Sáng kiến kinh nghiệm Sáu giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới VNEN để nâng cao chất lượng dạy học ở trường tiểu học Vạn Thọ 1
Môi trường giáo dục luôn có tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người thông qua các mối quan hệ xã hội đa dạng. Trong nhà trường, học sinh được tiếp thu những tri thức khoa học, những kĩ năng cần thiết để hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp ban đầu của con người mới. Cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật của thế giới đang biến động từng giờ, từng phút đòi hỏi công tác giáo dục phải tích cực biến đổi, trong đó việc đổi mới phương pháp quản lý, phương pháp dạy học là tất yếu. Yêu cầu cần có những phương pháp góp phần tích cực để hoạt động quản lý giáo dục giảm được công sức, nâng cao hiệu quả quản lý và giảng dạy, tiết kiệm được nhiều thời gian, bảo đảm sự chính xác cao trong mọi hoạt động. Phương pháp giảng dạy và giáo dục ở các trường tiểu học của nước ta đã quan tâm đến việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên còn mang tính hình thức, đôi khi còn áp đặt, gò bó, chưa quan tâm lắng nghe tâm tư nguyện vọng của học sinh. Việc đánh giá, sửa sai cho học sinh còn có biểu hiện khắt khe, thiếu dân chủ, chủ yếu là giáo viên nhận xét, đánh giá. Bởi vậy học sinh còn có những khiếm khuyết về nhân cách như: rụt rè, thụ động, thiếu tự tin vào bản thân, không dám đề đạt ý kiến, không mạnh dạn thể hiện khả năng,.
Quản lý hoạt động dạy học được xem là hoạt động trọng tâm trong quản lý trường học, vì dạy và học thực hiện theo chương trình, kế hoạch đã được xác định và diễn ra trong suốt năm học. Từ đó cho thấy vai trò của Ban giám hiệu trong việc quản lý hoạt động dạy học theo mục tiêu đào tạo là rất quan trọng. Quản lý hoạt động dạy học nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học để thực hiện chiến lược con người - nhân tố quyết định sự phát triển xã hội là bức thiết, là quan trọng. Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 là một trong những trường được nằm trong dự án của chương trình "Dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN)", điều đó cho thấy, cơ hội cho trường cũng cao nhưng thách thức cũng không phải là nhỏ.
tự học, tự rèn. Trong các buổi sinh hoạt chuyên đề ở trường, ở tổ chuyên môn, người chủ trì tạo điều kiện để giáo viên được bày tỏ ý kiến và những băn khoăn, trăn trở của mình để được giải đáp. Với cách làm trên, nhà trường đã bồi dưỡng được một đội ngũ giáo viên có năng lực giảng dạy vững vàng. 3.3. Chỉ đạo giáo viên vận dụng một cách linh hoạt các phương pháp dạy học và hình thức tổ chức lớp học theo đúng đặc trưng mô hình VNEN Để thực hiện thành công mô hình VNEN, hơn ai hết bản thân người giáo viên phải thực sự có mong muốn tạo ra những thay đổi, tập trung chú ý vào những thay đổi về chiến lược giảng dạy, yêu thương học sinh và tin tưởng rằng tất cả học sinh đều có tiềm năng thành công nếu được trang bị những kĩ thuật học tập đa dạng. Đổi mới phương pháp dạy học hiện hành đã phần nào phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên một số giáo viên đôi khi vẫn còn nặng về vai trò truyền thụ kiến thức. Một số bộ phận học sinh chưa mạnh dạn, tự tin tham gia vào quá trình học tập và các hoạt động giáo dục; kỹ năng sống hạn chế. Bởi vậy, khi thực hiện mô hình trường học mới, hơn ai hết bản thân người giáo viên phải tích cực đổi mới hoạt động sư phạm của mình với phương châm “Chuyển đổi từ dạy học truyền thụ của giáo viên sang tổ chức hoạt động tự học của học sinh, quá trình tự học, tự giáo dục là trung tâm của hoạt động giáo dục”. Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng tài liệu hướng dẫn học để tự học, tự khám phá; tổ chức cho học sinh hoạt động khám phá, phát hiện kiến thức, kỹ năng mới thông qua quá trình học tập mang tính hợp tác. Giáo viên chỉ hỗ trợ và hướng dẫn học sinh khi cần thiết. Giáo viên phải biết khuyến khích mọi cố gắng, nỗ lực và những tiến bộ dù là nhỏ nhất của học sinh để những học sinh vốn rụt rè, nhút nhát dần trở nên mạnh dạn, tự tin hơn. Chỉ đạo giáo viên tổ chức linh hoạt các hoạt động học tập của học sinh, không nhất thiết phải thực hiện theo logo trong tài liệu hướng dẫn học mà có thể điều chỉnh logo thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn có sự thống nhất của tổ chuyên môn, Ban giám hiệu nhà trường. Giáo viên phải dựa vào đối tượng học sinh và thực tế của lớp học để lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp. Ở mô hình trường học mới, học sinh không tiếp thu kiến thức một cách thụ động mà ngược lại các em chủ động làm việc độc lập với tài liệu, thao tác với các đồ vật, quan sát trực tiếp, phân tích so sánh và tương tác với các bạn cùng nhóm, tương tác với giáo viên và cộng đồng. Quá trình chiếm lĩnh kiến thức được khởi đầu bằng việc học sinh đọc và viết tên bài học, tiếp đến là việc đọc mục tiêu bài học - đây là việc đầu tiên của học sinh phải biết mình làm cái gì trong bài học này. Hoạt động cơ bản là quá trình tự trải nghiệm nghiên cứu tài liệu, bắt đầu từ cá nhân và trao đổi trong nhóm. Trình tự bài học đến báo cáo kết quả học tập của cá nhân và nhóm thể hiện tính độc lập tương đối của cá nhân và nhóm. Trong giờ học, giáo viên tổ chức cho các nhóm trưởng điều hành các nhóm hoạt động. Dưới sự điều hành của nhóm trưởng, các nhóm nghiêm túc học bài và hăng hái thảo luận mỗi khi có chủ đề đưa ra. Chính vì vậy, người giáo viên phải “tập huấn” cho nhóm trưởng về cách điều khiển hoạt động của nhóm. Nhóm trưởng phải biết phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong nhóm sao cho các bạn đều được tham gia, đều được bày tỏ ý kiến, đều được thể hiện. Tránh hiện tượng học sinh ngồi nói chuyện riêng hoặc không chịu khó suy nghĩ mà chỉ trông chờ vào giáo viên và các bạn. Đặc biệt, giáo viên phải biết huy động những học sinh có năng khiếu, học sinh hoàn thành tốt trong lớp để giúp mình hướng dẫn, hỗ trợ và kiểm tra, đánh giá các bạn khác. Với cách làm đó, chúng ta không còn bắt gặp hình ảnh cả lớp ngồi im lặng nghe thầy, cô giáo giảng bài nữa, mà thay vào đó là những nhóm học sinh ngồi thảo luận và làm các bài tập trong tài liệu theo yêu cầu. Qua đó, phát huy tính tích cực, chủ động, ý thức tự học, tự giải quyết vấn đề và tinh thần hợp tác, chia sẻ của học sinh. Học sinh ngày càng mạnh dạn, tự tin hơn rất nhiều. Không khí học tập của học sinh rất sôi nổi và thoải mái. 3.4. Chỉ đạo giáo viên dạy phân hóa đối tượng học sinh Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, bản thân luôn đôn