Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí tại trường THCS Đinh Tiên Hoàng

 Qua thực tế bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý khối 9 trong 5 năm học qua tôi nhận thấy rằng vấn đề quan trọng là người giáo viên bồi dưỡng cần có một quan niệm đúng về học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi môn Địa lý nói riêng. Bên cạnh đó, cần trả lời cho câu hỏi: “việc bồi dưỡng học sinh giỏi nhằm mục tiêu gì ?” để từ đó người giáo viên bồi dưỡng lựa chọn nội dung, chương trình và phương pháp bồi dưỡng sao cho thích hợp và đạt hiệu quả cao nhất.

 Theo Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Viết Thịnh, giảng viên khoa Địa lý Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, người được ví như “một trong những cánh chim đầu đàn” của ngành khoa học Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam và cũng là người có nhiều năm tham gia ra đề thi Cao đẳng, Đại học, thi học sinh giỏi quốc gia môn đia lý cho rằng: “Học sinh giỏi môn Địa lý chỉ cần học thuộc là chưa đủ, chưa chính xác vì Địa lý là môn khoa học có đối tượng nghiên cứu phong phú, phức tạp. Các hiện tượng địa lý không chỉ phân bố trên bề mặt đất mà cả trong không gian và trong lòng đất. Hơn nữa, các hiện tượng ấy ở đâu và bao giờ cũng phát sinh, tồn tại và phát triển một cách độc lập nhưng lại luôn có quan hệ hữu cơ với nhau. Chính vì vậy, người dạy và học Địa lý cần có phương pháp tư duy, phân tích, xét đoán các hiện tượng địa lý theo quan điểm hệ thống”.

 Với quan niệm trên, chúng ta hiểu rằng học sinh giỏi môn Địa lý là những học sinh phải nắm được những kiến thức cơ bản của bộ môn và phải vận dụng được những hiểu biết; những kỹ năng địa lý để giải quyết những nội dung cơ bản theo yêu cầu của đề bài, của thực tiễn cuộc sống và học sinh giỏi môn Địa lý là những học sinh có năng lực độc lập suy nghĩ, vận dụng tốt nhất những kiến thức, kỹ năng chắc chắn về địa lý.

Về mục tiêu bồi dưỡng học sinh giỏi, có nhiều mục tiêu khác nhau tùy theo quan niệm của mỗi giáo viên và tùy theo môn học nhưng dù quan niệm như thế nào chung quy lại có những điểm tương đồng:

 

doc26 trang | Chia sẻ: duycoi179 | Lượt xem: 9143 | Lượt tải: 5Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí tại trường THCS Đinh Tiên Hoàng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện ở các biểu đồ ; hay, đề thi yêu cầu HS quan sát lược đồ, nêu tên của lược đồ, nói rõ lược đồ biểu hiện những nội dung gì, giải thích sự hình thành và hoạt động của các nội dung đó. Những dạng yêu cầu này, nhìn chung khá khó đối với HS giỏi, đòi hỏi phải nắm rất vững kiến thức địa lí được thể hiện trên hình, đồng thời phải có kĩ năng quan sát, phân tích để rút ra các nhận xét theo yêu cầu của câu hỏi.
Học bài địa lí gắn với kênh hình sẽ làm cho các kiến thức địa lí được vững chắc hơn, sâu hơn, hiểu được một cách trực quan các mối liên hệ địa lí, đặc biệt là các mối liên hệ nhân quả ; đồng thời, góp phần phát triển tư duy hình tượng, loại tư duy cần rèn luyện trong học tập môn địa lí.
f) Kĩ năng vận dụng các kiến thức của môn học khác vào giải thích các hiện tượng địa lí và kĩ năng liên hệ thực tế
- Do bản chất tổng hợp của khoa học địa lí, nên kiến thức địa lí trong nhà trường có mối quan hệ mật thiết với kiến thức của nhiều môn học (hay khoa học) khác. Sử dụng hợp lí một số kiến thức liên quan ở các bộ môn khác vào giải thích các sự vật, hiện tượng địa lí được xem là một kĩ năng cần thiết và không thể thiếu đối với HS giỏi môn Địa lí. Nhiều kiến thức địa lí sẽ trở nên rất dễ hiểu nhờ vào việc giải thích dựa trên cơ sở tri thức của các bộ môn Sinh học, Hoá học, Vật lí,... 
