chiếm lĩnh kiến thức mới một cách nhẹ nhàng, tự nhiên với hứng thú học tập lớn. 
 Giáo viên sử dụng BĐTD để hệ thống kiến thức một cách khoa học và logic, nội dung bài học được thể hiện trên bản đồ một cách trực quan mà không bị bỏ sót ý. Không những thế, sử dụng BĐTD còn giúp giáo viên tạo ra các hình thức học tập khác nhau, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, phối hợp sử dụng các thiết bị dạy học với nhau góp phần thiết thực vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
 *VD : bài 14 Hoạt động nông nghiệp ở đới ôn hòa GV sử dụng phần mêm để hệ thống kiến thức như sau.
 Quán triệt những đổi mới về mục tiêu, chương trình Địa lí Trung học cơ sở được thiết kế thành 03 mảng lớn có quan hệ chặt chẽ với nhau. Các bộ phận cơ bản này của chương trình có mục đích cung cấp cho học sinh các kiến thức cơ bản về:
+ Trái Đất - Môi trường sống của con người (cấu tạo, vận động, các thành phần tự nhiên và tác động qua lại giữa chúng, một số qui luật của môi trường tự nhiên trên Trái Đất)
+ Thiên nhiên và con người ở các Châu lục (các hoạt động của dân cư trên Trái Đất; mối quan hệ giữa dân cư, hoạt động sản xuất và môi trường, đặc điểm tự nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội của một số khu vực, quốc gia trên thế giới).
+ Địa lí Việt Nam (đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, dân cư, kinh tế và những vấn đề đặt ra đối với tự nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội của đất nước, của các vùng và địa phương nơi HS đang sống).
 Tất cả những kiến thức này đều có mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau, đòi hỏi ở người học không chỉ khả năng tiếp nhận thông tin đơn thuần mà cần biết cách phân tích, so sánh, liên kết các vấn đề để tìm ra kiến thức. Phù hợp với chương trình mới, sách giáo khoa được biên soạn theo hướng tạo điều kiện để giáo viên tổ chức cho học sinh học tập một cách tự giác và tích cực. Nếu như sách giáo khoa cũ được trình bày theo lối thông báo - giải thích - minh họa thì với cách trình bày trong sách giáo khoa mới đòi hỏi giáo viên phải tổ chức các hoạt động nhận thức cho học sinh, phải khai thác kênh chữ, kênh hình để có thêm kiến thức.
 Khi chương trình và sách giáo khoa đã đổi mới, tất yếu phương pháp dạy học bộ môn cũng phải đổi mới theo. Do đó, phương pháp dạy học Địa lí theo định hướng mới, sách giáo khoa mới không chỉ buộc học sinh phải “mới” trong cách học mà còn buộc giáo viên phải “mới” trong cách dạy. Theo đó, giáo viên cần đầu tư nhiều hơn về thời gian và trí tuệ trong bài dạy, vừa để làm rõ những nội dung kiến thức ẩn chứa ở kênh hình, kênh chữ, cũng như tìm ra cách thức và phương pháp nhằm hướng dẫn cho học sinh cách tự khai thác và lĩnh hội kiến thức. Bên cạnh việc chú ý phát triển ở học sinh các kĩ năng bộ môn (kĩ năng làm việc với các thiết bị dạy học, các nguồn tư liệu địa lí...) việc rèn luyện kĩ năng làm việc độc lập, làm việc nhóm, kĩ năng trình bày, giải quyết vấn đề...cũng hết sức quan trọng và đặc biệt là phát triển kỹ năng tư duy thông qua BDTD.
* Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ
 Với thời gian kiểm tra bài cũ ở đầu giờ không nhiều chỉ khoảng 5 - 7 phút nên yêu cầu của giáo viên thường không quá khó, không đòi hỏi nhiều sự phân tích, so sánhđể trả lời câu hỏi. Giáo viên thường yêu cầu học sinh tái hiện lại một phần nội dung bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả lời câu hỏi. Giáo viên sẽ chấm điểm tuỳ vào mức độ thuộc bài của học sinh. Cách làm này vô tình để nhiều học sinh rơi vào tình trạng học vẹt, đọc thuộc lòng mà không hiểu. Do đó, cần phải có sự thay đổi mới trong việc kiểm tra, đánh giá nhận thức của học sinh, yêu cầu đặt ra không chỉ kiểm tra “phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu”. Cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng học tập. Sử dụng BĐTD vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học sinh đối với bài học cũ. Các bản đồ được giáo viên đưa ra ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khoá trung tâm.
