Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹnăng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh Lớp 3 trong môn Luyện từ và câu
Thực trạng chất lượng dạy học
a. Ưu điểm
Tiếng Việt vừa là môn học chính vừa là công cụ giúp học sinh tiếp thu các môn học khác, là bước khởi động, là cánh cửa để dẫn dắt người học khai thác những giá trị của câu, từ. Đồng thời còn giúp học sinh có thể hình thành và phát triển các kĩ năng giao tiếp trong môi trường hoạt động của các em. Đó là kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Ngôn ngữ gắn liền với tư duy nên thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy.Góp phần giúp học sinh củng cố lý thuyết về cách dùng từ so sánh, từ đó học sinh biết phân biệt, biết cách so sánh hình ảnh trong thơ văn.Giúp học sinh tiếp cận kịp thời với sách giáo khoa đồng thời giúp giáo viên có được các phương pháp rèn luyện học sinh kỹ năng sử dụng biện pháp so sánh ở lớp 3.Góp phần giúp học sinh lóp 3 học tốt hơn nữa phân môn Luyện từ và câu trong môn Tiếng Việt. Học sinh có hứng thú học tập phân môn Luyện từ và câu, từ đó giúpcác em học tốt các phân môn khác như phân môn Tập làm văn, Kể chuyện. và biết áp dụng vào thực tế cuộc sống.
-Đa số các em có ý thức trong việc học, có chuẩn bị bài khá chu đáo trước khi
đến lớp, một số em đã biết dùng từ đặt câu, diễn đạt tương đối lưu loát.
- Đời sống kinh tế của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao nên việc
đầu tư cho con cái học tập cũng có những thuận lợi nhất định
- Một số em có năng khiếu về môn Tiếng Việt cho nên khi học các phân môn
Luyện từ và câu, Chính tả, Tập đọc.các em dễ dàng biết tìm từ so sánh, các sự vật
được so sánh, nhân hóa; biết dùng từ đặt câu, viết đúng chính tả, diễn đạt tương đối
tốt.
-Nhà trường có đội ngũ cán bộ quản lí có năng lực, tâm huyết, năng động, nhiệt tình; đội ngũ giáo viên yêu nghề mến trẻ, hết lòng vì học sinh thân yêu. Trường nhiều năm liền đạt danh hiệu tập thể lao động xuất sắc.
- Phần đông các em có nhà gần trường, tỉ lệ đi học chuyên cần cao.
- Điều kiện cơ sở vật chất của trường lớp tương đối khang trang, lớp có đủ điều kiện cho các em học tập.
b. Tồn tại
- Phân môn Luyện từ và câu lại được coi là phân môn vừa khô vừa khó cho cả người dạy và người học cảm thấy khó khăn khi truyền đạt cũng như khi lĩnh hội kiến thức.
- Các em cóthể nhận diện (tìm) những sự vật được so sánh, hình ảnh so sánh, các
vế so sánh, từ chỉ so sánh, đặc điểm so sánh được nói đến trong câu (đoạn văn), thơ
hoặc văn bản nhưng mới chỉ cảm nhận một cách chung chung
- Các em sẽ gặp khó khăn khi vận dụng đặt câu (nói, viết) có dùng phép so sánh, tìm từ, đặt câu, phép nhânhóa. vì vốn từ còn ít chưa có thói quen và chưa biết cách quan sát, nhận xét sự vật,hiện tượng để tìm ra những đặc điểm giống nhau. Bởi vậy câu văn của các em chỉ mang nội dung thông báo chứ chưa có sức gợi cảm, gợi tả.
- Do đặc thù của lớp đối tượng nhận thức của các em không đồng đều, thêm vào đó
các em chưa thực sự quan tâm, yêu thích môn Luyện từ và câu hoặc chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của môn học.
- Các từ cần giải nghĩa đa số là từ Hán Việt nên học sinh khó hiểu, khó giải nghĩa.
Các từ, các thành ngữ, tục ngữ cần giải nghĩa, cần tìm có nghĩa gần giống nhau,
khiến cho học sinh khó phân biệt nghĩa của chúng.
-Ranh giới giữa các cụm từ hoặc từ trong tiếng Việt không mang tính xác định,
không dễ nhận biết nên các em còn thiếu tự tin khi học phân môn này.