Ví dụ : 
+ Dùng kiến thức hóa học để giải thích sự tạo thành ôdôn (trong lớp ôdôn ở đỉnh tầng đối lưu) : Các tia tử ngoại và các điện tích tách phân tử ôxi thành các nguyên tử ôxi, các nguyên tử này lại kết hợp với các phân tử ôxi khác, tạo thành ôdôn (O2 = O + O ; O2 + O = O3). 
+ Dùng kiến thức hoá học để giải thích sự phong hoá đá vôi tạo thành địa hình cacxtơ : Nước mưa khí quyển có chứa CO2 sẽ hoà tan rất mạnh các khoáng vật thuộc nhóm cacbonat, sunphat, chuyển thành canxi cacbonat Ca(HCO3)2 CO2 + H2O D H2CO3 ; CaCO3 + H2CO3 D Ca(HCO3)2. Do không ổn định về mặt hoá học, nên canxi cacbonat dễ bị phân tích thành axit cacbonic và canxi cacbonat thừa này tách ra khỏi dung dịch tạo thành túp vôi và các dạng kết tủa trong hang động. 
+ Để giải thích sự giảm nhiệt độ của không khí khi lên cao, dùng kiến thức vật lí : khi khối khí bốc lên mạnh, nội năng của khối khí chuyển thành công năng, công năng chuyển thành động năng. Do nội năng tỉ lệ với nhiệt độ tuyệt đối của khối khí, nên nhiệt độ biến đổi. Khi khối khí bốc lên, giãn nở, vì phải sản sinh công, nên tiêu hao nhiệt năng, do đó nhiệt độ giảm. Không khí giáng xuống, ngược lại, bị nén, năng lượng được giải phóng, nên nhiệt độ tăng lên. Không khí bão hoà hơi nước, khi lên cao 100 m, lạnh đi 0,6oC, vì ngưng kết làm tỏa nhiệt, nên đã được bù một phần nhiệt đáng lẽ phải dùng để chi cho giãn nở không khí. Không khí bão hoà, khi hạ xuống, nóng lên chưa đến 1oC, vì nhiệt phải chi cho bốc hơi. Không khí chưa bão hoà, khi hạ xuống, cứ 100 m tăng lên 1oC. Không khí bão hoà khi bốc lên cao thường mất độ ẩm vì hơi nước ngưng kết và rơi xuống, trở thành không bão hoà. Khi hạ xuống, cứ mỗi 100 m nóng lên 1oC. 
+ Hay, dùng kiến thức vật lí để giải thích hiện tượng nhiệt độ cực đại và cực tiểu trong ngày ở đại dương thường xảy ra chậm hơn ở trong lục địa : Sự truyền nhiệt vào trong đất và nước phụ thuộc rất nhiều vào nhiệt dung thể tích (lượng nhiệt tính bằng calo cần để đốt nóng 1 cm3 một chất nhất định lên 1oC) và tính dẫn nhiệt (khả năng truyền nhiệt được đo bằng lượng nhiệt đi qua một lớp đất có diện tích là 1 cm2 và chiều dày 1 cm, mà nhiệt độ chênh nhau ở hai mặt của lớp đó là 1oC, trong 1 giây) của chúng. Với lượng nhiệt Mặt Trời như nhau, đất (hay nước) có nhiệt dung thể tích lớn thì được đốt nóng nhiều hơn. Nhiệt dung thể tích của đất, đá nhỏ hơn nhiệt dung của nước hai lần. Nước có nhiệt dung lớn và tính dẫn nhiệt nhỏ hơn so với đất, nên nóng lên chậm và mất nhiệt cũng chậm. 
+ Dùng kiến thức vật lí để giải thích hiện tượng đại dương có biên độ nhiệt nhỏ, lục địa có biên độ nhiệt lớn : Tia mặt trời tới mặt nước được các lớp nước trên mặt hấp thụ một phần, còn một phần được truyền xuống đốt nóng trực tiếp các lớp ở dưới sâu. Do trao đổi loạn lưu nên sự truyền nhiệt xuống sâu ở nước và ngược lại, nhanh gấp rất nhiều (1000 - 10.000 lần) so với dẫn nhiệt phân tử ở đất. Tính linh động của nước càng làm cho sự truyền nhiệt có hiệu quả hơn. Vì vậy, ở đại dương có nhiệt độ cực đại trong ngày thường thấp hơn và nhiệt độ cực tiểu trong ngày thường cao hơn trên đất liền, dẫn đến biên độ nhiệt ở đại dương nhỏ, ở lục địa lớn.