đốc, chỉ đạo giáo viên dạy phân hóa đối tượng học sinh. Trong tiết học, nếu học sinh làm xong bài trước, giáo viên cần chuẩn bị những bài tập tăng cường, nâng cao để các em được nhận thêm bài tập nhằm phát huy năng lực học tập của học sinh. Nếu học sinh làm tốt giáo viên khen ngợi và tuyên dương trước lớp. Nếu học sinh không làm được giáo viên giúp học sinh giải quyết và không quên động viên, khích lệ học sinh. Có thể cho thêm bài tập tương tự để học sinh làm được, giúp các em thêm tự tin và hứng thú. Đối với những học sinh chưa hoàn thành các nhiệm vụ học tập, giáo viên có thể hướng dẫn và giáo nhiệm vụ cho học sinh trong nhóm giúp đỡ bạn hoặc chính giáo viên giúp đỡ các em kịp thời bằng cách đưa ra hệ thống câu hỏi gợi mở để học sinh tiếp thu được kiến thức bài học, tuyệt đối không nên làm lơ, bỏ qua hay giảng giải qua loa cho có. Đối với các tiết rèn, chuyên môn chỉ đạo giáo viên đặc biệt chú ý quan tâm từng nhóm đối tượng học sinh trong quá trình soạn giảng. Giáo viên lựa chọn, thiết kế các bài tập sao cho phù hợp với trình độ học sinh của lớp mình. 3.5. Chỉ đạo giáo viên phát huy vai trò của Hội đồng tự quản trong giảng dạy Lớp học là “hạt nhân” trong “Mô hình trường học mới tại Việt Nam”. Bàn ghế không kê theo kiểu truyền thống mà được bố trí lại để học sinh ngồi theo nhóm, phù hợp với sự tương tác giữa các bạn trong nhóm và giáo viên. Khác với trước đây, ban cán sự lớp do giáo viên áp đặt và hoạt động theo các yêu cầu của giáo viên. Trong mô hình VNEN, ban cán sự lớp được đổi mới thành “Hội đồng tự quản”. “Hội đồng tự quản” được thành lập là vì học sinh, do học sinh và các em được chủ động tự quản trong các hoạt động của lớp. Để có một “Hội đồng tự quản” theo đúng ý nghĩa của nó, tôi đã chỉ đạo giáo viên tổ chức học sinh xây dựng kế hoạch một cách rõ ràng. Kế hoạch bầu “Hội đồng tự quản” phải nêu rõ mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng tham gia, thời gian tiến hành, đặc biệt thành phần tham gia không thể thiếu đó là phụ huynh học sinh. Sau đó, giáo viên tổ chức cho các em tiến hành ứng cử, bầu cử. Học sinh được quyền ứng cử, bầu cử một cách dân chủ để chọn ra một “Hội đồng tự quản” chỉ đạo lớp hoạt động. Sau khi thành lập được “Hội đồng tự quản” giáo viên cho các em tự phân công nhiệm vụ. Các thành viên trong lớp được tự do tham gia vào các ban. Các em có thể ghi tên mình vào mảnh giấy hoặc các hình ảnh mà các em thích rồi dán vào ban mình đăng kí. “Hội đồng tự quản” cũng có thể được thay đổi trong năm học. Nếu hội đồng tự quản không làm tốt nhiệm vụ giáo viên có thể cho học sinh bầu lại. Mặt khác nếu hội đồng tự quản làm tốt, hết học kì 1 giáo viên cũng có thể cho bầu lại để cho nhiều học sinh có cơ hội được tập làm “lãnh đạo”. Những học sinh đã làm tốt rồi giáo viên khen ngợi và động viên các em làm cố vấn cho các bạn mới được bầu vào Hội đồng tự quản mới. Như vậy, nhiều học sinh được phát huy năng lực và sở trường của mình. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm hướng dẫn Hội đồng tự quản thực hiện các nhiệm vụ của mình, rèn cho Hội đồng tự quản một số kỹ năng như: Kỹ năng giao nhiệm vụ, kỹ năng quan sát, kỹ năng hướng dẫn, nêu vấn đề, giúp đỡ, hỗ trợ, Khi Hội đồng tự quản hoạt động, giáo viên phải là người theo dõi và giám sát, hỗ trợ kịp thời. Sau mỗi tuần làm việc, cuối mỗi tuần cần có tổng kết đánh giá và rút kinh nghiệm để từ đó các ban trong Hội đồng tự quản sẽ hoạt động tốt hơn. Đối với các em học sinh lớp 2, vì mới làm quen nên cách điều hành và làm việc theo Hội đồng tự quản các em sẽ không tránh khỏi bỡ ngỡ chính vì vậy bản thân tôi chỉ đạo cho giáo viên chủ nhiệm hướng dẫn cho các em đi học tập thêm các anh chị ở lớp trên về cách điều hành hoạt động để từ đó rút ra bài học cho bản thân. 3.6. Chỉ đạo giáo viên thực hiện điều chỉnh tài liệu Hướng dẫn học Chất lượng dạy học phụ thuộc nhiều vào chất lượng tài liệu dạy học. Mặt khác, tài liệu chỉ có thể nêu ra một phương án cụ thể về kế hoạch bài học cho học sinh và giáo viên. Vì thế, nó không thể thích ứng cho mọi vùng miền và mọi đối tượng học sinh. Việc chỉ đạo và tổ chức cho giáo viên điều chỉnh tài liệu hướng dẫn học vừa làm cho chất lượng dạy học, chất lượng giáo dục tốt lên, vừa nâng cao năng lực nghiên cứu sư phạm, ý thức chủ động, sáng tạo của mỗi giáo viên. Vì vậy, chuyên môn nhà trường luôn có tinh thần chỉ đạo giáo viên nghiên cứu kỹ tài liệu hướng dẫn học, xem xét điều kiện thực tế của lớp, của trường, của địa phương để điều chỉnh cho từng bài dạy, từng tiết dạy cho phù hợp và hiệu quả. Tuy nhiên, việc điều chỉnh tài liệu hướng dẫn học cần đảm bảo các nguyên tắc: Bảo đảm yêu cầu về chuẩn kiến thức và kĩ năng; phù hợp với học sinh; phù hợp với năng lực của giáo viên và các điều kiện của địa phương; phù hợp nguyên tắc, cấu trúc tài liệu theo mô hình VNEN. Mỗi giáo viên cần xây dựng bảng tiêu chí cho việc điều chỉnh tài liệu VNEN, phân tích tài liệu theo những tiêu chí này và tạo ra các thay đổi cần thiết trước khi học sinh được đọc tài liệu Hướng dẫn học. Như vậy, các hướng dẫn của giáo viên sẽ phù hợp với môi trường và nhu cầu của học sinh, quá trình giáo dục sẽ cuốn hút học sinh tham gia một cách tích cực hơn. Việc điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học có thể theo nhiều hướng khác nhau. Giáo viên có thể tăng hay giảm thời lượng cho mỗi hoạt động học tập; điều chỉnh yêu cầu (câu lệnh) của hoạt động; thay đổi, điều chỉnh ngữ liệu học; thêm mẫu thực hiện, thêm gợi ý, thêm nội dung phân tích mẫu, thay đổi đồ dùng dạy học, điều chỉnh hình thức lưu giữ kết quả hoạt động, sáng tạo các hoạt động ứng dụng,... Hoặc giáo viên có thể điều chỉnh hình thức tổ chức dạy học như: Điều chỉnh thành viên nhóm, thay đổi vai của từng thành viên trong nhóm; thay đổi tương tác thầy - trò, trò – trò. Nhiệm vụ giao cho mỗi thành viên cần được luân phiên thay đổi để mỗi học sinh có cơ hội trải nghiệm. 4. Hiệu quả của đề tài Trong những năm qua, Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 đã tích cực đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên về các mặt chuyên môn nghiệp vụ. Đến nay, nhận thức về tầm quan trọng của đổi mới công tác dạy học trong quản lý giáo dục, trong giảng dạy của cán bộ quản lý, giáo viên đã được nâng lên một bước đáng kể. Giáo viên đặc biệt là những giáo viên mới ra trường, lần đầu tiếp cận với mô hình VNEN đã hiểu rõ bản chất và nắm được quy trình tổ chức tiết dạy theo mô hình VNEN. Qua các tiết dự giờ giáo viên, bản thân nhận thấy giáo viên tổ chức tiết dạy một cách nhẹ nhàng, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực cũng như hình thức tổ chức hợp lí, lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn, giúp đỡ học sinh. Hội đồng tự quản hoạt động hiệu quả. Trong các tiết học, các ban làm rất tốt nhiệm vụ của mình, điều đó đã góp phần không nhỏ đến hiệu quả tiết dạy. Học sinh tích cực tham gia các họat động học tập. Các em được tiếp cận việc tổ chức hoạt động học tập theo nhóm, không bị áp lực “học vẹt” học lấy điểm. Học sinh tương tác với môi trường mà hình thành tri thức mới và hỗ trợ việc củng cố kiến thức, rèn luyện các kĩ năng cơ bản về mặt kiến thức. Sau khi áp dụng các giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới VNEN trong năm học 2017-2018 và ba tháng đầu năm học 2018-2019, chất lượng dạy học của trường cụ thể là ở các lớp học theo mô hình VNEN có những chuyển biến tích cực đáng kể sau: * Năm học 2017-2018: - Thành tích của giáo viên: + Tham gia Hội giảng giáo viên dạy giỏi cấp trường: đạt 05/05 giáo viên. + Tham gia Hội giảng giáo viên dạy giỏi cấp huyện: đạt 01/01 giáo viên. + Tham gia giáo viên chủ nhiệm giỏi cấp trường đạt: 04/04 giáo viên. + Tham gia giáo viên chủ nhiệm giỏi cấp tỉnh đạt: 01/01 giáo viên. + Tham gia Tổng phụ trách giỏi cấp huyện đạt: 01/01 giáo viên. + Đạt lao động tiên tiến : 14/14 giáo viên. + Đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp cơ sở: 03 giáo viên. - Kết quả học tập từng môn học, hoạt động giáo dục của học sinh học theo mô hình VNEN từ khối 2 đến khối 5: + Hoàn thành chương trình lớp học: 144/144, đạt tỉ lệ 100%. + Hoàn thành chương trình tiểu học: 48/48 HS, đạt tỉ lệ 100%. + Mức độ hình thành và phát triển năng lực: Đạt trở lên: 144/144, đạt tỉ lệ 100%. + Mức độ hình thành và phát triển phẩm chất: Đạt trở lên: 144/144, đạt tỉ lệ 100%. - Học sinh đạt giải cấp huyện: 02 học sinh đạt giải Nhì, 01 học sinh đạt giải Ba Olympic Tiếng Anh cấp huyện. * Năm học 2018-2019 (tính đến thời điểm cuối tháng 11/2018): - Thành tích của giáo viên: + Tham gia Hội giảng giáo viên dạy giỏi cấp trường: đạt 07/07 giáo viên. + Tham gia giáo viên chủ nhiệm giỏi cấp trường đạt: 06/06 giáo viên. - Kết quả học tập từng môn học, hoạt động giáo dục của học sinh học theo mô hình VNEN từ khối 2 đến khối 5 đến giữa học kì 1: + Ở khối 2, khối 3 đánh giá thường xuyên không có học sinh chưa hoàn thành. + Ở khối 4, khối 5 kết quả kiểm tra giữa học kì 1 đối với môn Toán và Tiếng Việt như sau: Môn Tiếng Việt: Khối Sĩ số Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5 SL % SL % SL % SL % Khối 4 37 14 37,8 19 51,4 4 10,8 Khối 5 35 12 34,3 19 54,3 4 11,4 / / Môn Toán: Khối Sĩ số Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5 SL % SL % SL % SL % Khối 4 37 14 37,8 9 24,3 12 32,4 2 5,5 Khối 5 35 12 34,3 7 20 13 37,1 3 8,6 + Mức độ hình thành và phát triển năng lực: Đạt trở lên: 139/139, đạt tỉ lệ 100% + Mức độ hình thành và phát triển phẩm chất: Đạt trở lên: 139/139, đạt tỉ lệ 100% Từ những hiệu quả đạt được nêu trên đã góp phần thực hiện thành công đổi mới công tác quản lý, đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới phương pháp học tập của học sinh; từng bước hình thành ý thức tự học của học sinh dựa trên nguyên tắc “Thầy chủ đạo, trò chủ động” đã nâng cao chất