-Bên cạnh đó học sinh còn chưa xác định rõ được động cơ học tập, lười học, các
em ở lứa tuối này chưa có được vốn từ ngữ dồi dào, dùng từ thiếu chính xác.Điều
này ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt cũng như các môn
học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm cho các em mất tự tin, trở nên rụt rè,nhút nhát
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN KỸNĂNG NHẬN BIẾT BIỆN PHÁP SO SÁNH CHO HỌC SINH LỚP 3 TRONG MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU PHẦN I. ĐẶT VẾ ĐỀ Một trong những nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đào tạo hiện nay là hìnhthành và phát triển nhân cách cho học sinh một cách toàn diện. Do đó Tiếng Việt là môn học có vị trí đặc biệt quan trọng, góp phần tích cực vào rèn kĩ năng giao tiếp, góp phần bồi dưỡng tâm hồn, hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho người học sinh. Môn TiếngViệt giúp cho học sinh 4 kĩ năng “nghe, nói, đọc, viết”. Các bộ phận cấu thành của môn Tiếng Việt trong trường tiểu học bao gồm: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm văn... Vấn đề đặt ra làngười giáo viên dạy Luyện từ và câu như thế nào để nâng cao chất lượng, đáp ứng được khả năng tiếp thu bài của học sinh? Cách thức tổ chức, tiến hành tiết dạy Luyệntừ và câu ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn. Trong thực tế những năm đã từng đứng trên bục giảng, tôi nhận thấy khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản, trực quan nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn hạn chế, phần lớn học sinh chỉ mới biết một cách cụ thể nghĩa của từ nên khi tiếp thu về nghệ thuật so sánh tu từ rất khó khăn. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên cần hướng dẫn một cách tỉ mỉ, thực tế. Điều đó khiến tôi luôn trăn trở, suy nghĩ: Làm thế nào? Bằng cách nào để khơi gợi ở học sinh hứng thú, say mê học tập môn Luyện từ và câu. Vì thế đây là vấn đề tôi băn khoăn, trăn trở, khiến tôi tiến hành nghiên cứu tìm ra biện pháp “Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu” PHẦN II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1.Thực trạng chất lượng dạy học a. Ưu điểm Tiếng Việt vừa là môn học chính vừa là công cụ giúp học sinh tiếp thu các môn học khác, là bước khởi động, là cánh cửa để dẫn dắt người học khai thác những giá trị của câu, từ. Đồng thời còn giúp học sinh có thể hình thành và phát triển các kĩ năng giao tiếp trong môi trường hoạt động của các em. Đó là kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Ngôn ngữ gắn liền với tư duy nên thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy.Góp phần giúp học sinh củng cố lý thuyết về cách dùng từ so sánh, từ đó học sinh biết phân biệt, biết cách so sánh hình ảnh trong thơ văn.Giúp học sinh tiếp cận kịp thời với sách giáo khoa đồng thời giúp giáo viên có được các phương pháp rèn luyện học sinh kỹ năng sử dụng biện pháp so sánh ở lớp 3.Góp phần giúp học sinh lóp 3 học tốt hơn nữa phân môn Luyện từ và câu trong môn Tiếng Việt. Học sinh có hứng thú học tập phân môn Luyện từ và câu, từ đó giúpcác em học tốt các phân môn khác như phân môn Tập làm văn, Kể chuyện... và biết áp dụng vào thực tế cuộc sống. -Bên cạnh đó học sinh còn chưa xác định rõ được động cơ học tập, lười học, các em ở lứa tuối này chưa có được vốn từ ngữ dồi dào, dùng từ thiếu chính xác...