- Ngoài ra, việc tăng cường liên hệ thực tế cũng cần phải làm thường xuyên đối với HS giỏi Địa lí, vì Địa lí là môn học rất gần gũi với môi trường xung quanh. Tăng cường liên hệ thực tế đòi hỏi một mặt vận dụng kiến thức thực tế vào bài học để làm sáng tỏ các sự vật hiện tượng địa lí(ví dụ : để rõ hơn chuyển động biểu kiến của Mặt Trời về Bắc bán cầu trong mùa hạ, có thể liên hệ hiện tượng thực tế ở nước ta, nhà quay về hướng tây, vào mùa hạ, thường thấy Mặt Trời lệch về phía Bắc). Mặt khác, cần vận dụng các kiến thức đã học để giải thích các hiện tượng xảy ra trong thực tế có liên quan (ví dụ : Câu ca dao "Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng. Ngày tháng mười chưa cười đã tối" có đúng với tất cả các nơi trên Trái Đất không ? hay "Tại sao ta phải xem truyền hình trực tiếp" các trận bóng đá giải ngoại hạng Anh vào lúc 23 giờ ? Lúc đó tại sân bóng của họ là mấy giờ ?" hoặc "Tại sao trước lúc gió mùa đông bắc thổi về, thường có mưa ? Tại sao các nhà hàng hải thường dùng bản đồ có phép chiếu đồ hình trụ đứng ?"). Kiến thức địa lí phản ánh nhiều sự vật và hiện tượng tự nhiên xảy ra trong môi trường xung quanh. Việc liên hệ này, một mặt giúp hiểu sâu hơn kiến thức bài học ; mặt khác, tạo nên hứng thú học tập địa lí, thấy được ích lợi của kiến thức địa lí trong cuộc sống hàng ngày.
g) Kĩ năng viết báo cáo địa lí
	- Kĩ năng viết báo cáo địa lí được rèn luyện qua các bước :
+ Phân tích, chọn lọc, hệ thống hoá tư liệu, số liệu đã cho phù hợp với yêu cầu của chủ đề.
 + Viết báo cáo
- Báo cáo trong bài thi HS giỏi không dài ; nguồn tư liệu đã cho sẵn ở dạng thô (ví dụ các bảng số liệu và một số thông tin ngắn), hay được yêu cầu khai thác từ Atlát địa lí...
- Việc viết báo cáo đòi hỏi phải vận dụng tổng hợp nhiều kĩ thuật khác nhau, như tìm tòi, khám phá, chọn lọc, xử lí và hệ thống hoá thông tin. 
+ Trong quá trình phân tích tư liệu cần lưu ý nội dung của tư liệu bao hàm vấn đề gì và liên quan đến nội dung nào của báo cáo, cần bổ sung thêm những thông tin còn thiếu, lựa chọn những nội dung cần cho việc làm rõ nội dung báo cáo, liên hệ các thông tin với nhau nhằm xác lập tính thống nhất và rút ra các nhận xét cần thiết phù hợp với bản chất của sự việc, hiện tượng trong báo cáo.
+ Trong báo cáo nên có những nhận xét, ý kiến nhận định khái quát, hoặc từ hiện tượng có thể có những đề xuất thích hợp về giải pháp, biện pháp.
- Báo cáo cần được viết theo văn phong khoa học, ngắn gọn, súc tích, không dùng văn nói trong báo cáo. Để báo cáo làm rõ được vấn đề và tăng cường sức thuyết phục, nên tăng cường sử dụng các dẫn chứng. 
- Việc trình bày các đề mục cũng phải hợp lí, thể hiện các nội dung địa lí một cách thích hợp. 