* Ví dụ: Trước khi học bài 14 (Địa 9), giáo viên yêu cầu 1 học sinh lên bảng điền các thông tin còn thiếu để hoàn thiện BĐTD Cơ cấu ngành dịch vụ (nội dung phần 1 - Bài 13).
 Việc hoàn thiện thông tin ở các nhánh còn thiếu là một yêu cầu đơn giản, không mất thời gian nhưng nếu học sinh không học bài thì sẽ không điền được thông tin hoặc điền không chính xác.
*BĐTD Cơ cấu ngành dịch vụ (thiếu thông tin) 
 * BĐTD Cơ cấu ngành dịch vụ ( đủ thông tin)
 Sau khi đã hoàn thiện bản đồ, học sinh cần rút ra nhận xét về cơ cấu ngành dịch vụ hay nói cách khác là nhận xét về mối quan hệ giữa các nhánh thông tin với từ khoá trung tâm. Đây chính là phần hiểu bài của học sinh mà giáo viên nên căn cứ vào đó để đánh giá và nhận xét.
 * Sử dụng BĐTD trong việc giảng bài mới
 Sử dụng BĐTD là một gợi ý cho cách trình bày mới. Giáo viên thay vì gạch đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng thì sử dụng BĐTD để thể hiện được 1 phần hoặc toàn bộ nội dung bài học một cách rất trực quan. Toàn bộ nội dung cần truyền đạt đến học sinh được thâu tóm trên bản đồ mà không bị sót ý. Học sinh thay vì cắm cúi ghi chép thì chọn lọc các thông tin quan trọng, sơ đồ hoá chúng bằng các mối quan hệ và thể hiện lại theo cách hiểu của mình. Với cách học này cả giáo viên và học sinh đều phải tham gia vào quá trình dạy học tích cực hơn. Giáo viên vừa giảng bài vừa thể hiện trên BĐTD hoặc vừa tổ chức cho học sinh khai thác kiến thức vừa hoàn thành BĐTD. Học sinh được nghe giảng, nhìn bản đồ, trả lời câu hỏi, đọc sách giáo khoa, ghi chép, sự tập trung chú ý được phát huy, cường độ học tập theo đó cũng được đẩy nhanh, học sinh học tập tích cực hơn.
Ví dụ: Bài 6, phần 2 (Địa 9), để xác định các vùng kinh tế của nước ta, phạm vi và các trung tâm kinh tế lớn của vùng là phần kiến thức không khó nhưng không dễ nhớ đối với học sinh. Nếu giáo viên sử dụng phương pháp trình bày truyền thống thì vấn đề vẫn được giải quyết nhưng không hiệu quả vì vấn đề trình bày sẽ dàn trải, hết vùng này đến vùng khác, học sinh sẽ không thấy được mối quan hệ về vị trí, thế mạnh của các vùng kinh tế.
 Việc thể hiện tất cả các vùng kinh tế trên BĐTD xung quanh từ khóa đã mang lại cái nhìn tổng thể về sự phân chia các vùng kinh tế của nước ta, học sinh nhìn vào bản đồ sẽ nhận biết được ngay từng vùng kinh tế và có thể ghi nhớ một cách dễ dàng không máy móc. Sử dụng BĐTD để thể hiện phần nội dung này là hợp lí vì yêu cầu phù hợp với mọi đối tượng học sinh, thông tin đầy đủ, không mất nhiều thời gian và nội dung được thể hiện rõ ràng.
 * VD Bản đồ tư duy Vùng Tây Nguyên (Địa lý 9)
 Vùng Tây Nguyên trong chương trình địa lý lớp 9 gồm có 2 tiết, tiết thứ nhất học sinh nắm được vị trí giới hạn lãnh thổ, điều kiện tự nhiên và đặc điểm dân cư xã hội của vùng.Trong tiết thứ hai giáo viên có thể gợi ý những nội dung chính của bài học và yêu cầu học sinh liên kết kiến thức để vẽ bản đồ tư duy vùng Tây nguyên. Trong tiết này giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu 02 nội dung cơ bản đó là:
 - Tình hình phát triển kinh tế của vùng và các trung tâm kinh tế.Về tình hình kinh tế học sinh cần nắm 3 lĩnh vực trong cơ cấu kinh tế ( Nông nghiệp, Công nghiệp, dịch vụ)
-Phần Nông nghiệp Giáo viên yêu cầu H/s trình bày được các loại cây phân bố ở Tây Nguyên và rút ra đặc điểm nông nghiệp của vùng.
- Phần Công nghiệp yêu cầu H/s nêu được các ngành công nghiệp phân bố ở vùng và so sánh tỷ trọng của vùng với cả nước.
- Phần dịch vụ yêu cầu học sinh tìm hiểu các loại hình dịch vụ, đặc biệt du lịch sinh thái.
- Về phần các trung tâm kinh tế học sinh nêu được 3 trung tâm kinh tế và xác định vị trí 3 trung tâm đó.
Với những gợi ý trên Giáo viên yêu cầu học sinh vẽ bản đồ tư duy.
Hoạt động 1: GV yêu cầu HS lập BĐTD theo nhóm với gợi ý của GV.
Hoạt động 2: GV yêu cầu đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài học đó. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà GV đã chuẩn bị sẵn để học sinh đối chiếu tham khảo.
Lưu ý: - BĐTD là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm HS có chung một kiểu BĐTD, GV chỉ nên chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức, góp ý thêm về đường nét vẽ, màu sắc và hình thức (nếu cần).
Các BĐTD giới thiệu trong bài viết này đều có nhiều màu sắc (chữ thuộc nhánh nào thì cùng màu với nét vẽ của nhánh đó). 
* BĐTD giáo viên chuẩn bị sẵn
Sử dụng BĐTD trong việc củng cố kiến thức
 Củng cố bài là một khâu quan trọng của tiết học, là một yếu tố dẫn đến sự thành công của bài giảng. Củng cố bài giảng giúp học sinh nhớ lại và khắc sâu kiến thức hơn. Ngoài việc xác định kiến thức trọng tâm, học sinh còn có thể tự đánh giá kết quả học tập của mình. Từ đó các em có thể điều chỉnh lại phương pháp học sao cho phù hợp. 
 Bằng các phương pháp củng cố bài giảng cụ thể, giáo viên sẽ giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động trong việc tiếp thu nội dung bài, đồng thời mở rộng và phát triển tư duy cho học sinh.
 Củng cố bài còn tạo điều kiện tương tác giữa giáo viên và học sinh. Điều đó tạo hứng thú học tập cho học sinh, nuôi dưỡng bầu không khí lớp học, tạo điều kiện để học sinh phát biểu ý kiến. 
 Sử dụng BĐTD để củng cố kiến thức bài học là vệc làm rất có hiệu quả. Giáo viên sử dụng BĐTD để thể hiện lại những nội dung cơ bản của bài học, tránh bị bỏ sót ý, khắc sâu những kiến thức trọng tâm. Học sinh sử dụng BĐTD để thể hiện lại sự hiểu biết của mình qua việc tiếp thu nội dung bài học, đồng thời là một kênh thông tin phản hồi mà qua đó giáo viên có thể đánh giá nhận thức của học sinh, định hướng cho từng học sinh và điều chỉnh cách dạy, cách truyền đạt của mình cho phù hợp.
 Tùy theo nội dung, dung lượng kiến thức bài học để giáo viên đựa ra yêu cầu cho phù hợp. Nừu bài có nội dung kiến thức ít thì cho học sinh làm việc theo cá nhân, còn đối với bài có nội dung nhiều như bài bài 23 trang 81 (Địa lý 8) Vị trí, giới hạn, hình dạng lãnh thổ Việt Nam thì cho học sinh vẽ theo nhóm.
 Trong bài này có 2 phần chính: 1. Vị tí giới hạn lãnh thổ, 2. Đặc điểm lãnh thổ, ở phần 1 có 3 nội dung ( phần đất liền, phần biển, đặc điểm vị trí lãnh thổ), phần 2 có 2 nội dung (phần biển, phần đất liền)
 Qua đặc trưng của bài học chúng ta phân lớp thành 5 nhóm mỗi nhóm vẽ 1 nội dung vào bảng phụ, sau đó yêu cầu học sinh trình bày.
 Cuối cùng giáo viên nhận xét và đưa BĐTD đã vẽ sẵn lên bảng để học sinh tham khảo đối chiếu.
*Ví dụ hình dưới.
 * Hướng dẫn làm bài tập ở nhà.
 Vì làm bài tập về nhà sẽ có nhiều thời gian và điều kiện để tìm kiếm tài liệu nên bài tập về nhà mà giáo viên giao cho học sinh (hoặc nhóm học sinh) trước hết phải gắn với nội dung bài học và trong điều kiện cho phép (trình độ học sinh, thời gian, kinh tế..). Yêu cầu đối với bài về nhà cũng cần khó hơn, phức tạp hơn và cần sự đầu tư lớn hơn (cả kênh chữ, kênh hình, màu sắc, lượng thông tin..), qua đó còn thể hiện cả tính sáng tạo và sự tích cực tìm kiếm tài liệu học tập của học sinh. Bài tập về nhà nên thiên về tính mở nên giáo viên cần định hướng cho học sinh cách tìm kiếm thông tin từ các nguồn tài liệu, khác nhau để thiết lập nên bản đồ tư duy theo cách hiểu của mỗi học sinh khác nhau.