Điều này ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm cho các em mất tự tin, trở nên rụt rè,nhút nhát - Một bộ phận học sinh lười học, đọc cho nên làm bài tập còn nhiều hạn chế về câu, từ, nghĩa của từ...; - Ít chú trọng đến môn học; - Ngại học Luyện từ và câu, làm bài tập thực hành. - Khả năng nhớ, hiểu và vận dụng kiến thức trong quá trình học tập của các em còn yếu. - Hiện nay đa số các em lười nhác học Luyện từ và câu, nhiều em chưa đọc kĩ đề bài, chuẩn bị bài sơ sài. Thậm chí nhiều em còn chưa biết chọn từ ngữ xếp vào bảng phân loại theo nghĩa của chúng, không nhớ các từ dùng để so sánh hai sự vật. Bài làm còn sai chính tả, ngữ pháp, chưa biết chọn từ thích họp để điền vào chỗ chấm ...Từ việc học yếu lại không được thầy cô quan tâm, uốn nắn kịp thời, không có cơhội được thể hiện trước lớp dẫn đến một số em buồn chán trong việc học dẫn đến không hiểu, nghèo vốn từ. Học sinh chưa có hứng thú học tập phân môn này. Đa số các em đều cho rằng Luyện từ và câu là môn học khó. Một số kiến thức còn trừu tượng, khó hiểu, phần lý thuyết cũng không có, học sinh chỉ được hiểu qua những bài tập làm mẫu của giáo viên rồi cảm nhận và làm các bài tập còn lại vì thế học sinh thường ngại học phân môn này. Chất lượng phân môn Luyện từ và câu đầu năm rất thấp, học sinh chưa biết làm những bài tập có ý tưởng phong phú, sáng tạo mà chỉ biết trả lời theo câu hỏi gợi ý.Đấy là vấn đề nan giải đòi hỏi giáo viên phải có biện pháp thích hợp để từng bước giảng dạy đạt kết quả - Đứng trước thực tế đó tôi nhận thấy nhiệmvụ mỗi giáo viên chúng ta phải thường xuyên nghiên cứu, tìm hiểu tâm tư nguyệnvọng của từng đối tượng học sinh để vận dụng phương pháp giảng dạy phù hợp nhằm mục đích cuối cùng là các em ngày càng yêu thích môn Luyện từ và câu, áp dụng làm bài tập tốt hơn, là cơ sở để học tốt các môn học khác. 2.Biện pháp để nâng cao chất lượngdạy học - Qua nhiều năm học tôi tìm hiểu thấy được một số tồn tại trên, nay tôi đã tiến hành thực hiện biện pháp“Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu” giúp các em làm tốt hơn các dạng so sánh trong phân môn luyện từ và câu như sau: Biện pháp 1: Kết hợp hài hòa các phương pháp giảng dạy, sử dụng tốt đồ dùng , ứng dụng công nghệ thông tin và dạy học trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3. về một vấn đề. Qua đó học sinh lĩnh hội kiến thức, tích cực, tự giác. Không khí học thoải mái khiến học sinh mạnh dạn, tự tin khi nói. Các em có khả năng diễn đạt, phát biểu ý kiến trước đông người một cách lưuloát, rành mạch. Với mỗi bài tập giáo viên có thể chép sẵn ngữ liệu hoặc đáp án ra bảng phụ trước khi bước vào giờ học và sử dụng bảng phụ hợp lý với tiến trình giờ học. Sau khi đã yêu cầu học sinh làm bài tập cá nhân hoặc theo nhóm giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng chữa trực tiếp, có thể dùng giấy khổ to để ghi lại nội dung bài tập, nếu bảng phụ không đủ. Tương tự như bảng phụ và giấy khổ to, các bảng giấy hoặc thẻ từ ghi sẵn ngữ liệu cũng là những đồ dùngdạy học hiệu quả nên được sử dụng linh hoạt trong tiết Luyện từ và câu Đặc biệt ngày nay công nghệ thông tin đang phát triển chúng ta có thể áp dụng trong dạy kiểu bài so sánh bằng cách đưa ra các hình ảnh động hoặc tranh ảnh để học sinh cảm nhậnrõ sự giống và khác nhau giữa các sự vật. Từ đó các em sẽ dễ dàng so sánh sự vật mộtcách chính xác, chắc chắn giờ học sẽ sinh động và hiệu quả. Tuy nhiên giáo viên cầnphải biết sử dụng khéo léo hợp lý đồ dùng với từng bài tập, không quá lạm dụng hìn ảnh. Ngoài ra trong quá trình dạy học giáo viên có thể thiết kế và sử dụng phiếu bài tập nhằm thay đổi hình thức tổ chức dạy học, tạo hứng thú cho các em