Ví dụ : 
+ Báo cáo về tình hình phát triển, thường có các đề mục :
1. Thời kì (giai đoạn) phát triển
2. Nhịp độ phát triển
3. Sản phẩm tiêu biểu
+ Báo cáo về cơ cấu của một ngành kinh tế, thường có dàn bài :
1. Giai đoạn và sự chuyển dịch cơ cấu
2. Cơ cấu theo ngành
3. Cơ cấu theo lãnh thổ
+ Báo cáo về phân bố của một ngành, một thành phần kinh tế - xã hội có thể làm theo dàn bài :
1. Đặc điểm phân bố
2. Sự phân bố theo thời kì (giai đoạn)
3. Mức độ hợp lí (hay chưa hợp lí)....
h. Hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ trong hệ thống hóa kiến thức
 Phương pháp sử dụng sơ đồ hay đầy đủ là phương pháp sử dụng sơ đồ Grap được sử dụng khá phổ biến trong dạy học Địa lý để thể hiện mối quan hệ nhân - quả trong địa lý. Do cấu trúc của chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi phân phối trải rộng ở 03 khối lớp nhưng giữa các khối lớp có mối liên hệ hữu cơ với nhau theo một trình tự, đặc biệt là khối 8 với khối 9. Vì thế, giáo viên bồi dưỡng khi sử dụng sơ đồ Grap cần đặt nó trong mối liên hệ mắc xích, không thể tách rời.
*Cấu tạo của một sơ đồ Grap gồm:
- Các đỉnh: thể hiện bằng các ô vuông chứa đựng các đặc điểm, khái niệm.
- Các nhánh: thể hiện bằng các mũi tên thể hiện các mối liên hệ giữa các yếu tố, đối tượng địa lý với nhau.
* Các kiểu sơ đồ Grap thường dùng:
- Grap chứng minh hay giải thích: dùng để thể hiện, phản ánh nội dung bài dạy một cách trực quan nhất.
- Grap tổng hợp: dùng để tổng hợp, ôn tập, tổng kết hay hệ thống một chương, một phần kiến thức các bài học.
 - Grap kiểm tra, đánh giá: dùng để phản ánh năng lực tiếp thu sự hiểu biết của học sinh, đồng thời giúp giáo viên kịp thời điều chỉnh nội dung truyền đạt.
* Cách sử dụng sơ đồ Grap: - Giáo viên vừa giảng bài, tổ chức cho học sinh tìm ra kiến thức và các mối liên hệ chủ yếu vừa xây dựng sơ đồ Grap. Kết thúc buổi bồi dưỡng thì việc xây dựng sơ đồ cũng hoàn thành và nội dung bồi dưỡng (nội dung bài học) được thể hiện một cách trực quan bằng sơ đồ.
	 - Giáo viên có thể xây dựng sẵn sơ đồ câm và đặt câu hỏi hướng học sinh phân tích các mối quan hệ trên sơ đồ để giải thích nội dung học tập đồng thời có các ví dụ cụ thể để chứng minh.
	 - Giáo viên cũng có thể xây dựng sơ đồ câm kết hợp với các phiếu học tập đã chuẩn bị trước rồi yêu cầu học sinh thảo luận nhóm tìm ra kiến thức. Cuối cùng, giáo viên khẳng định lại vấn đề đúng sai và học sinh tự hoàn thiện sơ đồ trên cơ sở kiến thức tìm được. 
* Ưu điểm của phương pháp sử dụng sơ đồ Grap:
	 Việc sử dụng sơ đồ Grap đã được thực hiện khá lâu trong dạy học địa lý do có nhiều ưu điểm nổi bật và thật sự nổi bật hơn trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn toàn ngành đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin thông qua vẽ bản đồ tư duy trong dạy học và thực chất của việc vẽ bản đồ tư duy chính là phương pháp sử dụng sơ đồ Grap trong dạy học địa lý. Phương pháp này có những ưu điểm:
 - Hạn chế việc mất thời gian của giáo viên so với phương pháp dạy từng tiểu mục, từng phần.
 - Học sinh có thể mở rộng, đào sâu kiến thức, nhất là các kiến thức mang tính tổng quan, khái quát.
- Giúp học sinh đễ nhớ và khắc sâu kiến thức bằng thói quen tư duy logic thông qua sơ đồ.
- Học sinh hứng thú học tập bộ môn.
* Một số ví dụ cụ thể:
	 - Câu 1: Bằng những kiến thức đã học hãy trình bày các vận động chính của Trái đất và hệ quả của nó.