 Sau đó, mỗi học sinh tùy vào năng lực, trình độ và sự sáng tạo của bản thân mình, sẽ thiết kế thêm được các nhánh thông tin bổ trợ cho những nội dung chính. Ví dụ đối với mỗi đới khí hậu trên Trái Đất, học sinh lại có thêm thông tin, hình ảnh về các động vật, thực vật, con người, đại diện cho đới khí hậu đó.
 Dùng BĐTD có thể thể hiện một lượng thông tin nhỏ đến lớn và rất lớn. Tương tự, giáo viên và học sinh có thể thể hiện 1 phần nội dung bài học, 1 bài học hoặc nhiều bài học, 1 chương kiến thức. Vấn đề là các nội dung này có điểm chung với nhau, có mối quan hệ với nhau thông qua từ khóa. Tùy theo mục đích sử dụng mà có thể thiết kế BĐTD trong giờ học thông thường, trong giờ kiểm tra, giờ thực hành, ôn tập, tổng kết hay hệ thống 1 chương, 1 phần kiến thức. Với bài tập này, giáo viên có thể cùng học sinh làm ngay tại lớp hoặc là bài tập giao về nhà cho học sinh, nhóm học sinh.
 Ví dụ: Trái đất là một trong chín hành tinh của hệ Mặt trời. Trái đất chuyển động ra sao? Hình dạng, kích thước, cấu tạo của Trái đất như thế nào?...là những nội dung được phản ánh trong Chương I: Trái đất (Địa 6). Những vấn đề đại cương về Trái đất được trình bày khoa học và cụ thể qua từng bài với lượng thông tin tương đối lớn. Khi kết thúc chương này, tuy không có bài tổng kết chương nhưng giáo viên vẫn nên dành thời gian cùng học sinh hệ thống lại các nội dung đã học về Trái đất để thêm một lần nữa khắc sâu kiến thức cho học sinh và củng cố cho các em các vấn đề trọng tâm cần ghi nhớ.
BĐTD về Trái đất.
 Qua BĐTD về Trái đất, học sinh được khắc sâu các nội dung về Trái đất như vị trí của Trái đất trong hệ Mặt trời, cấu tạo bên trong của Trái đất, kích thước, hình dạng, sự vận động quanh trục và quanh Mặt trời cũng như các hệ quả của sự vận động. Với hệ chữ chắt lọc những thông tin quan trọng, hình ảnh minh họa các thông tin một cách sinh động, BĐTD về Trái đất thực sự mang lại cho học sinh cái nhìn trực quan, dễ hiểu, dễ nhớ.
 Không thể phủ nhận BĐTD là một công cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập ở trường phổ thông cũng như ở các bậc học cao hơn vì chúng giúp giáo viên và học sinh trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, tích cực và độc lập. Học sinh sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức thông qua một “bản đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức.
 * Có thể tóm tắt một số hoạt động dạy học trên lớp với BĐTD: 
 Hoạt động 1: HS lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của GV.
 Hoạt động 2: HS hoặc đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. 
 Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài học đó. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
 Hoạt động 4: củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà GV đã chuẩn bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho HS lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. 
 Lưu ý: - BĐTD là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm HS có chung một kiểu BĐTD, GV chỉ nên chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức, góp ý thêm về đường nét vẽ, màu sắc và hình thức (nếu cần).
 - Các màu sắc thể hiện trên BĐTD đều có nhiều màu sắc (chữ thuộc nhánh nào thì cùng màu với nét vẽ của nhánh đó).
 - Sử dụng BĐTD sẽ dễ dàng hơn trong việc phát triển ý tưởng, tìm tòi xây dựng kiến thức mới. Nhờ sự liên kết các nét vẽ cùng với màu sắc thích hợp và cách diễn đạt riêng của mỗi người, BĐTD giúp bộ não liên tưởng, liên kết các kiến thức đã học trong sách vở, đã biết trong cuộc sống để phát triển, mở rộng ý tưởng. Sau khi HS tự thiết lập BĐTD kết hợp việc thảo luận nhóm dưới sự gợi ý, dẫn dắt của GV dẫn đến kiến thức của bài học một cách nhẹ nhàng, tự nhiên.
 IV KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
 Với phương pháp sử dụng BĐTD trong việc dạy học môn địa lý giúp học sinh có cách học chủ động trong việc tìm hiểu kiến thức, tổng hợp kiến thức theo cách hiểu của mình như đã trình bày ở trên. Tôi đã tạo được hứng thú học tập cho học sinh. Trong các giờ học yêu cầu vẽ BĐTD học sinh tự giác tìm tòi kiến thức được thể hiện với sự định hướng của giáo viên. Các tiết học trở nên sôi nổi tránh được sự nhàm chán, học sinh tích cực hơn trong học tập. Đại bộ phận học sinh sau mỗi chương bài đã đã nắm được những kiến thức trọng tâm cần đạt, biết liên hệ kiến thức để .phân tích, giải thích các hiện tượng địa lý.
 Kết quả kiểm tra học sinh nắm những kiến thức sau mỗi bài có sự chuyển biến mạnh mẽ so với ban đầu. Cụ thể kết quả lớp 9B sau khi áp dụng BĐTD thể hiện như sau:
Số HS tham gia kiểm tra
Kết quả qua kiểm tra
Giỏi
Khá
TB
Yếu- Kém
SL
(%)
SL
(%)
SL
(%)
SL
(%)
24
3
12.5
6
25
12
50
3
12.5
 V. BÀI HỌC KINH NGHIÊM 
 Nhìn chung, có thể sử dụng BĐTD trong tất cả các khâu của quá trình lên lớp từ kiểm tra bài cũ, triển khai bài mới đến củng cố kiến thức, giao bài về nhà; từ việc thể hiện lượng kiến thức nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp; từ việc học cá nhân đến nhóm, tập thể.Giáo viên cần nghiên cứu nội dung chương trình, nội dung bài học, lựa chọn ra những phần, những bài có khả năng áp dụng BĐTD. Sau đó, giáo viên phân tích nội dung bài dạy, tìm ra những vấn đề, những biểu tượng, khái niệm cần hình thành và truyền đạt cho học sinh, xác định các dạng bài tập với BĐTD phù hợp với đối tượng học sinh, quỹ thời gian, điều kiện trường lớp, trang thiết bị dạy học.
 Tuy nhiên, không phải bất cứ nội dung nào, bài học nào cũng có thể sử dụng BĐTD và cũng không phải sử dụng một cách áp đặt cho mọi giờ học. Cũng như các thiết bị dạy học khác, BĐTD cũng có những ưu điểm và hạn chế riêng của mình, do đó sử dụng BĐTD cần đúng lúc, đúng cách, phù hợp với đối tượng học sinh và quan trọng là đảm bảo việc truyền tải nội dung bài học. Do đó, giáo viên cần có sự linh hoạt trong sử dụng BĐTD, cần xác định một số căn cứ để sử dụng BĐTD cho phù hợp, lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức, thiết bị dạy học cho tương xứng.
 VI. KẾT LUẬN
 Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học cho thấy, sử dụng BĐTD trong dạy học kiến thức, giúp HS học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của HS và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh HS khi chứng kiến thành quả lao động của học trò của mình. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên BĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
 Chính vì vậy không những riêng môn Địa lý mà những môn học khác nếu chúng ta vận dụng sáng tạo, phù hợp thì sẽ giúp chúng ta thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ngày một đi lên lên ngang tầm với các nước trong khu vực và Thế Giới.
 Trong sáng kiến này tôi xin trình bày những gì tôi biết được về cách sử dụng, hiệu quả của BĐTD trong dạy học môn địa lý. Vì thời gian tiếp cận với việc sử dụng BĐTD còn ít (mới được sử dụng trong năm học 2011 - 2012 ) nên chắc chắn kinh nghiệm của tôi cũng chưa nhiều. Kính mong các đồng chí và các bạn đồng nghiệp, trao đổi và góp ý để giúp tôi hoàn thiện hơn trong chuyên môn. Tôi xin chân thành cám ơn!
 Ngư Thủy Nam, ngày tháng năm 2012
 NGƯỜI THỂ HIỆN
 Từ Công Dũng
 Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG THCS NGƯ THỦY NAM
	 Ngư Thủy Nam, ngày 15 tháng 02 năm 2012
	 T/M HỘI ĐỒNG KH
	 CHỦ TỊCH 
 Hoàng Tấn Hiếu

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_ban_do_tu_duy_day_hoc_mon_dia.doc
Sáng Kiến Liên Quan