lượng giáo dục một cách toàn diện đúng theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo và của lãnh đạo Ngành Giáo dục huyện Vạn Ninh. III. KẾT LUẬN 1. Đúc kết lại nội dung chính đã trình bày Qua hơn một năm áp dụng các giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới VNEN, tôi thấy có những chuyển biến rõ rệt: học sinh mạnh dạn, tự tin, linh hoạt, sáng tạo, tích cực hơn trong học tập và các hoạt động. Không khí học tập trong lớp tự nhiên, nhẹ nhàng, thân thiện. Giáo viên và học sinh tương tác với nhau nhiều hơn. Học sinh hứng thú tiếp nhận kiến thức. Các em được phát huy năng lực tự học, học sinh có nhiều cơ hội độc lập suy nghĩ, bộc lộ ý kiến riêng khi làm việc cá nhân và có nhiều cơ hội phát huy năng lực hợp tác khi học nhóm. Phát huy tốt vai trò của Hội đồng tự quản, nhiều em thể hiện được khả năng của mình khi điều hành các bạn. Khả năng giao tiếp, ứng xử của học sinh tiến bộ hơn nhiều. Học sinh mạnh dạn tham gia đánh giá quá trình học tập, rèn luyện của mình, của bạn. Một số học sinh có tính cách nhút nhát đã dần trút bỏ được sự tự ti và trở nên mạnh dạn, tự tin để thể hiện khả năng của bản thân mình. Cha mẹ học sinh đã hiểu được lợi ích từ mô hình trường học mới đối với con em họ và nhiệt tình hưởng ứng. Giáo viên trau dồi được nhiều kiến thức về chuyên môn, kĩ năng sư phạm, thành thạo và linh hoạt với cách tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh theo mô hình VNEN. Mô hình trường học mới Việt Nam - VNEN được đánh giá là “luồng gió mới” góp phần tích cực làm thay đổi tư duy trong dạy và học ở nước ta. Đây là kiểu mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại. Từ thực tế chỉ đạo và giảng dạy, tôi thấy vẫn có những khó khăn, vướng mắc về cơ sở vật chất, về quá trình giảng dạy của giáo viên, về khả năng học tập của học sinh. Tuy nhiên, những vấn đề trên không phải “một sớm, một chiều” là khắc phục được ngay mà đòi hỏi người giáo viên phải thật kiên trì, nhẫn nại, tích cực tự học, tự bồi dưỡng; luôn quan tâm, chia sẻ và động viên học sinh để các em tự tin học tập. Ban giám hiệu nhà trường phải tăng cường theo sát, chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ với phụ huynh và cộng đồng để nhận được sự hỗ trợ. Thực hiện tốt mô hình này là một đóng góp không nhỏ trong công cuộc đào tạo thế hệ trẻ có kỹ năng sống tốt, có đủ cả đức, trí, thể, mỹ cho tương lai đất nước. 2. Biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn Để thực hiện tốt các vấn đề đã được đề cập trong nội dung sáng kiến, bản thân tôi luôn xác định cho mình những biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn như sau : - Xác định rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ của một người phụ trách chuyên môn trong việc quản lý hoạt động dạy học trong nhà trường. - Xác định tầm quan trọng của việc tổ chức lớp học mà trong đó lấy học sinh làm trung tâm, các em tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua các hoạt động cơ bản và hoạt động thực hành. - Quán triệt giáo viên hiểu rằng những nội dung cơ bản của tài liệu “Hướng dẫn học” so với bộ sách giáo khoa hiện hành không có sự thay đổi về mặt nội dung kiến thức. - Chỉ đạo giáo viên xây dựng và rèn cho “Hội đồng tự quản” làm việc một cách hiệu quả, tích cực. - Chỉ đạo giáo viên trong quá trình giảng dạy luôn chú ý đến “tiến độ học” của học sinh, để từ đó có những biện pháp tổ chức cụ thể. - Luôn đôn đốc, nhắc nhở giáo viên không ngừng không ngừng học tập, bồi dưỡng, áp dụng các chuyên đề đổi mới phương pháp giảng dạy ở tiểu học, tìm tòi sáng tạo, thay đổi linh hoạt các biện pháp giáo dục, các hình thức tổ chức học tập, nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh. Ngoài ra giáo viên còn phải là người nắm vững cơ sở tâm lí học trong giảng dạy. - Áp dụng các giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới trực tiếp đến giáo viên một cách thường xuyên trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, trong các cuộc họp hay hội nghị của nhà trường và xuyên suốt cả năm học. 3. Kiến nghị Về chuyên môn: Cần tổ chức tập huấn, mở chuyên đề nhiều hơn về phương pháp dạy học các môn chuyên biệt theo mô hình VNEN. Công tác tư vấn về phương pháp dạy học mô hình này cần duy trì và đổi mới. Về cơ sở vật chất: Nhà trường cần tiếp tục đầu tư thêm nhiều thiết bị dạy học, tu sửa và xây dựng cơ sở vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu việc thực hiện dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN). 4. Hướng phát triển của đề tài Kết quả đề tài có thể được sử dụng trong quản lý chuyên môn, cụ thể là quản lý hoạt động dạy học ở các trường áp dụng dạy theo mô hình VNEN. Đồng thời chúng ta có thể tham khảo, vận dụng vào nghiên cứu các giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học ở các lớp, các trường dạy theo chương trình hiện hành. * Qua quá trình phụ trách chuyên môn, tôi đã nghiên cứu, đưa ra “Sáu giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới VNEN để nâng cao chất lượng dạy học ở Trường Tiểu học Vạn Thọ 1” và áp dụng vào trường tôi đang công tác. Kết quả cho thấy chất lượng dạy học của nhà trường được nâng lên rõ rệt so với những năm chưa áp dụng sáng kiến. Song vì trình độ có hạn, sáng kiến của tôi còn nhiều thiếu sót so với các đồng nghiệp. Rất mong ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp, sự chỉ đạo giúp đỡ của các cấp lãnh đạo ngành để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn ! Vạn Thọ, ngày 09 tháng 11 năm 2018 HIỆU TRƯỞNG Người viết Võ Thị Hằng TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tổ chức lớp học theo Mô hình trường học mới tại Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản năm 2013. 2. Tài liệu tập huấn: Dạy học theo mô hình trường học mới, tập 1, tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản năm 2013. 3. Hướng dẫn tổ chức sinh hoạt chuyên môn tại các trường thực hiện Mô hình trường học mới Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản năm 2013. 4. Hướng dẫn sự tham gia của cha mẹ học sinh và cộng đồng trong Mô hình trường học mới Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản năm 2013. 5. Sáng kiến “Chỉ đạo tổ chức công tác dạy và học mô hình trường học mới (VNEN) ở trường tiểu học” của thầy Lê Công Khôi, Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi, huyện Krông Ana. 6. Đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN)”, tác giả Trương Thị Bích, Đại học Sư phạm Hà Nội.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_sau_giai_phap_chi_dao_to_chuc_cong_tac.docx