	 - Câu 2: Khí hậu nước ta có những đặc điểm gì ? Từ những đặc điểm đó có thuận lợi và khó khăn gì cho phát triển kinh tế của nước ta ?
	 - Câu 3: Hãy chứng minh rằng Việt Nam là nước có tiềm năng đa dạng, phong phú để phát triển du lịch.
	 Với các câu hỏi mang tính tổng hợp như trên, học sinh giỏi môn địa lý không thể học thuộc lòng mà thông qua các phương pháp tư duy (so sánh, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa) và kết hợp vận dụng các kỹ năng địa lý dưới sự hướng dẫn của giáo viên phải trình bày đầy đủ và chính xác yêu cầu của đề bằng con đường ngắn nhất là vẽ sơ đồ Grap.
Ví dụ1
 Trái đất
Chuyển động quanh mặt trời 
Tự quay quanh trục 
Thời gian
.
.
.
 Hướng
.
.
.
 Vận tốc
.
.
.
Thời gian
.
.
.
 Hướng
.
.
.
 Trục nghiêng
.
.
.
 Hệ quả
 Hệ quả 
Ngày đêm kế tiếp nhau
.
.
.
Giờ khác nhau ở các nơi
.
.
.
Lệch hướng vật chuyển động
.
.
.
Các vành đai nhiệt trên trái đất
Ngày đêm dài ngắn theo mùa
.
.
.
Mùa trên trái đất
.
- 
Ví dụ 2:
 Khí hậu Việt Nam
 Phân hóa đa dạng
 Thất thường
 Nhiệt đới ẩm gió mùa
Gió mùa
.
..
 Ẩm
.
..
Nhiệt đới
.
..
Theo mùa
.
..
Bắc Nam
.
..
Tây Đông
.
..
Nhiệt độ
.
..
Lượng mưa
.
..
Thuận lợi:
Khó khăn:
Khó khăn
Thuận lợi:
Khó khăn:
 Ví dụ 3
Tài nguyên du lịch
 Tài nguyên du lịch nhân văn
 Tài nguyên du lịch tự nhiên
Di
sản văn hóa
.
..
Di tích lịch sử
.
..
Lễ hội
.
..
Làng nghề
.
..
Ẩm thực
.
..
Di
sản thiên nhiên
.
..
Vườn quốc gia
.
..
Hang động
.
..
Bãi biển
.
..
Thắng cảnh
.
..
	 Như vậy, sau khi có được nội dung của đề bài vấn đề đặt ra là học sinh phải tạo được sơ đồ cho từng câu hỏi và dựa vào sơ đồ đó học sinh thuyết trình sơ đồ bằng ngôn ngữ viết vào bài làm kết hợp với quá trình khai thác kiến thức từ Atlat Địa lý Việt Nam.
III. HƯỚNG DẪN CÁCH LÀM BÀI THI HỌC SINH GIỎI MÔN ĐỊA LÍ
1.Do yêu cầu về tính sáng tạo cao, nên đề thi HS giỏi môn Địa lí không theo một khuôn mẫu nào nhất định về dạng đề, cách làm bài theo từng dạng. Tuy nhiên, thống kê các dạng câu hỏi trong đề thi HS giỏi các câp một số năm trở lại đây, bản thân nhận thấy có một số dạng sau xuất hiện - Làm việc với bảng số liệu (nhận xét, nhận xét và giải thích, phân tích, giải thích, trình bày và giải thích, xác định loại biểu đồ thích hợp, vẽ biểu đồ và nhận xét, nhận dạng tháp tuổi trên cơ sở bảng số liệu).
- Làm việc với sơ đồ, lược đồ, hình vẽ, ảnh... (trình bày và giải thích, xác định đặc điểm, nhận dạng và giải thích hoặc phân tích, điền).
- Làm việc với với Atlát Địa lí Việt Nam (so sánh, phân tích, giải thích, trình bày, lập bảng số liệu, trình bày và giải thích hoặc phân tích, nhận xét và giải thích, viết báo cáo).
- Làm việc với lát cắt địa hình (vẽ, nhận xét).
- Đặt giả thuyết ngược, yêu cầu rút ra kết luận, bình luận một vấn đề, trình bày và giải thích mối liên hệ , nêu định nghĩa, ý nghĩa,...