trong giờ học.Chẳng hạn có thể thiết kế phiếu bài tập cho tiết Luyện từ và câu. Trong các tiết Luyện từ và câu ta có thể sử dụng nhiều đồ dùng dạy học khác nhau để giờ học sinh động, hấp dẫn, không tẻ nhạt. Giáo viên phải biết phối hợp sử dụng các đồ dùng dạy học một cách linh hoạt. Có như vậy hiệu quả tiết dạy mới được như mong muốn. Giáo viên cần nắm vững và tích cực vận dụng đổi mới phương pháp dạy học khi dạy Luyện từ và câu; Để học sinh tự thực hành các bài tập, làm quen khám phá kiến thức. Cuối bài giáo viên có thể tóm tắt (chốt kiến thức) thật ngắn gọn để học sinh nắm chắc bài. Ví dụ: Bài 1 trang 24. Sau khi học sinh luyện tập tìm được các hình ảnh so sánh trong những khổ thơ sau: “Mắt hiền sáng tựa vì sao Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời” (Thanh Hải) “Mùa đông Trời là cái tủ ướp lạnh” (Lò Ngân Sùn) Giáo viên cho các em bước đầu cảm nhận được trong mỗi hình ảnh so sánh các sự vật đều có những nét tương đồng (đặc điểm giống nhau) chẳng hạn: “Em yêu nhà em Hàng xoan trước ngõ Hoa xao xuyến nở cách so sánh sự vật này với sự vật khác như vậy có tác dụng gì? (nhằm làm tăng thêm vẻ đẹp của sự vật được nói tới...). Tôi thống kê phân tích các hướng nghiên cứu biện pháp so sánh trong phân môn Luyện từ và câu của chương trình sách giáo khoa lớp 3 phục vụ cho việc giảng dạy. Kiến thức lý thuyết về so sánh tu từ được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 3 ở phân mônLuyện từ và câu. Toàn bộ chương trình Tiếng Việt 3 - Tập I đã dạy về so sánh gồm 8 bài với các kiểu so sánh sau: -Kiểu so sánh 1: So sánh Sự vật - Sự vật. -Kiểu so sánh 2: So sánh Sự vật - Con người. -Kiểu so sánh 3: So sánh Hoạt động - Hoạt động. -Kiểu so sánh 4: So sánh Âm thanh - Âm thanh. Tác giả sách giáo khoa đã giúp học sinh nhận diện dạng, loại và phân biệt hiệu quả so sánh qua các dạng bài tập. Tùy theo nội dung và từng đối tượng học sinh, giáo viên có thể áp dụng các biện pháp hoặc một biện pháp chủ đạo kết hợp với một số biện pháp bổ trợ khác, về cơ bản tôi thấy có một số biện pháp sau: Phân biệt kiểu so sánh phân môn Luyện từ và câu lớp 3: Trong sách giáo khoa có ít bài tập sáng tạo, kiến thức còn mang tính trừu tượng nên giáo viên cần phải sưu tầm nhiều dạng bài sáng tạo và kiến thức cụ thể nói theo tình huống. Vì khi giáo viên đưa lệnh bài tập cần rõ ràng để học sinh hiểu được mục đích yêu cầu của bài tập. Khi dạy các phân môn thuộc bộ môn Tiếng Việt người giáoviên cần lồng ghép giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt với nhau như khi dạy bài: Tập đọc: “Hai bàn tay em” (Trang 7- Sách giáo khoa Tiếng Việt 3 - Tập I) Trong bài này có rất nhiều hình ảnh tu từ so sánh giáo viên cần nhấn mạnh để gây hứng thú cho tiết tiếp theo của môn Luyện từ và câu. Để học sinh học tốt môn Tiếng Việt đặc biệt là phân môn Luyện từ và câu, dạng bài tu từ so sánh học sinh cần nắm và làm theo cácyêu cầu sau - Đọc kỹ đề bài, xác định đúng yêu cầu của bài sau đó mới làm bài. Muốnhọc sinh của mình có một kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh vững vàng đòi hỏingười giáo viên phải có nghệ thuật khi hướng dẫn các dạng bài tập về kiểu bài so sánh như: a) Kiểu so sánh 1: So sánh Sự vật - Sự vật. * Ví dụ: Tìm sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn dưới đây: “Hai bàn tay em Như hoa đầu cành” (Huy Cận) “Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch” (Vũ Tú Nam) “Cánh diều như dấu á
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_ren_kynang_nhan_biet_bien_phap_so_sanh.docx