- Tính toán (áp dụng hoặc biến đổi công thức có sẵn).
Nhìn chung, quan sát các dạng đề thi trên có thể thấy được yêu cầu chủ yếu của đề thi HS giỏi là : HS phải có kĩ năng địa lí thành thạo để tìm tòi, khám phá tri thức địa lí tiềm ẩn trong các dạng kênh hình khác nhau (chủ yếu là Atlat Địa lí Việt Nam, bảng số liệu thống kê, biểu đồ và lược đồ khí hậu), trên cơ sở nắm chắc, hiểu sâu kiến thức địa lí cơ bản và có tư duy sáng tạo. Ngoài ra, đề thi còn yêu cầu phân tích các mối liên hệ nhân quả, tính toán, vẽ, đánh giá... Như vậy, việc chuẩn bị cho thi HS giỏi các cấp là một quá trình lâu dài và công phu về cả kiến thức, kĩ năng địa lí và kĩ năng tư duy. Học theo các dạng đề thi không nên đặt thành việc chủ yếu trong thi HS giỏi.
2.Vì việc nắm kiến thức cơ bản là nền tảng vững chắc cho tư duy và cơ sở cho thăng hoa sáng tạo nên,trong quá trình làm bài thi HS giỏi với yêu cầu sáng tạo cao, HS giỏi nên đọc kĩ đề bài, phân tích rõ câu hỏi, xác định đúng trọng tâm yêu cầu của câu hỏi, lựa chọn và huy động các kiến thức cơ bản và kĩ năng cần thiết cho việc giải các câu hỏi. 
Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng, dù cho câu hỏi có thể phức tạp đến chừng nào cũng có thể liên hệ được với các kiến thức cơ bản, có tính chất "gốc" của nội dung cần hỏi. Có thể quan niệm kiến thức "gốc" là các kiến thức cơ bản liên quan trực tiếp đến nội dung cần giải quyết do câu hỏi yêu cầu. Những kiến thức này có tính cơ bản, ổn định, làm nền tảng cho các hướng phát triển kiến thức. Mỗi câu hỏi khó trong đề thi HS giỏi có thể được xem như là một sự phát triển cao hơn về một khía cạnh của kiến thức cơ bản. Do vậy, khi gặp những câu hỏi như vậy, nên quy về kiến thức cơ bản, từ đó tìm kiếm các phương án giải quyết thích hợp. Ví dụ, câu hỏi : Hãy trình bày sự chuyển biến của cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta hiện nay và mối quan hệ của nó với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ, được quy về "gốc" là nội dung cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ. Hay, câu hỏi : Nếu như trong khi chuyển động quanh Mặt Trời, Trái Đất không tự quay và trục của nó không nghiêng mà vuông góc với mặt phẳng hoàng đạo thì sẽ dẫn đến những hệ quả nào ? được quy về "gốc" của nó là các hệ quả chuyển động tự quay quanh trục của Trái Đất. Với câu hỏi : Dựa vào Atlát Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy trình bày đặc điểm mưa của khu vực Huế và Đà Nẵng. Giải thích tại sao có những đặc điểm mưa như vậy. Nội dung "gốc" là mối liên hệ nhân quả giữa hướng địa hình, vị trí của đường hội tụ nhiệt đới vào thu đông, gió mùa đông bắc với lượng mưa (hay nói chung là các nhân tố ảnh hưởng đến mưa ở khu vực miền Trung)...
Khi đã quy về được nội dung "gốc" của vấn đề, HS giỏi có thể bắt đầu từ đó để xác định những kiến thức cần thiết phục vụ cho việc trả lời câu hỏi đặt ra.
3.Trong quá trình làm bài thi, cần chú ý phân bổ thời gian hợp lí, tránh dồn hết thời gian cho câu khó (có thể vượt sức mình), không có kết quả, trong khi những câu hỏi vừa sức hơn không có thời gian giải. Kinh nghiệm của nhiều HS giỏi đạt giải cao cho thấy, trước hết nên ưu tiên giải những câu hỏi mà khả năng mình có thể thực hiện được thuận lợi. Những câu hỏi khó hơn để sau. 
4.Phác thảo đề cương cho mỗi câu hỏi
Việc phác thảo đề cương giúp cho HS giỏi khỏi bỏ sót các ý trong bài làm và phân bổ thời gian hợp lí cho từng câu hỏi. 
Trong khi lập đề cương, việc phác thảo ra các ý tưởng về cách giải, địa chỉ của các kiến thức "gốc" liên quan đến câu hỏi cần được lưu ý ghi rõ.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy, HS giỏi cần căn cứ vào yêu cầu của câu hỏi để nhanh chóng phác thảo các ý chính cần phải trả lời, giữa chúng nên có những khoảng trống để ghi các ý nhỏ và có thể ghi thêm những ý bổ sung cần thiết chợt nghĩ ra trong khi làm bài.
5. trong quá trình làm bài trên giấy thi, cần làm rõ các ý lớn và nhỏ theo như đề cương chi tiết. Có thể dùng cách đánh số thứ tự và gạch đầu dòng, dấu cộng theo các ý khác nhau để bài làm được mạch lạc.
Cũng cần chú ý diễn đạt bài thi bằng các câu văn ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu ; tránh trình bày dài dòng, rườm rà, dùng văn nói thay cho văn viết trong bài thi. Phải chú ý tránh phạm những lỗi sơ đẳng về chính tả, ngữ pháp.
C. PHẦN KẾT LUẬN
 Từ những kết quả đã đạt được trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi những năm qua, bản thân đúc kết được những kinh nghiệm sau:
 - Thứ nhất, người giáo viên cần xây dựng kế hoạch cụ thể trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi vì qua kinh nghiệm bản thân thấy rằng: kế hoạch vừa là kim chỉ nam cho người giáo viên thực hiện, đồng thời vừa là động lực để người giáo viên phấn đấu tốt hơn trong quá trình bồi dưỡng. Hơn thế nữa, thông qua kế hoạch còn được lãnh đạo nhà trường kịp thời động viên, khuyến khích, tháo gở những khó khăn khi bồi dưỡng, và điều này đồng nghĩa với việc lãnh đạo nhà trường đã thể hiện sự quan tâm đến việc bồi dưỡng học sinh giỏi của giáo viên. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
 - Thứ hai, người giáo viên phải thật sự có tâm huyết với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.Từ sự tâm huyết, nhiệt tình đó người giáo viên mới có thể từng bước thực hiện công việc bồi dưỡng như: biên soạn tài liệu, chọn phương pháp bồi dưỡng hay san sẻ những khó khăn của học sinh trong quá trình bồi dưỡng (kể cả khó khăn từ phía gia đình, khó khăn trong học tập của các em)  chỉ có như thế mới mang lại thành công cho giáo viên bồi dưỡng.
 - Thứ ba, người giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi phải có tinh thần tự học suốt đời, không ngừng tìm tòi, học tập, nghiên cứu tài liệu, cập nhật những kiến thức, thông tin trên tất cả các lĩnh vực qua báo, đài, Internet, thực tiễn cuộc sống  để phục vụ cho việc bồi dưỡng.
- Thứ tư cần có sự phối kết hợp giữa gia đình- nhà trường - phụ huynh học sinh, giữa giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn trong công Tác tuyển chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi
 Tuy nhiên, với vai trò là người giáo viên bồi dưỡng bản thân chưa thật sự hài lòng với kết quả trên vì tuy hàng năm có học sinh đạt giải cấp huyện, tỉnh nhưng số lượng học sinh đạt giải chưa nhiều. Do vậy, trong những năm học tiếp theo bản thân sẽ không ngừng tổng kết, rút kinh nghiệm, không ngừng học hỏi để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ngày càng ổn định, phát triển theo hướng bền vững
Qua một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý khối 9 của bản thân tin tưởng rằng quý thầy; cô đã, đang và sẽ bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và môn Địa lý nói riêng, đặc biệt là quý thầy cô đang công tác ở vùng khó khăn như Xã Cuôrđăng có thể xem đây là một tài liệu tham khảo, một kênh thông tin để phục vụ cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi để tô thắm thêm kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi, góp phần làm rạng rỡ thêm thành tích dạy và học của trường THCS Đinh Tiên Hoàng cũng như ngành giáo dục huyện nhà.

File đính kèm:

  • docKinh_nghiem_BDHSG.doc
Sáng Kiến Liên Quan